Chuyên đề:
Một hướng tiếp cận giảng dạy VBND trong môn Ngữ Văn
THCS
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Lý do chọn đề tài:
1. Cơ sở lý luận:
- Mục tiêu của môn Ngữ Văn: “góp phần hình thành những con người có trình độ
học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ ra đời hoặc tiếp tục cho họ học lên bậc
cao hơn. Đó là những người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia
đình, bạn bè; có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; biết hướng tới những tư
tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những người biết rèn luyện để có tính tự
lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm nhận các giá trị chân thiện mĩ
trong nghệ thuật, có năng lực thực hành và sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để
tư duy, giao tiếp”. Mục tiêu đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành giảm lý
thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động
của cuộc sống.
- Xuất phát từ yêu cầu đó các văn bản nhật dụng đưa vào chương trình Ngữ Văn
THCS, với nội dung “gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người
và cộng đồng trong xã hội hiện đại” hướng người học tới những vấn đề thời sự
hàng ngày mà mỗi cá nhân, cộng đồng đều quan tâm như môi trường, dân số, sức
khỏe cộng đồng, quyền trẻ em…Do đó những VB này đã tạo cơ hội rõ rệt hơn cho
việc dạy học gắn liền với đời sống, giúp người dạy đạt được mục tiêu: tăng tính
thực hành, giảm lý thuyết, gắn bài học với thực tiễn.
- Trong những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học đã tạo
điều kiện thuận lợi để GV gắn kết những vấn đề được đề cấp đến trong VBND với
các vấn đề của đời sống….Đó là việc lồng ghép các kênh hình , tiếng trong bài
dạy…
- Theo định hướng của Chuẩn KTKN: đó là “yêu cầu tối thiểu về KT, KN của môn
học mà HS cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức”, nhằm giảm tải
chương trình học, chú trọng vạn dụng kiến thức, tăng cường thực hành, gắn nội
dung bài học với thực tiễn cuộc sống.
- Phát triển, hình thành kĩ năng sống cho HS là 1 mục tiêu quan trọng của GD,
cũng như hưởng ứng cuộc vận động: “Trường học thân thiện, Học sinh tích cực”.
2. Cơ sở thực tiễn:
-Hiện nay HS thường có xu hướng xem nhẹ việc học những môn Xã hội nói chung,
cũng như môn Ngữ Văn nói riêng. Mà thường hướng chú ý vào những môn mang
tính thời cuộc như ngoại ngữ, tin học…Do đó mà chất lượng học môn Ngữ Văn có
chiều hướng giảm sút. Ngoài khó khăn chung đó, việc dạy học VBND ở THCS còn
gặp phải một số trở ngại sau:
• Về phía HS:
+ HS khó nắm bắt nội dung các VBND, do không có thói quen nắm nội
dung VB mà không được dựa trên cốt truyện, hệ thống nhân vật ( khó khăn này
cũng xảy ra khi HS học VBNL)
+ HS mơ hồ, không xác định đúng được PTBĐ của các VBND (hạn chế về
kiến thức LLVH) từ đó không định hướng, không nắm chắc được hướng tiếp cận
VB. (Dù rằng SGK có định hướng rõ ở phần KQ cần đạt, ở các câu hỏi trong phần
Đọc_Hiểu VB, nhưng do khả năng khái quát, tổng hợp vấn đề còn hạn chế; Do
việc soạn, chuẩn bị bài ở nhà một phần chỉ mang tính đối phó).
+ Khả năng, kĩ năng liên hệ các vấn đề cập nhật được nói đến trong VB của
HS còn hạn chế do: vốn kiến thức, vốn sống hạn chế; thiếu tinh thần tự giác, tích
cực trong học tấp; kỹ năng trình bày ý kiến còn yếu…đặc biệt là HS các vùng nông
thôn, vùng ven thành phố, nơi có mặt bằng dân trí thấp, ít điều kiện tiếp cận các
kênh thông tin VH-XH.
• Về phía GV: Từ thực tế giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp chúng tôi nhận
thấy một số thực trạng sau:
+ Một là, GC thường quá chú trọng vào việc khai thác, bình giá phương diện
hình thức ngôn từ của VB mà xem nhẹ, chưa chú trọng đến vấn đề XH đặt ra trong
VB. Nghĩa là dạy VBND như dạy các VB văn học.
+ Hai là, ngược lại GV quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết vấn đề trong VB với
đời sống, chú ý nhiều đến việc liên hệ thực tế mà xem nhẹ yếu tố nghệ thuật, dẫn
đến việc khai thác VB không đầy đủ. Giờ dạy NV dễ biến thành một giờ dạy
GDCD, 1 bài thuyết minh về các vấn đề môi trường, lịch sử…
+ Ba là, GV ý thức được cả 2 vấn đề trên thì lại thường lúng túng khi đi tìm
một định hướng tiếp cận VBND có hiệu quả (tiếp cận VB ở góc độ nào? Nội dung
hay hình thức NT? ) việc lồng ghép các kênh hình, tiếng sao cho có hiệu quả mà
vẫn đảm bảo thời lượng của một bài học… Do đó việc liên hệ với thực tế, gắn kết
kiến thức của bài học với các vấn đề cập nhật của đời sống XH còn mang tính máy
móc; hoặc chưa tích hợp được với các môn học khác như GDCD, Lịch sử, Địa lí…
khi khai thác các vấn đề nhật dụng của VB.
Qua tìm hiểu, chúng tôi xin đưa ra một số nguyên nhân lí giải cho thực trạng
trên như sau:
- GV thiếu một định hướng, một PPDH cụ thể khi tiếp cận dạy học VBND.
- Việc vận dụng CNTT, phát huy ưu điểm của kênh hình, kênh tiếng trong việc liên
hệ các vấn đề nhật dụng của VB với đời sống của GV còn hạn chế.
- Chưa làm cho HS thấy được sự “gần gũi”, “bức thiết” của các vấn đề nhật dụng
trong VB để các em hiểu rằng vấn đề được đề cập đến trong VB cũng là vấn đề của
các em, liên quan đến cuộc sống của các em.
Xuất phát từ những lí do trên, nhóm Văn tổ Văn_Nhạc_Họa trường chúng tôi đã
mạnh dạn triển khai chuyên đề: “Một hướng tiếp cận giảng dạy VBND trong môn
Ngữ Văn THCS”
II. Mục đích và đối tượng nghiên cứu:
1. Mục đích nghiên cứu: Đưa ra một hướng giải quyết những tồn tại
về mặt PPDH, ứng dụng CNTT trong dạy học, nhằm có thêm kinh nghiệm đẻ dạy
học có hiệu quả phần VBND, đáp ứng tốt những yêu cầu của Chuẩn KT-KN môn
Ngữ Văn THCS.
2. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình giảng dạy NV phần VBND ở các
khối lớp 6, 7, 8, 9 Trường THCS Cao Thắng từ niên khóa 2007-2008 đến nay. Cụ
thể là tiết 129: Động Phong Nha _ Ngữ Văn 6_ Lớp 6
2
III. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai chuyên đề này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát: hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự giờ đồng
nghiệp để rút ra ưu nhược điểm của các tiết dạy VBND.
- Phương pháp so sánh: để đối chiếu, phân loại các cách dạy VBND khác nhau,
cũng như đánh giá kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: được sử dụng để tìm hiểu những đặc điểm của
các VBND trong CT THCS qua các bảng thống kê, nhằm xác định được nét đặc
thù khi dạy VBND.
- Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác như: phương
pháp đọc tài liệu, thăm dò ý kiến HS, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp.
B.NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
I. Văn bản nhật dụng trong môn Ngữ Văn THCS:
- Văn bản nhật dụng là gì? Trước hết phải hiểu đây không phải là một khái niệm
chỉ thể loại hay kiểu văn bản. Nói đến VBND là nói đến tính chất nội dung của
VB. Đó là những bài viết có tính gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt
của con người và cộng đồng xã hội hiện đại như: thiên nhiên, môi trường, năng
lượng, dân số, quyền trẻ em, ma túy…
- Trong chương trình NV THCS, lấy những hướng dẫn của các tác giả SGV, NV6,
NV9 làm những chỉ dẫn quan trọng để nhận diện VBND, chúng ta thấy số lượng
VBND chiếm khoảng 10% trên tổng số các VB (cụ thể là 12). Tuy chiếm một số
lượng không lớn, nhưng việc giảng dạy VBND lại đặt ra nhiều vấn đề bởi những
đặc thù riêng của loại văn bản này:
+ Mục đích của việc dạy VBND trong chương trình THCS có đặc điểm
giống và khác so với dạy các kiểu VB khác.
+ Mục tiêu cần đạt của bài học VBND gắn liền với việc liên hệ thực tế với
các vấn đề đời sống – xã hội mà VB đề cập tới. Đặc biệt là khâu lồng ghép giáo
dục kinh nghiệm sống cho HS.
+ Nội dung, đề tài của các VBND hết sức phong phú, đề cập đến mọi mặt
của đời sống –xã hội hiện đại.
+ Sự đa dạng về PTBĐ (kiểu VB), về thể loại (truyện ngắn, kí, tùy bút..);
Các VBND thường có sự kết hợp đan xen của nhiều yếu tố miêu tả, tự sự, thuyết
minh, biểu cảm…nhằm thông qua ngôn ngữ VH (các VBND trong chương trình
NV THCS “luôn có một giá trị nghệ thuật nhất định; hướng người đọc đến những
vấn đề sinh động của cuộc sống”).
+ Việc sử dụng CNTT, vận dụng các kênh hình, tiếng bổ trợ làm sao cho
linh hoạt đạt hiệu quả, khi nguồn tài liệu (hình ảnh) của các VBND còn quá sơ sài,
đơn điệu, giá trị sử dụng không cao.
+ Phân bố thời lượng của các bài học VBND tương đối hợp lí. Tuy nhiên
vẫn có những bài dài, GV không đủ thời lượng chuyển tải nội dung kiến thức nếu
không có sự đổi mới về PPDH, hay vận dụng hợp lí các PTDH hiện đại.
Để cụ thể, hệ thống hóa một số đặc điểm vừa nêu trên của hệ thống các VBND
trong môn Ngữ Văn THCS, chúng tôi xin trình bày bảng thống kê sau:
Bảng thống kê đặc điểm của các VBND trong môn Ngữ Văn THCS:
Qua việc tìm hiểu hệ thống VBND trong Ngữ Văn THCS cũng như thực trạng và
nguyên nhân của việc Dạy –Học VBND, chúng tôi xin được đề xuất một hướng
tiếp cận nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy như sau:
II. Hướng tiếp cận Dạy – học Văn bản nhật dụng:
Dựa theo những hướng dẫn có tính chỉ định của các tác giả SGK Ngữ Văn THCS,
chúng tôi thấy cần xác lập một số định hướng để việc dạy học VBND có hiệu quả,
đó là:
+”Không nên quan niệm VBND là những sáng tác tiêu biểu cho các tác
phẩm văn học, từ đó đặt ra và đòi hỏi quá cao yêu cầu về nghệ thuật của VB”,mà
nên xem xét những VBND trong tư cách của các thông điệp tư tưởng được trình
bày dưới dạng ngôn từ.
+”Khi dạy VBND, GV cần tập trung khai thác các vấn đề nội dung tư tưởng
đặt ra ở mỗi văn bản, từ đó mà liên hệ, giáo dục tư tưởng tình cảm và ý thức cho
HS trước các vấn đề mà XH đang quan tâm.Từ đó, nắm chắc đặc điểm và ý nghĩa
của các nội dung đặt ra trong mỗi văn bản để hướng dẫn HS tự liên hệ, rút ra bài
học cho chính bản thân mình”. Biến những vấn đề nhật dụng được đề cập trong VB
thành những vấn đề “gần gũi“, “bức thiết” với cuộc sống của địa phương, gia đình
và cá nhân mỗi HS.
+ Dù có đề cập vấn đề thời sự bức thiết đến đâu, VBND trong chương trình
SGK cần phải “được dạy như một VB văn học xét về phương diện phân tích từ
ngữ, thủ pháp nghệ thuật cũng như thi pháp thể loại”. Vì thế khi dạy VBND, cần
căn cứ vào các nội dung đang học và đã học ở 2 phần Tiếng Việt và TLV để xác
định trọng điểm phân tích về mặt giá trị NT của VB và ngược lại theo tinh thần
tích hợp các phân môn.
Từ xác định hướng trên, có thể khái quát hướng tiếp cận Dạy- học VBND
của chúng tôi gồm các vấn đề:
+ Xác định mục tiêu bài học: Trên cơ sở mức độ cần đạt, trọng tâm kiến
thức, kĩ năng của HDTH Chuẩn KT-KN môn Ngữ Văn THCS có lồng ghép giáo
dục kĩ năng sống cho HS.
+ Chuẩn bị Dạy- học VBND: Chuẩn bị kiến thức liên quan, hỗ trợ cho việc
tìm hiểu tri thức của bài học của GV và HS; Chuẩn bị phương tiện DH phù hợp với
yêu cầu đáp ứng cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến chủ đề VB(sử dụng giáo
án điện tử)…
+ Lựa chọn PPDH phù hợp với đặc trưng PTDH của mỗi VB; đáp ứng dạy
học tích hợp –tích cực.
+ Đồng thời phát huy tính sáng tạo của GV, HS trong từng hoàn cảnh, từng
bài học VBND cụ thể.
Nếu giải quyết triệt để được những vấn đề trên, chúng tôi hy vọng sẽ có một
hướng tiếp cận dạy học VBND có hiệu quả.
Dưới đây là những đề xuất của chúng tôi, có ví dụ cụ thể cho từng phân
lượng KT của bài dạy VBND:
1. Xác định mục tiêu bài học VBND:
Mục đích giáo dục kiến thức, kỹ năng, thái độ của môn học trong nhà trường
đòi hỏi mỗi bài học có mục đích riêng của nó. Mục đích riêng này không chỉ phụ
thuộc vào đặc điểm của môn học, phân môn mà thậm chí là đặc trưng của mỗi
phần học, mỗi bài học cụ thể.
Môn ngữ văn nói chung, đặc biệt là phần VBND không nằm ngoài đặc
trưng này, bởi tính phong phú, đa dạng về đề tài, nội dung nhật dụng, phương thức
biểu đạt của nó… Nhưng chung qui lại có hai điểm nhấn mà bài học VBND tác
động đối với người học : mục tiêu trang bị kiến thức và mục tiêu trau dồi tư tưởng,
tình cảm, thái độ.
+) Về kiến thức:
Dạy học VBND giúp HS hiểu đúng ý nghĩa xã hội ( ý nghĩa thời sự cập
nhật) qua việc tự nắm bắt vấn đề “xã hội gần gũi bức thiết được đề cập”đến trong
văn bản.
Ví dụ: Với văn bản “ Cuộc chia tay của những con búp bê”
Khi nhìn nhận truyện ngắn này như 1 VBND thì dù không bỏ qua các dấu
hiệu hình thức nổi bật của văn bản, nhưng mục tiêu chính là thông qua phát hiện
nội dung văn bản, tìm hiểu vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với HS, đánh
thức tình cảm chia sẻ với bạn bè có cảnh ngộ như hai anh em Thành Thủy trong
truyện và ý thức về quyền được hưởng niềm vui, hạnh phúc của trẻ em.Đó sẽ là ý
nghĩa cập nhật của bài học .Và là mục tiêu kiến thức chủ yếu mà bài học VBND
này hướng tới.
Cơ hội để các tri thức cập nhập về vấn đề thiết thực vừa có ý nghĩa thời sự
lại vừa có ý nghĩa lâu dài là các thế mạnh của bài học VBND, nhưng mục tiêu dạy
học VBND không dừng lại ở việc cung cấp tri thức trong văn bản mà còn mở rộng
nhận thức của người học theo vấn đề được đề cập trong văn bản.
Ví dụ: Ý nghĩa chứng nhân lịch sử của cầu Long Biên có thể gợi ra ở HS những
liên tưởng về nhiều cây cầu chứng nhân lịch sử khác trên khắp đất nước như:cầu
Hiền Lương, Hàm Rồng, Thăng Long, Mỹ Thuận…
Hay Bức thư của thủ lĩnh da đỏ sẽ gợi cho HS những liên hệ về thực trạng
bạo động về môi trường sống và sức khỏe con người ở mỗi làng quê, thành phố
…..đang bị chính con người hủy hoại.