Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM KHI GIA NHẬP CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI FTA VÀ TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.93 KB, 9 trang )

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 160

GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM KHI GIA NHẬP CÁC HIỆP
ĐỊNH THƯƠNG MẠI FTA VÀ TPP
TS. Nguyễn Thị Thúy
Khoa Kinh tế - Quản lý, Trường Đại học Thăng Long
Email:
Tóm tắt: Việt Nam đang mở ra những bước tiến mới trong hội nhập kinh tế thế giới,
bằng những hiệp định thương mại đa phương và song phương nhằm tăng thế và lực trong
tăng trưởng bền vững nền kinh tế. Bài này đưa ra phân tích những thuận lợi và khó khăn
thách thức phải vượt qua của nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
xuất khẩu nói riêng. Tác giả kiến nghị những giải pháp đón đầu thực thi có hiệu quả các hiệp
định thương mại sắp tới.
Từ khóa: FTA, TPP, Việt Nam, toàn cầu hóa, hiệp định thương mại.
Đặt vấn đề: Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế khu vực - thỏa thuận
thương mại giữa các khối quốc gia - đã tăng cường trong những năm gần đây. Sự phát triển
này có nghĩa là các công ty có nhiều khả năng thâm nhập toàn khu vực trong cùng thời gian.
Một số quốc gia đã hình thành khu vực thương mại tự do hay cộng đồng kinh tế - nhóm các
quốc gia được tổ chức để hoạt động hướng về các mục tiêu chung trong quy chế thương mại
thế giới. Những cộng đồng bao gồm các tổ chức. Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(APEC), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), và Khu
vực thương mại tự do Mỹ Latinh (MERCOSUL).
APEC: Hai mươi mốt quốc gia ven bờ Thái Bình Dương, bao gồm các nước thành
viên NAFTA, Nhật và Trung Quốc, đang làm việc để hình thành một khu vực mậu dịch tự do
Liên Thái Bình Dương dưới sự bảo trợ của diễn đàn APEC. Cũng có những nỗ lực tích cực
hội nhập kinh tế khu vực Caribbean, Đông Nam Á, và các phần của Châu Phi.
EU: EU bao gồm 25 nước thành viên với hơn 454 triệu người tiêu dùng, và chiếm
23% xuất khẩu của thế giới. EU có đồng tiền chung, đồng euro, và cung cấp cơ hội thương
mại to lớn cho các công ty không thuộc Châu Âu. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra những mối đe


dọa khi các Công ty Châu Âu phát triển lớn hơn và cạnh tranh hơn. EU cũng không phải là thị
trường đồng nhất, khi các công ty sẽ đối mặt với 14 ngôn ngữ, 2,000 năm khác biệt về lịch sử
và văn hóa, và vô số luật lệ địa phương.
NAFTA: NAFTA gồm Mỹ, Canada và Mexico. Vùng này có 360 triệu người tiêu thụ
hàng chục tỷ Đôla hàng hóa và dịch vụ hàng năm.
MERCOSUL: Vùng này hiện nay liên kết Braxin, Argentina, Paraguay, Uruguay,
Chile và Mexico, và có thể hòa nhập với NAFTA để hình thành khu vực mậu dịch tự do các
nước châu Mỹ.
Việt Nam đã và đang thực hiện những hiệp định thương mại được ký kết vào thời gian
từ năm 2000 đến nay như:
- Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC)
- Tổ chức thương mại Thế giới (WTO)
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 161

- Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ (BTA)
- Hiệp định thương mại tự do ASEAN.
- Là sáng lập viên diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)
- Cùng với các nước ASEAN ký Hiệp định thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc; ASEAN - Hàn Quốc; ASEAN - Ấn Độ; ASEAN Úc và Niu-Di-Lân; ASEAN -
Mỹ; ASEAN - Nga…
Việt Nam đang đàm phán sẽ hoàn tất và ký Hiệp định trong thời gian tới như:
+ Hiệp định thương mại tự do giữa EU và Việt Nam (FTA)
+ Hiệp định thương mại tự do - Liên minh hải quan giữa Việt Nam, Liên bang Nga,
Benlarút và Kasastan.
+ Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một đàm phán
thương mại tự do nhiều bên, với mục tiêu thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho
các nước đối tác trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Cho đến nay, đã có 12 nước tham
gia vào đàm phán TPP (bao gồm New Zealand, Brunei, Chile, Singapore, Australia, Peru,

Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico và Nhật Bản). Đàm phán TPP hiện đang là
một trong những đàm phán thương mại quan trọng nhất của Việt Nam. Theo đánh giá của các
chuyên gia thì TPP là một hiệp định của thế kỷ 21 vì độ lớn và tầm vóc ảnh hưởng của nó
(Luật sư Trần Hữu Huỳnh - Chủ tịch Ủy ban tư vấn về chính sách thương mại quốc tế,
Trưởng Ban pháp chế của VCCI). Ngoài ra, ông Jay L. Eizenstat, Esq, luật sư cao cấp về
chính sách của Công ty Miller & Chevallier của Hoa Kỳ cho rằng: TPP là một hiệp định
thương mại tư do khu vực toàn diện có thể đem đến những cơ hội rất lớn cho Việt Nam kết
nối nền kinh tế của mình với Hoa Kỳ và các thành viên TPP khác. Nó có thể mang lại lợi ích
kinh tế lớn cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thuận lợi
cho thương mại và hiệu quả trong chuỗi cung ứng, hiện đại hoá các lĩnh vực dịch vụ, đẩy
nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, mở cửa thị trường mua sắm; thuận lợi trong
tiếp cận thị trường tất cả các nước TPP, trong đó có các lĩnh vực quan trọng của Việt Nam
như nuôi trồng thuỷ sản, dệt may, da giầy, đồ nội thất; được giảm thuế đối với hàng hoá xuất
khẩu sang Hoa Kỳ, cắt giảm thuế đối với nhà nhập khẩu Hoa Kỳ; cải thiện các biện pháp hạn
chế nhập khẩu; có cơ hội được công nhận là nền kinh tế thị trường sớm hơn
Như vậy, về phạm vi, so với các hiệp định khác và trong WTO, Hiệp định thương mại
xuyên Thái Bình Dương mở rộng hơn cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu
tư, sở hữu trí tuệ và còn cả những vấn đề phi thương mại như môi trường, lao động, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mua sắm của chính phủ (luật sư Trần Hữu Huỳnh), trong
đó thương mại hàng hóa giữ vị trí hàng đầu.
Với phạm vi như vậy, cùng với các cam kết sâu và mở ra cho các nước tham gia có
trình độ phát triển khác nhau yêu cầu giống nhau (một mẫu số chung) nên chắc chắn có ảnh
hưởng rất lớn cho sự phát triển một khối và cho từng thành viên tham gia. Người ta dự báo lợi
ích mang lại cho một khối trên 1.000 tỷ USD, mà các nước đang phát triển thu về trên 2/3 số
đó.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 162

Do đó, mốc thời gian 2015 sẽ là một năm thuộc thời gian rất quan trọng vì là năm mà

quy định trong cam kết của Việt Nam (WTO) thực hiện cắt giảm tỷ suất thuế nhập khẩu khá
lớn, là năm bắt đầu thực hiện việc mở cửa thị trường dịch vụ (WTO) và cũng là năm bắt đầu
thực hiện các Hiệp định thương mại tự do FTA; TPP… Trong các hiệp định thương mại thì
WTO là lớn nhất, có tính chi phí cao nhất, theo cam kết thì sau 10 năm thì Việt Nam phải
thực hiện theo kinh tế thị trường; phải cắt giảm mức tỷ suất hàng nhập khẩu theo quy định
(thấp nhất, có nhiều mặt hàng bằng 0%) và tất nhiên hàng xuất khẩu của Việt Nam vào nền
kinh tế các nước thành viên khác cũng được hưởng thuế suất ưu đãi như vậy.
Thêm nữa Việt Nam phải mở cửa thị trường dịch vụ… như vậy năm 2015 phải được
WTO xem xét quyết định trong đó có những nội dung cam kết là hạn cuối cùng; cũng có
những nội dung được xem xét ân hạn nhưng không quá năm 2018; Riêng những cam kết
thuộc các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa EU và Việt Nam hay hiệp định xuyên Thái
Bình dương (TPP) thì phải thực hiện theo cam kết ngay, và đương nhiên tạo cho kinh tế Việt
Nam vừa có thuận lợi, vừa gặp khó khăn.
1. Tổng quan những cơ hội và thách thức:
Quá trình tham gia tổ chức thương mại WTO và các hiệp định thương mại đa phương,
song phương khác đã đang và sẽ đưa lại những cơ hội thuận lợi cho kinh tế Việt Nam trên các
mặt sau đây:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với
mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các
Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện
cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh
nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với
một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên
60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng bền vững. Hàng
năm công nghiệp tăng trưởng 15 - 16%.
Xuất khẩu hàng năm tăng trên 20%. Việt Nam từ một nước nhập siêu từ 2010 đến nay
trở thành nước xuất siêu với tỷ phần ngày càng lớn.
Hai là: Các cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn gồm Mỹ, Nhật Bản, Canada với
thuế nhập khẩu bằng 0%, kết hợp với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu tư
và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt

Nam, nhất là của các tập đoàn lớn. Nếu biết tận dụng thời cơ này, Việt Nam sẽ hưởng lợi lớn
từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để
tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do TPP
đem lại.
Ba là: Thực hiện các hiệp định thương mại chúng ta có được vị thế bình đẳng như các
thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi
ích của đất nước, của doanh nghiệp. Số liệu thống kê cho thấy, khu vực Đông Á, bao gồm
ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc luôn chiếm tỷ trọng rất
lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, thường xuyên ở mức trên 60%, nếu tính
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 163

riêng nhập khẩu thì lên tới trên 75%. Với sự gần gũi về vị trí địa lý, việc Đông Á chiếm tỷ
trọng lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam là việc khó tránh. Tuy nhiên, tỷ trọng trên
là quá lớn, có thể tiềm ẩn rủi ro khi kinh tế Đông Á có biến động bất lợi. Đàm phán và ký kết
FTA với một số thị trường trọng điểm như Mỹ, EU có thể giúp chúng ta khắc phục tình trạng
mất cân đối này.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế
trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc thực hiện cam kết
theo hiệp định và hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong
nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Điều đặt biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế
theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện một đội ngũ những nhà
doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin, dám chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu
với cạnh tranh. Đào tạo được hàng trăm ngàn lao động có tay nghề cao. Đây là nguồn lực quý
báu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sáu là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử và thời đại, việc gia nhập
WTO và thực hiện các hiệp định thương mại những năm qua đã nâng cao vị thế của ta trên

trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương
châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới
vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Bẩy là: Quan hệ thương mại tự do với các thị trường lớn như Mỹ, Canada và việc
Nhật Bản xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng nông sản trong TPP, sẽ là cú hích thực sự cho xuất
khẩu của Việt Nam. Theo tính toán của các doanh nghiệp, nếu thuế nhập khẩu được hạ về
mức 0% thì hàng dệt may và giày dép Việt Nam sẽ đứng trước cơ hội lớn trong việc mở rộng
thị phần trên thị trường các nước TPP, trong đó có thị trường Mỹ. Cơ hội cho các sản phẩm
xuất khẩu chủ lực khác như thủy sản, đồ gỗ và nông sản cũng rất lớn.
2. Thực trạng năng lực tiếp đón các hiệp định thương mại tới đây.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc hội nhập thế giới thông qua các
hiệp định thương mại mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất
là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn
nhiều yếu kém và bất cấp, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách
thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội
nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình thông qua việc thực hiện các
hiệp định thương mại tự do (thương mại quốc tế).
Những thách thức này bao gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình diện rộng
hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh
nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị
trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản
phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và
nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy
nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 164

Cụ thể, ở cấp quốc gia các vấn đề nổi cộm là thể chế, năng lực thi hành thể chế; kết

cấu hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng mềm; nguồn nhân lực. Mặc dù ta có chủ trương trong 5
năm từ 2011 tới 2015 cần có 3 đột phá chiến lược (1): Hoàn thiện thể chế kinh tế; phát triển
nhanh nguồn nhân lực; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhưng đã trải qua gần 3 năm ta chưa
tạo ra được sự đột phá như mong muốn.
Ở cấp độ doanh nghiệp: Về cơ bản doanh nghiệp vẫn chưa tận dụng được cơ hội từ
việc Việt nam là thành viên để tổ chức nâng cao trình độ quản trị hiện đại, tham gia tích cực
và vững vàng trên thị trường trong nước và quốc tế.
Về khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam hì ngoài những sản phẩm có lợi thế tự
nhiên, hầu hết hàng hóa còn lại sức cạnh tranh yếu bởi 3 yếu tố giá, phẩm chất, kiểu cách.
Nhiều hàng hóa có nguy cơ thất bại ngay trên thị trường nội địa.
Các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức
cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều.
Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự "phân
phối" lợi ích cũng không đồng đều. Mỗi bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn
bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ
thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hóa giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách
phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng:
"Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển".
Ba là: Hội nhập kinh tế trong một thế giới toàn cầu hóa, phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị
trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính
sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải
tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, về sở hữu trí tuệ đối với thuốc bảo vệ thực vật,
phân bón và dược phẩm. Mỹ đề nghị tăng cường mức độ và thời gian bảo hộ sẽ tăng, chi phí
sản xuất nông nghiệp và an sinh xã hội khả năng tiếp cận khoa học, tài sản văn hóa tinh thần.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý như bảo hộ thương hiệu sẽ dẫn đến nguy cơ rủi ro nếu không nhanh

chóng đăng ký bảo hộ thương hiệu sẽ bị mất tên (nước mắm Phú Quốc, hoa Đà lạt, cà phe
Buôn mê thuột, tỏi Lý Sơn ). Đặc biệt, trong quy định của TPP có một điểm rất nghiêm túc
là câu chuyện bảo vệ bản quyền. Đó là bản quyền liên quan đến giống, công nghệ… Rất nhiều
nước tham gia đàm phán TPP đều triển khai khá tốt vấn đề này, trong khi đó phía Việt Nam
còn nhiều lúng túng. Như vậy, nếu Việt Nam không khắc phục được điểm yếu này thì sẽ rất
khó khăn cho cả nông dân lẫn các doanh nghiệp xuất khẩu.
Bốn là: Hội nhập kinh tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo
vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối
sống thực dụng chạy theo đồng tiền.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 165

Năm là: Thực trạng nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam đón tiếp các Hiệp định
Thương mại tự do mới. Một thách thức rất quan trọng, cơ bản đối với hệ thống chính sách và
đối với doanh nghiệp nước ta đó là: Thời điểm cắt giảm mạnh về thuế đối với hàng nhập khẩu
trong cam kết của WTO và các hiệp định thương mại tự do khác được thực hiện, trong đó đặc
biệt với hiệp định thương mại tự do giữa EU và Việt Nam FTA và hiệp định hợp tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái bình dương (TPP). Thực trạng đối với những mặt hàng Việt Nam có
lợi thế được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu bằng 0% như hàng dệt may, điện tử, cá tôm,
hàng nông sản… xuất sang hai thị trường lớn nhất là Mỹ, EU và các thành viên khác. Thế
nhưng để được hưởng mức thuế suất ưu đãi các doanh nghiệp phải đáp ứng được điều kiện
sản phẩm có xuất xứ từ nguyên kiện trở đi phải trong khu vực TPP (ví dụ hàng dệt may phải
từ sợi trở đi, cá phải tự giống, thức ăn trở đi…). Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa được
đề xuất, các sản phẩm xuất khẩu trong các nước thành viên phải có xuất xứ nội khối TPP mới
được hưởng ưu đãi. Đây là một bất lợi vì Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ các nước bên ngoài
TPP để gia công hàng xuất khẩu. Các chuyên gia chỉ ra rằng, nếu áp dụng quy tắc xuất xứ “từ
sợi trở đi” đối với hàng dệt may trong TPP (mọi công đoạn từ sợi trở đi phải được làm ở các
nước TPP) thì phần lớn hàng dệt may của Việt Nam sẽ không được miễn thuế bởi chúng được
làm từ rất nhiều vải của Trung Quốc, sợi chỉ nhập của Hàn Quốc, các loại phụ kiện từ một số

nước Đông Nam Á Nếu không chuyển đổi được vùng nguyên liệu, hàng xuất khẩu của Việt
Nam sẽ không được hưởng ưu đãi thuế. Vấn đề đặt ra là dệt may chẳng phải là nhóm hàng
duy nhất vấp phải rào cản này. Bởi ngoài nông sản, phần lớn các sản phẩm xuất khẩu thế
mạnh của Việt Nam (giầy dép, đồ gỗ, điện tử, công cụ ) đều đang sử dụng đa số nguyên liệu
nhập khẩu từ Trung Quốc, các nước ASEAN… Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam hiện có
những yếu thế cần được khắc phục đó là:
- Thiếu vốn để tổ chức sản xuất và kinh doanh qui mô lớn.
- Phương tiện sản xuất, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất
cao.
- Hàng xuất khẩu phần lớn dưới phương thức hợp đồng gia công (lấy công làm lãi).
+ Hàng dệt may, điện tử… thì thực hiện ứng nguyên liệu, chi phí, bao tiêu sản phẩm.
+ Hàng nông sản thì mua thức ăn, mua giống thuốc phòng chống sâu bệnh, vi rút…
tiêu thụ sản phẩm qua thương lái nhập cho Công ty đầu mối xuất khẩu.
Thực chất người sản xuất và người lao động không được trực tiếp hưởng ưu đãi do các
hiệp định thương mại tự do đưa lại.
Việt Nam đã từng tự làm giảm sức mạnh về xuất khẩu của mình: chính sách lấy xuất
khẩu để tăng trưởng kinh tế là cần thiết và đúng đắn đối với nền kinh tế đang phát triển như
nước ta. Tuy nhiên trong cơ cấu về số lượng và giá trị xuất khẩu hàng năm luôn trên 60%
thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi theo đó là chính sách ưu tiên “mềm mại”
đối với vốn đầu tư nước ngoài cùng với năng lực quản lý yếu kém như để họ chuyển giao trốn
thuế… là một minh chứng. Hiện tượng đó còn lặp lại nếu không được nâng cao năng lực và
quan điểm quản lý. Hiện Việt Nam đang đàm phán để đi đến ký kết các hiệp định thương mại
tự do (FTA) giữa Việt Nam - EU và giữa Việt Nam - Liên bang Nga, Belamét, Kazastan;
Hiệp định xuyên Thái bình dương (TPP). Trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 166

đang oằn lưng vì nợ xấu, không tiếp cận được vốn vay Ngân hàng, thế mà các nhà đầu tư
nước ngoài đang đổ xô vào Việt Nam đầu tư vào các ngành có thế mạnh được ưu đãi lãi suất

nhập khẩu vào các thị trường lớn Mỹ - EU (Bài viết của tác giả Mai Phương trong bài "chạy
đua đối đầu TPP" trên báo Thanh Niên số 283 ngày 10 - 10 – 2013).
Cơ hội dễ vuột mất
Ông Nguyễn Văn Hùng, Phó tổng giám đốc Agtex 28, nói: Nhìn "tương quan" cuộc
chạy đua đầu tư đón đầu cơ hội từ TPP, có thể thấy, các DN FDI đang chiếm ưu thế so với
DN nước ngoài. Đó là lý do rất nhiều ý kiến lo ngại DN vừa và nhỏ nội địa khó tận dụng được
cơ hội từ TPP, thậm chí không khéo lại phải làm thuê trên chính sân nhà. Sản xuất các loại vải
cao cấp thì phải đầu tư lớn. Còn nếu sản xuất hàng trung bình thì không cạnh tranh nổi với vải
Trung Quốc. Vì vậy chỉ có vốn nhà nước mới có thể đầu tư vào lĩnh vực dệt nhuộm"
Ông Phạm Xuân Hồng, Phó chủ tịch Vitas, cũng cho rằng ngoài vốn lớn, đầu tư vào
nguyên liệu như dệt nhuộm có yêu cầu rất cao về công nghệ, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
khắt khe. Mà nếu không có nhuộm thì không có vải hoàn tất cho ngành may. Nghịch lý là có
nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư nhuộm nhưng đi đến đâu cũng bị từ chối khéo vì sợ bị ô
nhiễm môi trường." Nếu không thay đổi ngay từ bây giờ, các sản phẩm dệt may của Việt Nam
cũng không thể hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu vào các nước Mỹ, Canada như thỏa thuận. Vì
vậy, nhà nước phải cấp bách có những chính sách phù hợp như hỗ trợ lãi suất các dự án đầu tư
sợi, dệt và nhuộm cho ngành may hay thuộc da cho ngành da giày. Đồng thời quy hoạch cụ
thể về các cụm. Khu công nghiệp riêng cho các dự án dệt nhuộm", ông Hồng nói.
Tại hội thảo dành cho doanh nghiệp về Hiệp định thương mại tự do và Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam diễn ra sáng18/4, chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, Phó
Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, để Hiệp định hợp tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) thành hiện thực, Chính phủ cần phải cải cách mạnh mẽ
thể chế, chính sách. Hội nhập kinh tế có rủi ro, thách thức nhưng không hội nhập thì đất nước
không phát triển được. Hiện tại Việt Nam đang đứng trước thời cơ hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới. Tuy nhiên, có một thực tế là tâm lý lo sợ những rủi ro của hội nhập cũng là
một trong những rào cản lớn khiến việc đàm phán, ký kết và triển khai thực hiện các thỏa
thuận thương mại tự do (FTA).
3. Một số kiến nghị và giải pháp.
Đối với những quốc gia lấy xuất khẩu để đẩy mạnh tăng trưởng như Việt Nam, cần
phải có chính sách thỏa đáng và tập trung đầu tư vào những ngành có năng lực tiềm năng xuất

khẩu lớn như dầu thô, hải sản, các sản phẩm nông nghiệp như cao su, gạo, cafê. Đặc biệt với
thế mạnh xuất khẩu hàng dệt may cần được quan tâm và phát triển đúng hướng. Đồng thời mở
rộng mặt hàng thuộc sản phẩm công nghiệp như điện tử, sắt thép (đang tồn kho lớn) nhằm
giải phóng vốn, thu hút lao động là rất cần thiết. Trên cơ sở đó nên có những kiến nghị dưới
đây:
Về chính sách và quản lý vĩ mô:
Một là: Định hướng tập trung cho hoạt động xuất khẩu vào 2 thị trường lớn, thuế suất
nhập khẩu thấp. Đó là các đối tác thương mại tự do (FTA) giữa EU - Việt Nam và các liên
minh Hải quan giữa Liên bang Nga, Benlarut, Kazatstar - Việt Nam. Các đối tác thuộc Hiệp
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 167

định Xuyên Á Thái Bình Dương (TPP) gồm 12 quốc gia là : Úc, Brunay, Canada, Chile, Nhật
Bản, Malaysia, Mexico, Newzealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam.
Hai là: Có chính sách ưu đãi phát triển nguyên liệu trong nước như trồng bông, kéo sợi
cho dệt may. Thức ăn gia súc, phân bón, thuốc phòng trừ dịch bệnh… cho sản phẩm nông nghiệp
xuất khẩu, sản phẩm sau chế xuất dần, buôn đỏ trong sản xuất bo xít, đát hiếm… cho sản xuất sản
phẩm công nghiệp xuất khẩu.
Ba là: Hướng dẫn từ sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu nhằm vào tăng cường
năng lực về vốn phát triển và đổi mới công nghệ nên theo phương thức kinh doanh liên kết
các doanh nghiệp trong nước là liên doanh với các tập đoàn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài để khép kín chu trình sản xuất mặt bằng xuất khẩu (như kéo sợi, nhuộm, dệt và may)…
Cần có chính sách phù hợp đúng đắn việc cấp phép và quản lý chặt chẽ đúng đắn các
doanh nghiệp FDI. Sản xuất hàng xuất khẩu mà Việt Nam đang có lợi thế. Nếu cấp phép tràn
lan, quản lý không chặt chẽ thì chỉ có được lợi thế thu hút lao động mà còn triệt tiêu năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, cùng với phù phép chuyển giá, trốn thuế… thì Việt
Nam chỉ là nơi họ mượn đất thuê lao động và lợi dụng lợi thế ưu tiên mà Việt Nam được
hưởng mà thôi.
Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu

Để thực hiện theo quy định của hiệp định FTA và TPP các doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu hoàn thiện các nội dung sau đây:
- Từng bước thoát khỏi tình trạng làm gia công đặt hàng chờ công ty nước ngoài bao tiêu
sản phẩm. Bằng liên doanh liên kết, sáp nhập để tạo khả năng về vốn, đổi mới công nghệ, đầu tư
khép kín chu trình sản xuất và xuất khẩu trực tiếp.
- Liên doanh với các tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài tạo năng lực về vốn, công
nghệ để sản xuất và xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường lớn.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động kết hợp với các địa phương tổ chức sản
xuất và khai thác nguyên liệu trở thành những vùng, những cụm công nghiệp cho sản xuất sản
phẩm xuất khẩu tăng trưởng bền vững.
Hoạt động tài chính
- Củng cố và tạo sản phẩm cho hoạt động chứng khoán thông qua việc kiên quyết thực
hiện cổ phần hóa DNNN, tạo khả năng huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh đủ vốn và năng lực cạnh tranh ngay trên sân nhà.
- Nhanh chóng cơ cấu lại các TCTD đủ lớn và tầm vóc tài trợ vốn lưu động cho hoạt
động sản xuất kinh doanh xuất khẩu bằng những hợp đồng tín dụng dài hạn và tín nhiệm giữa
doanh nghiệp và NH càng phát triển.
Hiệp định hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương TPP là AFTA mới của
thế kỷ này. Đúng như nhận định của Đại hội Đảng lần thứ XI về bối cảnh quốc tế những năm
tới là “xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới”. Việc Việt Nam trở
thành thành viên đầy đủ là một chủ trương, quyết sách đúng đắn của Nhà nước ta. Bởi vậy,
những kiến nghị, giải pháp trên đây vừa mang tính chất và hàm ý lâu dài, vừa tăng tốc cho hoạt
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I

Trường Đại học Thăng Long 168

động sản xuất kinh doanh xuất khẩu đi trước đón đầu thực hiện những cam kết của các hiệp định
thương mại tự do tới đây của kinh tế nước ta./.
Tài liệu tham khảo
[1]. Báo Lao động, số 221, “Việt Nam tham gia TPP, lợi thế cho các doanh nghiệp

xuất khẩu củ lực” ngày 25/09/2013
[2]. Các Ngọc, “Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Quy tắc
xuất xứ như một chìa khóa”, Bài báo Sài Gòn tiếp thị, ngày 31/10/2013
[3]. Tài liệu phục vụ Hội thảo "Hành trang cho doanh nghiệp khi tham gia TPP", Hà
Nội, tháng 12/2013.
[4]. Trần Đình Thiên – Viện Kinh tế Việt Nam, "Kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa
TPP", Tài liệu Hội thảo "Hành trang cho doanh nghiệp khi tham gia TPP".
[5]. TPP – Cơ hội đan xen thách thức cơ hội cho nền kinh tế và Ngành Ngân hàng
Việt Nam, xem tại website
[6]. Http://m.voatiengviet.com/a/vietnam-va-hiep-dinh-tpp-thach-thuc-va-co-hoi.
WHILE PROMOTING THE BENEFITS JOIN THE AGREEMENT TRADE AND
TPP FTA
Abstract: Vietnam is opening up new step in the integration of the world, by the
multilateral trade agreements and bilateral in order to increase the power generation and
sustainable growth economy. This paper made analysis of the advantages and challenges to
be overcome in the economy generally, the enterprises producing export business in
particular. The author also contribute recommendations prepared solutions proactively
enforce trade agreements coming.
Keywords: FTA, TPP, Việt Nam, Globalization, trade agreements.

×