Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tiểu luận Một số mặt hạn chế của Phan Bội Châu trong những năm đầu thế kỷ XX (1900- 1917)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.66 KB, 14 trang )

Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Phan Bội
Châu được đánh giá “là bậc thiên sứ, đấng xả thân vì sự nghiệp
cứu nước, được 20 triệu người dân Việt Nam đang quằn quại dưới
ách thống trị nô lệ kính cẩn, tôn sùng”. Phong trào Phan Bội Châu
đã đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc, là cái gạch
nối giữa hai giai đoạn cách mạng. Phan Bội Châu là một nhà chính
trị nổi tiếng, đã vạch ra con đường phát triển cho dân tộc Việt Nam
với những đóng góp tiến bộ về tư tưởng cứu nước và vận động
cách mạng theo một khuynh hướng mới. Tuy nhiên bên cạnh đó là
những hạn chế cần được nhìn nhân một cách khách quan. Người
viết xin được phân tích một số mặt hạn chế của Phan Bội Châu
trong những năm đầu thế kỷ XX (1900- 1917)
1. Hạn chế trong chủ trương làm cách mạng dân tộc dân
chủ
Khi thành lập Duy tân hội, Phan Bội Châu đề ra chủ trương
đánh Pháp, khôi phục nước Việt Nam ngoài ra chưa có chủ nghĩa
gì khác. Nghĩa là giữ chủ nghĩa quân chủ nhưng là quân chủ lập
hiến mà quân chủ lập hiến thuộc phạm trù hệ tư tưởng tư sản.
1
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
Giương cao lên ngọn cờ quân chủ, Phan Bội Châu và các đồng chí
trong Duy tân hội muốn dựa vào Cường Để được tôn là “minh
chủ” để dễ bề tập hợp lực lượng.
Quan điểm của Phan Bội Châu khác hẳn với nhà Nho có tư
tưởng cải cách duy tân sớm nhất ở nước ta là Nguyễn Trường Tộ,
cho rằng: vua là gốc của nước, không có đạo vua thì không có thế
gian. Phan Bội Châu cho rằng: chủ quyền là yếu tố hết sức quan
trọng vì thực chất chủ quyền của một nước là sự độc lập, tự chủ.


“Điều quan trọng của một nước là ở chủ quyền, điều quan trọng
của chủ quyền là ở độc lập… Ý nghĩa chữ độc lập của Châu Âu là
nói nước với nước, thì nước mình với nước ngoài không phải ỷ lại
vào nhau, nước ngoài với nước mình không dám can thiệp lẫn
nhau”. Muốn có độc lập dân tộc, có chủ quyền cho nhân dân thì
phải làm cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách xâm lược, áp
bức bóc lột của thực dân Pháp. Về vấn đề này, Phan Bội Châu đã
tỏ ra không mệt mỏi, liên tục kêu gọi, tổ chức nhân dân cả nước
đứng lên chống lại kẻ thù. Bản chất của chủ nghĩa thực dân được
Phan Bội Châu vạch trần bằng 2 chữ “dương bác”, “âm toan”.
2
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
Bọn thực dân Pháp cướp nước ta coi dân ta “như trâu như chó”,
“như cỏ như rơm”, chứ chẳng có gì là khai hoá văn minh cả. Phan
Bội Châu thẳng tay vạch trần chúng là giặc là quân ăn cướp đồng
thời cũng chỉ cho mọi người thấy bộ mặt giả dối của cái gọi là văn
minh khai hoá của chúng. Lập trường của Phan Bội Châu với thực
dân Pháp hết sức rõ ràng, dứt khoát. Phan Bội Châu nhận thức
“giặc là giặc” nước đã mất thì “dù có bầu máu nóng đến đâu đi
nữa thì rồi cũng chẳng biết đem rưới vào đâu được nữa”
Tư tưởng của Phan Bội Châu về nhiệm vụ chiến lược như
vậy là đúng. Nhưng trong thời gian đầu, ông vẫn bị ảnh hưởng của
quan điểm “dị chủng bất tương dung” nên sự tố cáo tội ác thực
dân Pháp còn kém phân sâu sắc. Ông chưa thấy rõ thủ đoạn áp bức
bóc lột có tính chất tư bản chủ nghĩa của chúng đối vớí một nước
thuộc địa nửa phong kiến như ở nước ta, càng không thấy được
tính chất giai cấp của sự bóc lột ấy. Ông cũng ít nhiều bị chi phối
bởi học thuyết “cạnh tranh sinh tồn”, “ưu thắng liệt bại” của
ĐácUyn vốn được lưu hành rộng rãi hồi đầu thế kỷ XX qua các

“tân thư” cho nên khi nói về sự tồn tại của một nước, Phan nhấn
3
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
mạnh: “Ở trong thì phải che chở được cho đồng bào, ở ngoài thì
tranh hùng với các dị tộc làm cho dị tộc phải kinh sợ” và đi đến
kết luận: “mạnh được yếu thua, thịt kẻ yếu là món ăn của kẻ mạnh.
Anh không diệt được người thì người diệt anh”. Tư tưởng cực
đoan ấy là sai lầm.
Trước làn sòng cách mạng đang dâng lên ở Trung Quốc làm
cho những người hoạt động cách mạng Việt Nam suy nghĩ: nếu
không vứt bỏ lập trường quân chủ để theo dân chủ cộng hoà thì sẽ
bị lạc lõng và cô lập. Hơn nữa tình hình trong nước có thay đổi:
sau khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, cơ sở kinh
tế và xã hội của Vịêt Nam có những thay đôit căn bản: bên cạnh
nền kinh tế phong kiến đã có thêm nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
mang tính chất thuộc địa. Giai cấp tư sản Việt Nam trên con đường
hình thành cũng mang những tâm lý và nguyện vọng khác hẳn với
lớp người phong kiến. Các đại biểu trước kia ủng hộ chủ nghĩa
quân chủ của Duy tân hội nay đã nhiệt liệt tán thành chủ nghĩa dân
chủ. Bởi vì họ nhận thấy rõ hơn khả năng cách mạng của các tầng
lớp nhân dân ta trong phong trào chống Pháp.
4
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
Hoàn cảnh trong nước và ngoài nước như vậy đòi hỏi Phan
phải dứt khoát đứng hẳn về lập trường dân chủ. Ngay trong bước
ngoặt của sự chuyển biến này. Tư tưởng của Phan có chỗ chưa triệt
để. Ví dụ khi ông nói: “bắt chước theo Tàu”, thì trong cương lĩnh
chính trị của Đồng Minh hội do Tôn Trung Sơn đề ra trong cách

mạng Tân Hợi là “đánh đổ Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa,
thành lập dân quốc, bình quân địa quyền” thế nhưng trong cương
lĩnh Quang phục Hội của Phan Bội Châu chỉ nói: “Đánh đuổi giặc
Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước cộng hoà dân quốc” mà
thiếu hằn một vế quan trọng là bình quân địa quyền.
Phan Bội Châu do bị hạn chế bởi lập trường giai cấp xuất
thân và điều kiện hoàn cảnh lịch sử đã không tiếp thu nổi tư tưởng
quan trọng ấy của Tôn Trung Sơn, cho nên trong một thời gian khá
dài, ông không ý thức được vai trò của nông dân trong đường lối
cách mạng dân chủ tư sản của mình.
Đó là chưa kể trong những năm đầu của Duy Tân hội, tư
tưởng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu lại hình thành trong điều
5
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
kiện hệ tư tưởng Khổng Mạnh, không bị tuyên bố bác bỏ mà vẫn
được thừa nhận.
Do vẫn còn duyên nợ với Nho giáo nên trong chương trình
“xây dựng một nước Việt Nam mới”, Phan Bội Châu nhấn mạnh
thiên lệch về chức năng giáo hoá của các tổ chức bộ máy nhà
nước, làm cho mọi người biết giữ cái đạo nhân chính, biết về công
đức, chứ không cần gì phải hình pháp nhỏ nhen nữa. Xã hội mà
Phan mơ ước đó thật chứa chan tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Vì
nó nhằm thanh toàn mọi khổ đau trong nhân dân, nhằm cứu giúp
những con người bất hạnh để cho các nước này đều sung sướng.
Nhưng thực chất của cái xã hội với cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước và quan hệ giữa người với người như vậy cũng chỉ là xã hội
tư sản được lý tưởng hoá mà thôi. Đã là xã hội tư sản thì nghị viện,
chính phủ và quân đội chỉ là công cụ thống trị của giai cấp tư sản,
còn Dân quyền, Tự do, Bình đẳng. Bác ái chỉ là bánh vẽ lừa bịp

nhân dân. Phan Bội Châu chưa nhận thức được bản chất chế độ đại
nghị là nền chuyên chính của giai cấp tư sản. Cả tầng lớp sĩ phu tư
sản hoá đầu thế kỷ XX đều ảo tưởng về một xã hội như vậy. Thậm
6
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
chí trong một thời gian dài các cụ còn rất mơ hồ về chế độ của
“người anh cả da vàng” Nhật Bản. Đó chẳng qua là vì các cụ mới
tiếp xúc với nó qua một số sách báo. Hơn nữa, sự “tư sản hoá” của
Phan Bội Châu và các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ lại không bắt
nguồn từ cơ sở hiện thực của xã hội Việt Nam. Việt Nam không có
một giai cấp tư sản sớm ra đời để có những tư tưởng riêng của nó,
mà người phát ngôn cho nó lúc bấy giờ là tầng lớp sĩ phu. Mâu
thuẫn đó trong đời sống hiện thực chính là nguồn gốc xã hội qui
định mâu thuẫn trong tư tưởng của Phan Bội Châu.
2. Vấn đề bạo động
Tư tưởng cách mạng bạo động là hạt nhân đồng thời là nội
dung cơ bản của tư tưởng Phan Bội Châu.
Trong thời kì đầu, trong cuộc đời hoạt động cứu nước, tư
tưởng này còn giản đơn và mang tính chất manh động. Lúc đầu,
Phan Bội Châu mới nhận thức: “Cứ bạo đông may ra còn trông
được có chỗ thành công”. Phan Bội Châu cực lực chống lại những
người lấy con đường cải lương, coi đó là con đường duy nhất để
mưu việc giải phóng dân tộc. Họ “chẳng qua chưa từng trải nhiều
7
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
mà thôi”. Phan cho rằng: dưới chế độ thồng trị hà khắc của thực
dân Pháp thì “không còn chỗ đất nào để reo rắc tuyên truyền”,
cũng như “không thể ở trong tay người ta ràng buộc mà toan cất

lơi ca, tiếng nói, bàn chuyện ái quốc, ái chủng đượ. Điều đó, khác
nào như ngốc trước mặt đạo tặc mà bàn cách khu trừ đạo tặc”.
Nhưng quan niệm bạo động của Phan Bội Châu lúc này chưa
vượt qua quan niệm bạo động thời Cần Vương, vẫn còn dáng dâp
của đám anh hùng hảo hán, của những người lục lâm giang hồ.
Rõ ràng Phan Bội Châu đã thấy được sức mạnh của bạo lực
là sức mạnh có vũ trang của nhiều người nhưng ngọn cờ mà cụ
nêu: quân chủ lập hiến hay dân chủ lập hiến bấy giờ chưa thu phục
và đoàn kết đựơc toàn dân vì chưa lay động được tuyệt đại đa số
nhất là nông dân. Chưa có nông dân tham gia thì chưa thể có
phong trào cách mạng thật sự nhân dân.
Phan Bội Châu cũng chưa nhận thức được vai trò của đấu
tranh chính trị và mối quan hệ giữa đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang, nhiều khi còn tuyệt đối hoá đấu tranh vũ trang bất
kì điều kiện nào. Theo Phan Bội Châu bất kỳ hình thức bạo động
8
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
nào hoặc bất cứ cuộc bạo động nào dù không thành công cũng là
phương thức phát đông quần chúng tốt. Do đó trong thời gian hoạt
động của Việt Nam Quang Phục Hội đã có những cuộc bạo động lẻ
tẻ, cục bộ lại có cả những ám sát cá nhân. Những việc làm này đều
không có một phong trào quần chúng ủng hộ, một cơ sở nhân dân
làm hậu thuẫn nên sau đó kẻ thù đàn áp đẫm máu thì phong trào
yêu nước vừa nhen nhóm lại bị tiêu diệt, tan vỡ. Nguyễn Ái Quốc
khi viết tác phẩm “Đường Kách Mệnh” đã rút ra kết luận có tính
chất phê phán: “Dân khổ quá hay làm bạo động như dân An Nam,
ở Trung Kỳ kháng thuế, Hà Thành đầu độc, Nam Kỳ phá khám,
không có chủ nghĩa, không có kế hoạch đến nỗi thất bại mãi”. Và
“ám sát là làm liều và kết quả ít, và giết thằng này còn thằng khác

giết sao cho hết. Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức
để đánh đổ cả các giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ như
5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh em quan mà được”. Đó
chính là những hạn chế của thủ đoạn bạo động.
3. Vấn đề đoàn kết dân tộc
9
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
Phan Bội Châu rất chú ý đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Tư
tưởng đoàn kết của Phan có một lòng tin mãnh liệt. Trong “Hải
ngoại huyết thư”, Phan đã chia ra thành 10 hạng người đồng tâm:
hào phú, quan lại tại chức, con em các nhà quyền quý, các tín đồ
thiên chúa giáo. thuỷ lục quân, thông ngôn, kí lục, bồi bếp, phụ nữ,
con em các gia đình bị giết hại, đồ đảng, hội đảng và học sinh. Tuy
nhiên trong vấn đề đoàn kết dân tộc còn những hạn chế.
Phan Bội Châu nói đến nỗi khổ vì sưu thuế, vì phu dịch…
Phan nói đến nỗi nhục của những người vì miếng cơm manh mà
phải đi làm bồi, làm bếp, làm thông ký cho Pháp… Nhưng Phan
không thấy được vai trò của nông dân, một lực lượng xã hội chiếm
90 % dân số trong cả nước. Có thể Phan Bội Châu rất hiểu, rất
thông cảm với nông dân khi nói đến cứu vớt đồng bào thì đối
tượng chính mà Phan nghĩ đến là nông dân. Thê nhưng ông vẫn
chưa nhìn ra được nông dân là một lực lượng nhất thể, hùng hậu và
có khả năng cách mạng rất lớn, là thế lực trung gian đáng sợ của
bất cứ cuộc vận động cách mạng nào trong lịch sử. Việc quên mất
nông dân làm cho Duy tân hội tách ra khỏi, không với tới được kho
10
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
người, kho của ở nông thôn mà ở đấy họ sẽ tuyển mộ được một đội

ngũ đông đảo quân lính và quần chúng giác ngộ để phát động cuộc
nổi dậy của quần chúng.
Phan Bội Châu cũng bỏ quên tầng lớp thương nhân sống ở
thành thị. Khi kêu gọi phát triển kinh doanh, trong thâm tâm Phan
vẫn bị vướng mắc bởi các thành kiến cổ hủ chống lại thương nhân:
tư lợi và vụ lợi. Điều này giúp ta hiểu tâm trạng hối hận của Phan
sau khi cố gắng phát triển kinh tế bị thất bại: “hội buôn cũng là
việc chui vào tổ kén mà thôi…”
Phan Bội Châu rất quan tâm và đánh giá cao vai trò của phụ
nữ, luôn luôn nhắc đến họ với tấm lòng trân trọng, tin rằng trong
số họ người nào cũng có khả năng góp phần cứu nứơc nhưng vẫn
chưa thấy được tình cảnh áp bức của giới phụ nữ và chưa đặt vấn
đề giải phóng phụ nữ về mặt xã hội.
Phan Bội Châu chưa dứt khoát khẳng định và cũng không đạt
đến chỗ khẳng định quần chúng là lực lượng quyết định sự tiến bộ
và công cuộc cách mạng của xã hội. Giữa nhận thức và việc làm
của Phan Bội Châu về vai trò của quần chúng trong lịch sử có một
11
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
khoảng cách khá xa: trong cuộc vận dộng cách mạng, ông chưa
biết tổ chức quần chúng, chưa vượt khỏi phạm vi những cuộc âm
mưu và chưa thể nào đạt đến tổ chức một phong trào quần chúng
rộng rãi.
Vì thiếu một cái nhìn khoa học và nhiều khi lòng tin của
Phan Bội Châu trở nên ngây thơ đến mức cho rằng bọn việt gian:
Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải “dù mất hết lương tâm, điên
cuồng nhưng chưa hẳn quên nước Việt Nam, còn có thể có tinh
thần chống Pháp. Vì cụ cho rằng, sự lầm đường lạc lối của bọn
này chỉ là tạm thời. Cụ nói “chính tôi còn tin ở bọn ấy đấy. Chính

tôi còn trông mong ở bọn ấy đấy” (Việt Nam vong quốc sử).
Trong đời hoạt động của mình, Phan đã nhiều lần vì quá tin người
mà phải trả giá quá đắt. Lợi dụng lòng tin cậy, bọn phản bội như:
Phan Bá Ngọc, Lê Dư… đễ dàng bố trí bắt ông nộp cho giặc Pháp.
Sự mơ hồ của Phan trong việc xây dựng lực lượng làm cách
mạng có thể phần nào được cảm thông. Cái nhìn của Phan là cái
nhìn của một nhà Nho, một kẻ sĩ đã tách khỏi vua chúa nhưng chưa
hoà làm một với dân, là cái nhìn của một người không quan niệm
12
Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
xã hội và xã hội phong kiến như cũ nhưng cũng không quan niệm
được một xã hội theo quan niệm, trật tự mới. Phan Bội Châu vẫn
vướng vào quan điểm sĩ (kẻ sĩ).
4. Tranh thủ ngoại viện
Sai lầm của Phan Bội Châu không phải ở thái độ ỷ lại, vọng
ngoại mà là ở chỗ chưa hiểu được tham vọng đế quốc chủ nghĩa
của nứơc đồng văn, đồng chủng Nhật Bản. Phải đợi đến năm 1908,
sau khi chính phủ Nhật ký với Pháp hiệp ước Pháp - Nhật, ra lệnh
giải tán tổ chức Đông Du của Duy tân hội và trục xuất những
người Việt Nam ra khỏi đất Nhật, Phan Bội Châu “biết rõ công
việc của mình không thể trông cậy vào Nhật Bản nên chuyển
hướng cách mạng Trung Quốc và các dân tộc trên thế giới đồng
bệnh cùng ta.”
Có thể nói những hạn chế trên của Phan Bội Châu một phần
nào do hoàn cảnh lịch sử tác động. Đứng trên quan điểm phát triển
của lịch sử thì đó là tất yếu xảy ra vì khi Phan Bội Chau ra hoạt
động cách mạng thì phương thức sản xuất phong kiến vẫn còn ngự
trị và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang hình thành. Song đóng góp
13

Bài tập điều kiện Trần Thị Thu Hà – CLC – K54 - Lịch
sử
của Phan Bội Châu đối với lịch sử dân tộc hết sức lớn, có tác dộng
chi phối cả một thời đại “thời đại Phan Bội Châu”.
14

×