Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận Anh chị hãy trình bày những tư tưởng của Khổng tử về Triết học - Đạo đức – Chính trị – Giáo dục.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.47 KB, 15 trang )

Họ và tên: Nguyễn Bích Diệp.
Líp: K48 XHH - Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn.
BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ.
Môn: Lịch Sử Văn Minh Thế Giới.
Đề bài: Anh chị hãy trình bày những tư tưởng của Khổng tử về Triết học -
Đạo đức – Chính trị – Giáo dục.
Khổng Tử là một danh nhân văn hoá lớn trong lịch sử văn hoá Trung Quốc.
Tư tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu xa đến lịch sử nhân loại bằng bản lĩnh nhân
cách, tài năng trí tuệ, và những thành tựu cá nhân, Khổng Tử sinh năm 551 TCN
tại nước Lỗ, một nước nhỏ tọa lạc tại nơi mà ngày nay được gọi là tỉnh Sơn
Đông. Không ai rõ về tổ tiên của ông, nhưng dường như ông bà tổ tiên của ông
cũng có người thuộc hàng quý tộc. Tuy nhiên ông tự thuật rằng ông đã trải qua
một tuổi thơ nghèo khổ, ễng đã phải bươn chải mưu sinh, không câu nệ những
việc hèn hạ. Nhờ thế mà ông có thể học tập được, nhưng có lẽ phần lớn là tự
học.
Những kinh nghiệm gian lao của tuổi thơ đó giỳp ụng nhận chân nỗi thống khổ
của dân nghèo và ông bắt đầu suy tư sâu sắc về nó. Ông nhận thấy cái thế giới mà
ông đang sống đang phân rã ghê gớm và vì thế rất cần có những đổi thay quyết
1
liệt. Ông đánh giá thấp hầu hết giới quý tộc vì ông cho rằng đó là những kẻ no
cơm rửng mỡ chẳng có việc gì để làm. So với giới cờ bạc, họ còn tệ hơn nữa, vì ít
ra giới cờ bạc cũng có việc để làm. Thực ra giới quý tộc ấy có nhàn rỗi mãi đâu.
Họ luôn dụng tâm biến đổi mới cuộc sống của họ đã xa xỉ lại càng xa xỉ hơn, một
cuộc sống xa hoa dật lạc có được từ những sưu thuế và mồ hôi lao động của nhân
dân. Còn hơn thế, giới quý tộc thường gõy chinh chiến. Tại Trung Quốc và có lẽ
ở một sè các quốc gia khác cũng vậy giới quý tộc đều xuất thân từ quân phiệt.
Thoạt đầu, giới quân phiệt này đã thực thi chức năng hữu ích của họ là bảo vệ xã
hội. Nhưng với tư cách là một giai cấp, họ đã đi quá xa giới hạn, và đã cướp bóc
nhân dân, thậm chí còn cướp bóc lẫn nhau nữa. Đa số giới họ đều thấy rằng
chớnh cỏi nghệ thuật chinh chiến ấy mới là nghề nghiệp duy nhất mà sĩ phu phải
đặc biệt lưu tâm. Và họ nhạo báng bất cứ ai, kể cả những kẻ chung giai cấp với


họ, luôn mơ tưởng một chính quyền hoàn hảo và qui củ.
Ông là người hiếu hòa vì vậy trong tư tưởng của ông khi giải quyết vấn đề
không bao giê cần dùng đến vũ lực, nhưng quyền lực ấy phải nằm trong tay
những bậc đạo đức để thế giới không biến thành nạn nhân của những sùng bái bạo
lực. Thực ra ông cho rằng vũ lực là phương sách sau cùng, điều tiên quyết là con
người phải phục tùng chủ nghĩa. Ở mức độ thực tế hơn, ông cho rằng một quân
đội không thể thiện chiến nếu những người lính bình thường chưa hiểu vì sao họ
2
phải chiến đấu cũng như chưa hiểu cái chính nghĩa mà họ chiến đấu cho. Ông cho
rằng nếu khiến cho chiến sĩ nhận ra sự vô đạo đức của kẻ thù thì tinh thần chiến
đấu của họ sẽ dâng cao. Khổng Tử khinh miệt những trò xảo ngôn miệng lưỡi.
Ông rất ít khi diễn thuyết trước đám đông. Tuy nhiên, ông hẳn là một người diễn
giảng rất thuyết phục trước một người hoặc một nhúm ớt người nào đó. Ngày nay
đọc Luận Ngữ, tác phẩm ghi lại tất cả những gì ông đã nói – chúng ta phải cảm
nhận cái hấp lực từ nhân cách của ông. Những ai tiếp cận với ông đều được nghe
những ý tưởng canh tân thế giới của ông, dần dần họ trở thành môn đệ của ông.
Ngay lúc đầu, vài người trong số môn đệ ấy chỉ nhỏ tuổi hơn ông một chút thôi.
Ông và môn đệ hình thành một trường tư thục đầu tiên trong lịch sử Trung
Quốc có sự giáo dục nâng cao hơn. Ngày xưa trong triều đình vẫn có những
chức quan phụ trách việc dạy dỗ con em của giới quý tộc và quan lại. Những
người được sắc phong làm quan chức nhỏ sẽ vào triều và học tập cách làm quan
nơi các quan chức cao hơn. Lối giảng dạy này dường như chủ yếu là huấn luyện
các thao tác để người học có thể thi hành một chức việc nào đấy. Tuy nhiên,
Khổng Tử không những huấn luyện các kỹ năng, mà ụng còn giáo hóa họ với ý
nghĩa, như một định nghĩa trong từ điển giải thích động từ này, là ôphỏt triển và
rèn luyện trí tuệ hoặc đạo đức con người để mở mang, kiên cường và khép vào
kỷ luậtằ. Có một lý do nhất định giải thích tại sao Khổng Tử đã vượt ra khỏi
3
khuôn mẫu cổ truyền trong quan niệm của ông về chức năng của học
vấn.Chương trình giáo dục của ông tương đồng với chương trình giáo dục của

cung đình ở chỗ đó là cái học để làm quan. Lối giáo dục cung đình đòi hỏi quan
lại là công cụ của kẻ thống trị (vua chúa), nghĩa là phục vụ và thực thi những
nguyện vọng của vua, đồng thời cai trị dân theo tập quán mà thôi. Trái lại,
Khổng Tử kỳ vọng các môn đệ của ông phải nắm giữ vai trò năng động cách
mạng bất kỳ chính quyền nào mà họ tham chính, đó là buộc giai cấp thống trị
phải đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Muốn được vậy, môn đệ đó phải được
chuẩn bị chu đáo cho chức năng tích cực ấy: Họ phải biết chủ động sáng tạo,
thông minh, đạo đức và luôn phải tự rèn luyện mãi. Chỉ huấn luyện các kỹ năng
thụi thỡ chưa đủ.Với Khổng Tử, quan niệm về ôbậc quân tử phi nguồn gốc xuất
thânằ không là lý thuyết suông; ụng đó vận dụng nó trong việc giáo hóa môn đệ
trở thành bậc quân tử. Bất kỳ ai ai cũng có thể trở thành môn đệ của ông, ngay
cả những kẻ nghèo hèn nhất ông cũng không câu nệ. Ông núi: ôDạy người, ta
không phân biệt đó là loại người nào, lý lịch thế nào.ằ Về cách thu nhận môn đệ,
ụng núi: ôKẻ nào đến ta xin nhập môn, dâng lên ta một xâu thịt khô; ta chưa hề
chê lễ mọn mà từ chối dạy.ằ Ông không hề thiên vị học trò, dù rằng học trò của
ụng cú kẻ giàu người nghèo. Ông khen ngợi môn đệ nào, chỉ vì tài năng và đức
độ của người đó mà thôi. Điều khá thú vị là vị môn đệ cơ hàn đó về sau trở nên
4
quan chức cao cấp. Bởi ông dạy học không chỉ vì để dạy, mà trái lại, ông muốn
chính tay môn đệ ông sẽ hành sử và tranh đấu cho tôn chỉ của ông, cho nên ông
đòi hỏi rất nhiều về trí tuệ và nỗ lực của họ. Bởi vì ông dạy thứ dân trở thành
quân tử, ngõ hầu họ có thể ra làm quan, nờn ụng rất chú ý việc truyền dạy nghi
lễ cho họ. Nhưng cái nghi lễ ấy đã được sửa đổi khác xa với nghi lễ truyền thống
xa xưa. Chữ Lễ nguyên nghĩa là ôcúng tếằ (sacrifice), nó cũn ám chỉ mọi nghi lễ
của việc cúng tế nữa. Như vậy nó bao hàm các buổi lễ lạc và nghi lễ, mà các lễ
nghi này vốn dĩ là phép giao tiếp của giới vua chúa và quan lại.
Khổng Tử bắt đầu từ chữ Lễ. Nếu kẻ cai trị đã biết trang nghiêm cúng tế tổ
tiên của họ thì tại sao họ không chú tâm đến triều chính y như vậy? Nếu quan lại
mỗi ngày biết thi lễ và thủ lễ với nhau thì tại sao họ không quan tâm thi lễ và thủ
lễ với quần chúng, mà đám dân đen này vốn dĩ là xương sống của quốc gia? Cho

nên có lần ông dạy môn đệ là Trọng Cung rằng: ôBước ra khỏi nhà, ta phải thủ
lễ dường như sắp gặp khách quý. Khi bảo dân thi hành công vụ, ta phải sốt sắng
dường như thừa hành cuộc cúng tế lớn. Những gì mình không muốn người khác
làm cho mỡnh, thỡ mỡnh chớ thi hành cho người. Có như vậy, dân trong nước
không ai oỏn mỡnh mà người thân trong gia đình cũng không oỏn mỡnh nữa.ằ
Đức hạnh như vậy dĩ nhiên tương phản với thói luông tuồng, phóng túng của
giới quý tộc.
5
Lễ chính là những qui tắc được minh định. Trong những kinh điển Nho giáo
người ta sẽ tìm được những chỉ dẫn tỉ mỉ để biết cư xử sao cho hợp Lễ. Thậm chí
khi cầm một vật gì, người ta còn được dạy là phải đặt ngón tay như thế nào nữa.
Thế nhưng chính Khổng Tử lại quan niệm khác hẳn về Lễ. Điều quan trọng của
Lễ là ở tinh thần và ở tấm lòng. ễng khinh miệt những hình thức xa hoa lộng lẫy
mà thiếu vắng lòng thành: ôLễ cần ở tiết kiệm hơn là xa hoa. Tang lễ cần có lòng
đau xót người chết hơn là lòe loẹt phụ trương.ằ
Toàn bộ hệ thống tư tưởng và đạo đức của ông được dựng xây trên mối suy
tư về bản chất nhân sinh. Một mặt, ông không cho rằng mỗi cá nhân là một hiện
thể có tính siêu hình tức là một xã hội hoàn toàn có trước cá nhân đến nỗi một cá
nhân nếu muốn được gọi là tồn tại thì phải bị cuốn hút hoàn toàn trong xã hội
đó. Trái lại, theo ông, con người là những sinh vật xã hội thiết yếu, con người
phải là con người gắn liền với xã hội. Mặt khác, vì xã hội chẳng qua là sự tương
tác giao tiếp giữa con người, nên xã hội phải là cái xã hội do con người hình
thành. Vì vậy, theo Khổng Tử, lương tâm của cá nhân ngăn cấm anh ta rút lui
khỏi xã hội hay đầu hàng sự phán xét đạo đức của anh ta về nó. Và cũng sai lầm
nữa, nếu hắn trở thành một ẩn sĩ hoặc một kẻ xu phụ đám đông.
Lễ là quan niệm cực kỳ quan trọng trong hệ thống giáo dục của Khổng Tử.
Các bác sĩ điều trị về tâm bệnh ngày nay của Tây phương cho rằng nền giáo dục
6
Tây phương chú trọng rèn luyện trí tuệ (Trí dục) cho học sinh ở mức độ cao
nhưng lại bỏ qua việc huấn luyện và uốn nắn tình cảm của học sinh (Đức dục).

Vì thế, đôi khi khó mà tạo ra được một cá nhân khéo thích ứng xã hội với tư
cách là một phần tử hữu dụng và hạnh phúc trong xã hội. Trái lại,đường lối giáo
dục của Khổng Tử không chú trọng trí dục bằng việc huấn luyện cho môn đệ đạt
được sự quân bình về tình cảm, mà sự quân bình này là kết quả của việc học Lễ.
Sự học của bậc quân tử phải khộp mỡnh vào Lễ, nhờ nương vào Lễ mà không bị
cám dỗ làm điều bội nghịch.
Một quan niệm cực kỳ quan trọng triết lý của ông là Đạo. Đạo nguyên nghĩa
là ôcon đườngằ. Trước thời kỳ của Khổng Tử từ ngữ ôĐạoằ thường được dùng
với nghĩa là ôcon đườngằ hoặc ôphẩm hạnhằ, như vậy có thể là tốt hoặc xấu. Sau
thời đại của Khổng Tử, từ ngữ ôĐạoằ được dùng như là một quan niệm huyền
học, nguyên lý vũ trụ hoặc vạn hữu. Quan niệm này được phái Đạo gia sử dụng
triệt để (ngay danh xưng của họ cũng nói lên điều này rồi.) Trong Luận Ngữ, ta
thấy Khổng Tử đề cập nhiều lần về Đạo, nhưng với lối giải thích hơi khác. Theo
nhận xét của tôi, chúng ta cần thấy rằng: đối với Khổng Tử, Đạo không phải là
cái gì huyền bí. Đó là con Đường (với chữ Đ viết hoa) tối thượng, trên hết mọi
con đường mà con người cần tuân theo. Cứu cánh của nó là sự hạnh phúc cho
nhân loại, cái hạnh phúc đích thực của con người ngay khi họ còn sống tại thế
7
gian. Nếu Lễ được hiểu là những qui định đạo đức và nghi lễ, thì Đạo bao gồm
cả những qui tắc về đạo đức của từng cá nhân và khuôn mẫu chính trị, mà những
khuôn mẫu này sẽ tạo được phúc lợi cũng như sự tự hiện thực hoá bản thân cho
từng cá nhân đó.
Nếu bảo rằng Đạo không có tính cách huyền bí, thì điều này không có nghĩa
là không được nhiệt thành xem trọng. Khổng Tử núi ôSỏng mà nghe Đạo, chiều
chết cũng cam.ằ Ông nghe được Đạo và không hối tiếc sẽ chết, không có nghĩa
là ông ta sẽ lên thiên đàng sau khi biết Đạo. Bởi vì Khổng Tử từ khước luận bàn
về sinh tử, ông không nói về cuộc sống sau khi chết sẽ ra sao.
Dường như Khổng Tử coi trọng chất hơn là lượng. Đời người không phải
tính bằng những năm tháng mà họ đã hiện hữu trên thế gian này, mà bằng cái
phẩm chất được thể hiện mà thôi. Một khi con người biết Đạo rồi, tức là anh ta

biết cái ngôi vị cao nhất của kiếp người, nếu có chết cũng cam lòng. Nhưng Đạo
(theo Khổng Tử) khác hẳn Đạo có tính huyền bí theo quan niệm của Đạo giáo về
sau. Mười ba thế kỷ sau khi Khổng Tử mất, vị đại nho Hàn Dũ (đời Đường) đã
phân biệt rất kỹ sự khác biệt giữa Đạo của Khổng Tử và Đạo theo quan điểm
Đạo giáo về sau. Trong bài ôNguyên Đạo (bàn về nguồn gốc của Đạo), Hàn Dũ
viết: ôBác Ái (yêu khắp mọi người) gọi là Nhân thi hành ra cho đỳng thỡ gọi là
Nghĩa. Do theo đó mà làm thì gọi là Đạo. Lũng mỡnh đầy đủ không trông đợi
8
bên ngoài thì gọi là Đức. Điều mà Lão Tử gọi là Đạo khác với cái Đạo Khổng
Tử nói, điều mà ông gọi là Đức thì khác với cái Đức [mà nhà nho] chúng ta gọi.
Đạo Đức theo Lão Tử là vứt bỏ Nhân Nghĩa vậy. Theo Hàn Dũ, cái Đạo lý
tưởng ấy đã truyền thừa từ Nghiêu, Thuấn mãi đến Chu Công và rồi đến Khổng
Tử, Mạnh Tử. Cái Đạo ấy không phải là cái Đạo bất biến và cố định, mà là cái
Đạo uyển chuyển thay đổi theo cá nhân và hoàn cảnh.
Khổng Tử xem Đạo là uyển chuyển như vậy nờn ụng không buộc môn đệ
phải trung thành mù quáng với vua chúa. Một vị đại thần là phụng sự vua, nhưng
việc phụng sự này xuất phát từ Đạo, chứ không phải vì bản thân nhà vua. Nếu vị
đại thần không thể khuyên bảo vua theo Đạo lý, thì vị ấy nên từ quan: ôNgười
được gọi là đại thần thì lấy Đạo mà phụng sự vua. Nếu không được như vậy, thỡ
hóy rút lui từ quan.ằ Theo Khổng Tử, lòng Trung quân (trung thành với vua)
không thể hiểu một cách thiển cận và máy móc. Khi môn đệ là Tử Cống nói với
ông rằng: Quản Trọng không đáng gọi là nhân bởi vì khi công tử Củ bị Hoàn
Công giết mà Quản Trọng là bầy tôi của công tử Củ lại không chết theo, ấy vậy
lại còn làm Tể Tướng theo giúp Tề Hoàn Công nữa. Khổng Tử trả lời: ôQuản
Trọng theo giúp Tề Hoàn Công nên nghiệp bá, nhờ vậy mà thiên hạ từ loạn đổi
sang trị. Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải gióc túc và vắt vạt áo bên
9
trái như giới man di. Lẽ nào vì tấm lòng trung quân nhỏ hẹp tầm thường mà đi
treo cổ bên lạch suối sao?ằ
Khổng Tử đòi hỏi nhiều về sự nhiệt thành nơi môn đệ, sự xả thân vì Đạo:

ôThấy mún lợi bèn nhớ điều nghĩa (mà chẳng dám phạm). Thấy thế nguy bèn hy
sinh không tiếc mạng. Bình sanh khi giao ước điều gì thì dẫu bao lâu cũng
không quờn.ằ Hoặc: ôTrong khi cúng tổ tiên, giữ lòng thành kính; trong cơn
tang chế, xét tưởng sự đau thương.ằ Hằng bao thế kỷ qua trong giới nho sĩ có
biết bao người diệt trừ bạo chúa. Và cũng có không ít người bỏ mạng vỡ dám
can gián vua dối gạt vua. Nếu vua sai trái, phải can gián, không sợ mích lũng.
Như trường hợp Hàn Dũ, vì can gián vua Đường khi thấy vua quỏ sựng
thượng đạo Phật (đến nỗi xem mớ xương cốt thượng tọa là xá lợi) mà ông bị
trừng phạt. Tuy ông không bị giết vì tội khi quân (ụng dám gọi đó là mớ xương
khụ thúi) nhờ các quan can thiệp, nhưng ông phải chịu cảnh lưu đày chốn duyên
hải hoang vu phía nam. Nơi chốn lưu đày, ụng đó tận tụy phát triển và cải thiện
đời sống lầm than của nhân dân, ông vẫn yên tâm rằng mình chiến đấu đúng đắn,
vì làm như vậy là hợp với lẽ Đạo cũng như bao nhiêu nho sĩ đã từng làm qua bao
thời gian và không gian.
Khổng Tử không đề cập đến những vấn đề siêu hình, đến nỗi môn đệ thở
than: ôVăn chương của Thầy thì ta nghe đã nhiều. Còn bản tánh con người và
10
Đạo Trời thì chẳng nghe thầy dạy.ằ Môn đệ hỏi về quỉ thần và sự chết, Khổng
Tử đỏp: ôĐạo thờ người còn chưa biết, sao biết được đạo thờ quỉ thần. Sự sống
còn chưa biết, sao biết được sự chết?ằ
Khổng Tử tránh né những câu hỏi đại loại như trên là vì không muốn môn đệ
bận tâm về vấn đề siêu hình hóc búa. Thật ra, ông đề cập về Trời rất nhiều lần.
Ông tự nhận có sứ mạng nắm giữ cái Tư Văn (nền văn chương ấy) mà Trời đã
từng trao cho Văn Vương: ôNếu Trời muốn để mất nền văn chương ấy, thì sau
khi Văn Vương mất, ngài đâu giao phó cho ta. Bởi Trời chưa để mất nền văn
chương ấy, nên người đất Khuông sao hại được ta?ằ Ông than rằng: ôĐời chẳng
ai biết ta! Biết chăng, chỉ có Trời mà thụi!ằ
Khổng Tử cho rằng Trời không phải là một hữu thể mang hình dáng giống
như con người chúng ta. Qua cách diễn đạt của Khổng Tử nói về Trời, ta nhận
thấy từ ngữ này biểu đạt một năng lực đạo đức trong vũ trụ mà sức mạnh này

được quan niệm khá mơ hồ. Khổng Tử nhấn mạnh đến sự nỗ lực của từng cá
nhân, sau đó mới biết mệnh Trời là gì. Tuy nhiên đáng chán thay, sự nỗ lực của
người thiện dường như chẳng có kết quả là bao, bởi vì những kẻ ác vẫn còn
phong lưu phè phỡn. Nhưng cái đức tin vào Trời khiến ông vững lòng rằng dù
thế nào và bất cứ đâu, vẫn có một uy lực thiêng liêng trợ giúp những kẻ cô độc
đấu tranh cho lẽ phải.
11
Thế đó rừ, mặc dù người đời tôn ông là thánh nhân, là Khuôn mẫu cho vạn
đời sau bắt chước (Vạn thế sư biểu), nhưng ông tỏ ra thiếu quả quyết về khả
năng toàn trí và toàn chân của chớnh ụng với bản thể tuyệt đối của vũ trụ. Ông
chỉ nỗ lực thiết lập một cơ cấu ý tưởng khá vững chắc để làm cơ sở xây dựng
hạnh phúc và đem lại tự do cho nhân loại. Cái cơ sở ấy không phải là những giáo
điều thần bí, cũng không phải là niềm hy vọng có tính tôn giáo, mà đó là nền
tảng xây dựng con người và xã hội.
Vậy bản tính con người và bản tính xã hội là gì? Ông không trả lời vội câu
hỏi này. Ông không cho rằng "nhân sinh bản tính thiện" (như Mạnh Tử sau này
đã nói) và cũng không bảo rằng "nhân sinh bản tính ác" (như Tuân Tử sau này
đã nói). Ông quan sát cụ thể hơn, nhận xét quan trọng nhất chính là: mọi người
đều bình đẳng như nhau, còn thiện hay ác thì không khẳng định được. Bởi lẽ
ông thường thấy có khi những kẻ con dòng chỏu dừi, những kẻ tự nhận là cao
sang, lại cư xử như loài cầm thú, trong khi những kẻ trong nghịch cảnh lại có tư
cách hết sức đáng tôn trọng.
Dù con người có khác nhau thế nào, nhưng nguyện vọng chung của họ vẫn là
đạt được hạnh phúc. Quần chúng đói khát, thống khổ vì chinh chiến, vì bị bức
hại dưới tay giới quý tộc. Cho nên cứu cánh đó rõ: Phải mưu cầu hạnh phúc cho
nhân sinh. Khổng Tử vì thế mà quan niệm về một chế độ tốt đẹp như sau:
12
ôNgười cầm quyền phải vì hạnh phúc của dân khiến kẻ trong nước vui dạ, còn
những kẻ phương xa phấn khởi mà đến ở.ằ
Bởi vì hạnh phúc là điều tốt đẹp của con người, mà con người vốn dĩ là sinh

vật xã hội, cho nên có một nguyên tắc hỗ tương giữa con người với nhau trong
xã hội. Nếu mỗi người đều sống vì hạnh phúc của mọi người thì xã hội là một
cõi hạnh phúc vậy. Cái nguyên tắc hỗ tương này, ụng núi như sau: ôĐiều gỡ
mỡnh không muốn người ta làm cho mỡnh, thỡ mỡnh chớ làm cho người.ằ Ông
nói rõ thờm: ôNgười có lòng nhân hễ muốn tự lập thì cũng lo thành lập cho
người, hễ muốn thông đạt thì cũng lo làm cho người thông đạt, hễ xử với mình
thế nào thì cũng xử với người xung quanh thế ấy.ằ
Tuy nhiên, Khổng Tử không quá ngây thơ khi nghĩ rằng chỉ có mấy điều đó
sẽ giải quyết được vấn đề hạnh phúc nhân sinh. Tất cả mọi người đều mơ ước có
hạnh phúc. Hầu hết chúng ta ai cũng mong muốn những kẻ xung quanh ta cũng
được hạnh phúc nữa. Ấy vậy mà thực tế chúng ta lại cư xử thiếu thân ái, chúng
ta khư khư bảo vệ hạnh phúc riêng tư dù rằng điều đó có thể phương hại đến
hạnh phúc người khác. Muốn chỉnh lý điều này, cần phải giác ngộ quần chúng,
và xã hội hóa họ. Vì vậy mà Khổng Tử chủ trương phải giáo dục quần chúng.
Giáo dục quần chúng để họ trở thành những công dân có ý thức chính là nền
tảng thiết yếu của quốc gia. Nếu không giáo dục họ mà chỉ dùng hình phạt răn
13
đe cưỡng bức, thì đó là hạ sách: ôNếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế và
hình phạt để trị dõn thỡ dõn sợ mà không phạm pháp đú thụi, chứ thật lòng họ
không biết xấu hổ (do ý thức đạo đức). Vậy để trị dân, nhà cầm quyền phải dùng
đức hạnh và lễ tiết. Như vậy, dân không những biết hổ thẹn (không dám phạm
pháp) mà còn được cảm hóa bởi đức độ của nhà cầm quyền, và rồi dân sẽ trở nên
tốt lành.ằ
Nếu người ta đeo đuổi lý tưởng này, hóa ra chính quyền sẽ vô ích chăng?
Khổng Tử không cực đoan như vậy. Ông nhận thấy rằng cần phải có chính
quyền tốt. Nhưng tại sao chính quyền tồi tệ? Bởi lẽ theo Khổng Tử, những kẻ
thống trị chẳng qua là do cha truyền con nối, nào phải làm vua là do học vấn và
tài đức đâu.
Từ những lời nói rải rác của Khổng Tử về chính trị, triết lý về chính trị của
ông có thể tóm tắt như sau: Chính quyền phải chăm lo phúc lợi cho nhân dân.

Muốn vậy, người cai trị phải là người tài đức trong nước và được tuyển chọn
đơn thuần căn cứ vào đạo đức và trí tuệ của họ thôi, chứ không phải căn cứ vào
thành phần xuất thân, gia sản, hay địa vị xã hội. Như vậy cần phải có một nền
giáo dục thích hợp. Giáo dục phải phổ cập mọi tầng lớp nhân dân, để cho những
nhân tài có thể tham gia việc nước.
14
Ông không đòi hỏi nhà vua (do cha truyền con nối) phải phế ngôi. Ông chỉ
cố thuyết phục vua nên ngự trị hơn là cai trị, và hãy giao quyền hành thực thụ
cho các quan lại: ôMột lời nói dua nịnh của họ có thể làm mất nước, một lời nói
đầy đạo lý của họ có thể làm hưng thịnh đất nước.ằ Cỏi trọng trách đú chớnh là
khi vua vô đạo, càn quấy, quan phải có lời can gián. Nếu vì sợ chết hay vì tư lợi
mà a dua theo thói càn quấy của vua, đó là hiểm họa mất nước vậy.
Học thuyết của Khổng Tử đã thất bại, bởi lẽ xưa nay vua chúa thường chỉ
định quần thần. Cho nên phương pháp tuyển cử do Khổng Tử đề xướng khó mà
thực hiện được. Tại Trung Quốc ngày xưa, bầu cử và tuyển chọn là điều kỳ quặc
không nghe ai nói bao giờ; hơn nữa, người dân thuở ấy thất học và không có ý
thức chính trị. Tất cả những gì Khổng Tử làm được là tác động vào thanh niên,
giáo dục họ để mai sau có thể tham chính. Nhờ đó họ có thể tạo áp lực công luận
để đặt nhân tài đất nước vào những địa vị lãnh đạo đúng chỗ.
15

×