Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận đai học sư phạm Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh - Người xây nền cho tranh lụa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.34 KB, 19 trang )

Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh - Người xây nền cho tranh
lụa Việt Nam!
WEDNESDAY, 2. JANUARY 2008, 12:53:51
MỸ THUẬT

Hoạ sĩ Việt nam lỗi lạc Nguyễn
Phan Chánh (1892- 1984) xuất thân từ một gia đình trí thức
nơng thơn. Ơng nội của ơng đã thi đỗ tú tài xuất sắc và làm
nghề dạy học trong làng (ở Việt Nam thời phong kiến, làng
quê chính là trung tâm văn hố, nơi cung cấp cho thành phố
những thanh niên có học để bổ sung cho bộ máy quan lại).
Bố ơng làm nghề kế tốn. Nhưng người bố mất sớm, và thế
là gia đình rơi vào cảnh nghèo khổ. Cậu bé buộc phải bỏ
học. Người mẹ đành phải cho con đi theo một hoạ sĩ lang
thang, dù sao đi nữa thì nhà cũng đỡ được một miệng ăn.


Thoạt đầu, Chánh được giao nhiệm vụ chuẩn bị giấy vẽ. Phải
phết hồ thật đều lên mặt giấy, rồi dán một tờ khác lên nó,
miết thật cẩn thận cho khơng khí thốt hết ra ngồi, để bức
tranh tương lai khơng bị phồng rộp. Một thời gian sau, cậu
được cầm cọ tơ những mảng màu thích hợp trên bức tranh
mà sư phụ đã chuẩn bị sẵn. Đó là một cơng việc không hề
nhẹ nhàng: cần phải tuân thủ quang độ cần thiết của ánh
sáng, chọn đúng tơng màu thích hợp, đưa những nét bút
dứt khoát và khỏe khoắn. Cuối cùng, cậu được phép làm tất
cả mọi việc từ đầu đến cuối. Suốt đời mình, khơng bao giờ
Chánh qn lần sư phụ đã lấy bức tranh “Lý ngư vọng
nguyệt” mà ông vẽ theo phong cách tranh dân gian, treo
bên cạnh những bức tranh của ông ấy, để bày bán...
Những bài học của người hoạ sĩ lang thang thật chẳng vơ


ích. Trở về nhà, Chánh hiểu rằng cậu có thể đóng góp một
phần nhỏ vào ngân sách gia đình. Khơng phải ngẫu nhiên
mà những bước chập chững đầu tiên trong “hạch toán kinh
doanh” của hoạ sĩ được bắt đầu từ việc vẽ tranh dân gian.
Tranh dân gian được phổ biến rất rộng rãi ở làng quê Việt
Nam. Loại tranh này đã xuất hiện từ thời xa xưa - khoảng
thế kỉ 11 - 13 và phát triển mạnh mẽ nhất vào các thế kỉ 16


- 18. Dần dần hình thành hai truyền thống là tranh làng
Đông Hồ (tỉnh Bắc Ninh) và tranh Hà Nội (còn gọi là tranh
Hàng Trống). Ở Hà Nội tranh đươc vẽ tay, hoặc in đen trắng
rồi sau đó mới tơ màu. Cịn ở làng Đơng Hồ thì phổ biến
nhất là in bằng ván khắc gỗ. Màu sắc được pha chế từ
nguyên liệu tự nhiên dễ kiếm và rẻ tiền trong vùng: tro đốt
từ lá tre, tro rơm (màu đen), vỏ trai tán nhỏ (màu trắng),
hoa dành dành (màu vàng), rỉ đồng (màu xanh lá cây) v.v...
Màu sắc chủ yếu của tranh dân gian Việt Nam chính là
những màu sắc truyền thống của làng quê Việt Nam: màu
vàng của lúa chín, màu xanh của mạ, mùa đỏ của ngơ chín,
màu nâu của đất cày... Các tông khác nhau của màu đỏ
tương ứng với những mùa hoa sặc sỡ của thiên nhiên miền
nhiệt đới. Có thể phân biệt các màu đỏ như: màu mận chín,
màu cánh sen, màu hoa đào... Có ba màu được hình thành
bằng cách trộn lẫn những màu chủ yếu: mận chín trộn với
màu huyết dụ thành màu chu sa (đỏ son), chu sa pha với
màu đen sẽ được màu nâu cánh kiến, xanh pha với vàng sẽ
cho màu cây lê. Người ta pha màu bằng hồ nấu bằng bột
gạo cho thêm vôi và phèn chua.
Thông thường, khổ một bức tranh là 22 x 30 cm. Chánh rất

say mê những màu sắc trong sáng, đơn sơ mà tươi vui một


cách đặc biệt và hình thức trịn trĩnh trong cách thể hiên sự
vật, cũng như bố cuc đơn giản đến mức kinh ngạc, sự thong
dong và mềm mại của các bức tranh dân gian này. Chủ đề
ưa chuộng là: những sự kiện lịch sử trọng đại, các truyền
thuyết, hoặc các hiện tượng trong cuộc sống thường ngày
Khát vọng học tập đã đưa Chánh tới thành phố, nơi có
những trường Pháp - Việt vừa được mở. Tại đây, ơng đã tích
cực học tiếng Pháp và sau khi tốt nghiệp xuất sắc, ông được
phân về một huyện làm phụ giảng. Thế nhưng lịng say mê
hội hoạ của ơng khơng hề suy giảm. Năm 1925, khi Trường
cao đẳng mỹ thuật được mở tại Hà Nội, người duy nhất
trong số hàng trăm thí sinh miền Trung trúng tuyển là chàng
thanh niên 33 tuổi Nguyễn Phan Chánh. Ở độ tuổi đã trưởng
thành, không phải Chánh đã không do dự trước một bước
ngoặt như vậy trong đời mình. Ơng phải ni mẹ và vợ, mà
hội hoạ lại không phải là nghề đem lại nhiều lợi nhuận vật
chất.
Ở đây cần phải nhấn mạnh một điều rằng, đến thời kì này,
nền hội hoạ Pháp đã tiếp nhận nhiều thủ thuật hội hoạ của
các nghệ nhân phương Đông. Trước đó, trền nền tảng của
những cuộc chiến tranh thuộc địa, đã nảy sinh quá trình
tương tác giữa các nền văn hoá, sản sinh ra những chủ đề


khá thú vị, làm động lực cho sự phát triển hội hoạ các nước
Tây Au (Đêga, K. Mônê, Gôghen, Van Gốc, Tuluz - Lôtrec,
Bônnar...)

Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương được thành lập
nhằm phục vụ cho lợi ích của Mẫu quốc, nhưng xét một cách
khách quan, nó đóng một vai trị quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nền nghệ thuật dân tộc hiện đại của Việt
nam. Chính quyền thuộc địa cố biến trường này thành
những xưởng vẽ ứng dụng và hướng chúng thích nghi với
địi hỏi của thị trường. Thế nhưng chính quyền đã khơng
thực hiện được mong muốn đó. Tại trường, người ta dạy cho
học viên các kỹ xảo của hội hoạ hiện đại phương Tây, mặt
khác, sự tìm kiếm hướng khơi phục và phát triển những hình
thức hội hoạ dân tộc độc đáo cũng được tích cực tiến hành.
Cụ thể là người ta đã lưu ý nhiều đến nghệ thuật vẽ sơn mài

truyền thống.


Chánh quan tâm nhiều đến sơn mài từ góc độ kỹ thuật: ông
bị lôi cuốn bởi hiệu ứng lên màu khi đánh bóng sơn. Tuy
nhiên, xét một cách tồn diện, trạng thái tinh thần của hoạ
sĩ, niềm đam mê đối với những đề tài và cách thể hiện đơn
sơ, dân dã của ơng hồn tồn đối ngược với nghệ thuật sơn
son thếp vàng nơi cung điện. Mặc dầu vậy, Chánh rất thích
những bức chạm trổ dân gian, vốn gợi cho ông liên tưởng
đến những bức tranh Tết, và chạm trổ là một phần khơng
thể thiếu được trong trang trí nội thất của những ngơi đình
làng Việt Nam. Những hoạ tiết về cây cỏ và súc vật, những
đối tượng thờ cúng tế lễ, các sự tích tuồng chèo... được
những người thợ khắc tài hoa tạo nên từ chất liệu gỗ quý
như lim, sến, táu, gụ, mít...
Năm học đầu tiên, Chánh nắm được những cơ sở của hình

hoạ, của bố cục, làm quen với điêu khắc và các chất liệu hội
hoạ. Trong thời kì này, Chánh đặc biệt say mê tìm tịi cách
kết hợp giữa tranh dân gian và hội họa hiện đại.
Sang năm thứ hai, các học viên được chuyển sang nghiên
cứu kỹ thuật tranh sơn dầu. Sơn dầu đã thu hút được sự chú
ý của các hoạ sỹ Việt Nam. Nó cho phép các hoạ sỹ vẽ
những mảng màu lớn, những côngtua mạnh mẽ, tạo khả
năng pha màu phong phú, hoặc cho phép mô tả chiều sâu


và hình khối. Chánh đã thí nghiệm khơng mệt mỏi trong lĩnh
vực này. Ơng có sáng kiến sử dụng bút lông viết chữ nho để
vẽ sơn dầu, tạo ra những đường nét nhẹ nhàng mềm mại
hơn trên nền vải. Về sau, Chánh thôi không vẽ tranh sơn
dầu nữa. Và hiện nay cũng chỉ còn lưu lại một vài bức vẽ
sơn dầu của ông.

Các hoạ sỹ phương Đông thời
Trung cổ không hề biết đến chất liệu sơn dầu. Họ vẽ bằng
mực tầu hoặc thuốc nước trên giấy hoặc lụa. Mỗi một nét
bút đều địi hỏi độ chính xác tuyệt đối, bởi lẽ sửa lại những
gì đã được vẽ ra là điều không thể thực hiện được. Tuy
nhiên, độ biểu cảm của đường nét là vô cùng to lớn. Hội hoạ
cổ truyền có phần phiến diện, nhưng dù sao đi nữa ở đây
cũng có những thủ thuật ánh sáng và thể hiện chiều sâu và
hình khối. Bằng cách cho thêm nước vào mực, hoạ sỹ đạt
được vô số sắc thái của màu, thể hiện được những độ đậm


nhạt khác nhau. Đặc biệt, ở trường Mỹ thuật người ta chú ý

nghiên cứu những thành tựu kỹ thuật và thẩm mỹ của các
danh hoạ Trung quốc nói chung và nhất là các danh hoạ
dưới triều đại nhà Thanh, thời tạo nên bản luận văn kinh
điển nổi tiếng: “Trường ca về hội hoạ từ vườn tiêu” (nửa sau
của thế kỷ 17).
Nét đặc trưng của tranh truyền thống là bố cục của nó. Ở
nhiều phương diện, bố cục này được ấn định bởi một điều là
hội hoạ cổ truyền không sử dụng luật xa gần* của các nghệ
nhân phương Tây. Sự mô tả các vật thể ở xa được thể hiện
theo toạ độ dọc**.Bởi vậy, tài năng của hoạ sỹ chính là ở
đạt được tỉ lệ tương quan giữa kích thước xa và gần của
những đối tượng miêu tả cũng như sự tương ứng hài hoà
của những chỗ bỏ trống và những chỗ có nét vẽ trên bức
tranh.
Là một trí thức nhà nịi kế thừa sâu sắc những truyền thống
văn hố dân tộc, Nguyễn Văn Chánh hiểu và yêu quý những
bức hoạ cổ xưa vẽ trên lụa. Đồng thời cũng là một hoạ sĩ có
nền học vấn phương Tây được đào tạo chuyên nghiệp, ông
đã nhận ra trong nền hội hoạ cổ truyền có những mặt cần
thiết cho hội hoạ phương Tây. Như một nghệ nhân, ông đã
kết hợp được truyền thống dân tộc và những thành tựu văn


hoá xã hội của thế kỉ mới.
Ở trường Mỹ thuật, người ta rất chú trọng đến kỹ thuật thể
hiện hình khối. Nguyễn Phan Chánh cũng mơ tả hình khối. Ở
ơng, hình khối đạt được một cách dễ dàng bằng những
mảng màu, những đường viền tinh tế, nắn nót và tao nhã.
Với màu sắc cũng vậy. Ơng khơng hề qn những bài học ở
trường. Nhưng khác với tranh các họa sĩ phương Tây, màu

sắc trong tranh của ông nhẹ nhàng, mềm mại, khơng hề sặc
sỡ. Đó chính là phong cách độc đáo của ông.
Phong cách hội họa độc đáo của Nguyễn Phan Chánh đã
chiếm được sự chú ý của phương Tây. Những tác phẩm đầu
tay của ông như “Chơi ô ăn quan”, “Rửa rau cầu ao”, “Em bé
chơi chim” - đã được Triển lãm thuộc địa Pari năm 1931 đón
nhận và đánh giá cao. Vào những năm 1932-1934 tranh của
ông được triển lãm ở Rơma, Milăng, Neapol, sau đó là ở
Brucxen và San -Fransiscô.

Nguyễn Phan Chánh (bút hiệu: Hồng Nam; 1892 - 1984),
hoạ sĩ Việt Nam. Quê: huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tốt
nghiệp Trường Mĩ thuật Đơng Dương khố I (1925 - 30).
Người đầu tiên khởi xướng phong trào vẽ lụa ở Việt Nam
những năm 30 thế kỉ 20. Nhận thức hội hoạ bắt đầu từ mực


tàu bút lông, ước lệ phương Đông cổ truyền trong bố cục,
màu sắc. Tham gia đấu xảo đầu tiên tại Pari 1931, với các
tác phẩm vẽ lụa nổi tiếng về đề tài nông thôn trên bảng
màu nâu nhạt. Kĩ thuật rửa lụa sau một lần vẽ làm cho lụa
mềm mại, màu sắc thấm nhuộm vào từng thớ lụa là một tìm
tịi lớn của ơng. Cách hồ lụa trước khi vẽ phác hình rất nhẹ
ở mặt trái, mờ nhạt các đường viền hình hoạ cũng là những
kĩ thuật rất riêng biệt của ơng. Tác phẩm chính là các tranh
lụa: “Chơi ơ ăn quan” (1930), “Em cho chim ăn” (1930),
“Rửa rau cầu ao” (1930),”Đan Mây” (1957), “Bữa cơm mùa
thắng lợi” (1960), “Sau giờ trực chiến” (1967) “Trăng tỏ,
trăng lu” (1970). Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
BTV: dt

Mức độ viếng thăm : 4%
Hoạ sĩ sinh ngày 21-7-1892 tại Thạch Hà nay là phường Tân
Giang, thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1922 ông tốt
nghiệp Trường Thành Chung Huế. Từ nhỏ đã được rèn
luyện về Hán học và thư pháp, song yêu hội hoạ ông thi vào
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (vừa mới mở năm
1925), dù ở tuổi 33. Lúc đó, trường dành ra 10 chỗ cho
"những người bản xứ" trên tồn Đơng Dương. Tại đây,
Nguyễn Phan Chánh đã bắt đầu đi sâu về tranh lụa. Khi


công sứ Bắc kỳ yêu cầu vẽ thực dụng, Nguyễn Phan Chánh
bỏ Hà Nội ra đi và mất cơ hội tham gia phịng tranh 1938.
Song đối với giới chun mơn thì các tác phẩm của Nguyễn
Phan Chánh đã trở nên quen biết và được thừa nhận từ
triển lãm thuộc địa 1931.

Chơi ô ăn quan
Nhà văn Nguyễn Nguyệt Tú, con gái đầu của họa sĩ, nhớ lại:
"Năm 1939, tôi học trường Đồng Khánh (Huế), mỗi lần có
dịp về thăm nhà, cha thường bảo tôi làm mẫu. Để tạo được
những nét gấp bên lườn áo, mặc dù rất mỏi, tôi vẫn ngồi yên
cho cha vẽ. Còn bức tranh Thiếu nữ trước biển, cha vẽ tơi
tại bãi biển q hương. Sau này, có lần, cha con tôi đến
quán cà phê Lâm xem và xin mua lại nhưng chủ nhân khơng
bán. "Khơng ai có thể nói cái gì tồn tại mãi được, ngay bức
tranh lụa đẹp cũng không thể là cái đẹp vô hạn. Màu sắc
tươi đẹp bao nhiêu cũng không thể sống mãi với thời gian.
Những gì cịn lại bất chấp sự phơi pha của thời gian là tình
người. Tình người giúp cho cha trải qua những sóng gió của

cuộc đời...". Trong những phút cuối cùng, cha đã tâm sự với


tôi như thế. Khi là giáo viên của trường Bưởi, có lần cha tơi
mở triển lãm tranh. Ơng tổng giám thị của trường là người
Pháp tới xem và cứ nằng nặc đòi mua bức Hai chị em, trong
khi bức tranh này đề rõ là đã có người mua. Cha tơi gợi ý để
ông này mua bức khác nhưng ông ta nhất định không chịu
và đề nghị cha tôi vẽ lại bức tranh. Cha tơi vốn thẳng tính,
ơng bảo: "Tơi là một họa sĩ, khơng phải là nhà nhiếp ảnh". Vì
vụ việc này mà cha tôi nghỉ dạy ở trường Bưởi. Thế là sau
25 năm ra Hà Nội, cha tôi lại về quê rong ruổi đeo đồ nghề
đi vẽ tranh truyền thần khắp các làng quê như hồi 15, 16
tuổi. Nhưng cha tôi vẫn đam mê với tranh lụa, ông cụ tập
hợp được hơn 40 bức tranh vẽ hồi ở quê, ra Hà Nội thuê
phòng, mở triển lãm, bán hết được số tranh này và sau đó
đưa cả gia đình trở lại Hà Nội. Để nuôi 9, 10 miệng ăn, thời
gian kháng chiến chống Pháp, cha tôi vừa đi vẽ tranh truyền
thần ở các tỉnh lân cận, vừa lấy ký họa cho tranh sau này."

Tắm sơm
Hết chiến tranh, họa sĩ Nguyễn Phan Chánh trở về Hà Nội
với tranh lụa. Đề tài của họa sĩ vẫn là người nông dân và


cảnh thôn quê: trẻ em chơi, thiếu phụ tắm cho con, thơn nữ
gánh thóc, người con gái nghiêng mình xuống nước, cánh
đồng sau mùa gặt hái...
Nguyễn Phan Chánh mất năm 1984, an táng tại Nghĩa trang
Mai Dịch. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng giải

thưởng Hồ Chí Minh đợt một năm 1996.

Tranh Nguyễn Phan Chánh hiện chỉ còn trên 50 bức
(trong khoảng trên dưới 140 tác phẩm hoàn chỉnh của
ông) ở Việt Nam. Chừng 2/3 số tranh của họa sĩ đã phát
tán khắp nơi trên thế giới, gia đình và những người
quan tâm chỉ biết khá mù mờ về chúng. Thế nhưng, mới
đây, đã có một số hé mở về những tác phẩm lưu lạc này.
Thêm hai tác phẩm…
Hơn 50 tác phẩm nói trên gồm trên 20 bức hiện
đang được lưu giữ rải rác trong các gia đình
con cháu họa sĩ và gần 30 bức đang được Bảo

Bản

tàng Mỹ thuật Việt Nam bảo quản. Đây cũng

photocopy

chính là những bức được giới nghiên cứu và

bức "Bữa

công chúng biết đến, trong đó có nhiều tác

cơm" từ

phẩm nổi tiếng. Cịn 2/3 số tranh thất lạc kia,

một tạp

chí cũ


ngay cả giới học thuật cũng gần như không nắm được thơng
tin gì đáng kể.
Điều bất ngờ là mới đây, thêm một tác phẩm của Nguyễn
Phan Chánh đã được tìm thấy trên một tạp chí nghệ thuật
của Pháp. Đáng tiếc, gia đình họa sĩ khơng có được bản gốc
mà chỉ là bản photocopy và cũng chỉ được một phần từ
trang 153 đến trang 183. Thế nên, không thể nhận diện đây
là tạp chí gì và xuất bản trong thời gian nào. Cũng trong tạp
chí này, phần Arts du Vietnam (Nghệ thuật Việt Nam) cịn có
một số tác phẩm của sinh viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đơng Dương cùng khóa với Nguyễn Phan Chánh như Lê
Phổ, Mai Trung Thứ, Tô Ngọc Vân…
Bức tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh đăng trong tạp chí
có tên tiếng Pháp là Le Repas (Bữa cơm), được vẽ năm
1929, khổ 87,8 x 65,5 cm, góc trái viết bốn dòng chữ Nho
kèm triện son đúng phong cách thường thấy của Nguyễn
Phan Chánh. Tác phẩm Bữa cơm chưa từng được nhắc đến
và dĩ nhiên chưa thấy xuất hiện ở bất kỳ nơi nào. Bức này
được họa sĩ vẽ vào thời kỳ đầu (1929 – 1931) trong cuộc đời
sáng tác của mình, cùng với Chơi ơ ăn quan (khoảng 1930 –
1931), Cô gái rửa rau (1930), Lên đồng, Cô bé cho chim ăn
(1931)… được xem là đỉnh cao của tranh lụa Việt Nam.


Một phần cuốn tạp chí này được TS. Hóa học Nguyệt
Phương, cháu nội của danh họa, đang giảng dạy tại Pháp,
sao chụp gửi về cho bố là GS. Sử học Nguyễn Phan Quang.

Ngoài Bữa cơm được in trang trọng (cùng với bức Rửa rau
cầu ao), bài viết còn nhắc đến một tác phẩm khác mà
GS.Quang cho biết là ông cũng mới nghe lần đầu. Đó là bức
La petite pâtissière (Cơ gái bán bánh) đã bán cho ông
Baschet, giám đốc tờ L’llustration của Paris, một tay chơi
tranh nghiệp dư rất mê tranh Việt Nam.
Sáu bức từng được giới thiệu ở Paris năm 1931
Cũng theo tư liệu trên, Cô gái rửa rau (đã bị
ghi nhầm là “rửa bát”) được đánh giá là bức
trứ danh nhất trong số sáu tác phẩm của
"Chơi ô ăn

Nguyễn Phan Chánh triển lãm dịp Noel năm

quan" - tác

1931 trên phố La Boétie, Paris. Bốn bức

phẩm nổi tiếng trong số ấy đã tìm ra tung tích là Lên đồng
thuộc bộ sưu tập Pierre Massé, Rửa rau
nhất của
Nguyễn Phan cầu ao (bộ sưu tập của bác sĩ Montel), Em
bé cho chim ăn (bộ sưu tập của bác sĩ
Chánh.
Morax) và Chơi ô ăn quan thuộc bộ sưu tập
Đức Minh. Riêng Chơi ô ăn quan ban đầu được nhà Đức


Minh mua về từ Pháp nhưng sau đó có tin nó đã bị bán
ngược ra nước ngồi!

Thơng tin trên một lần nữa được xác minh nhờ cuộc gặp gỡ
tình cờ giữa GS. Nguyễn Phan Quang với nhà nghiên cứu
ngôn ngữ và sử học Mai Bá Triều, một Việt kiều Bỉ về nước
vào tháng 6 năm nay. Người này đã tặng cho GS. Quang
cuốn tạp chí L’llustration số đặc biệt nhân mùa Noel năm
1932 có đăng trang trọng bốn bức tranh, trên có ghi rõ
nguồn gốc cùng với bài giới thiệu của Jean Tardieu (con trai
Victor Tardieu, Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Mỹ thuật
Đông Dương). Riêng Rửa rau cầu ao năm ngoái lại thấy
xuất hiện trong Triển lãm về Nghệ thuật và Văn hóa Việt
Nam tại Bỉ (từ 20/4 đến 18/8/2003).
Một họa sĩ Việt Nam lần đầu tiên được giới học thuật
phương Tây biết đến và đánh giá cao, Jean Tardieu viết
trong số báo đó: “Đứng hàng đầu trong số những họa sĩ Hà
Nội là Nguyễn Phan Chánh. Người họa sĩ trẻ này sinh ở Hà
Tĩnh, Trung kỳ, trước khi vào trường (Mỹ thuật Đông Dương
– PV) là nhà giáo ở quê. Anh ta là một trong số những người
Việt Nam trẻ thời đó khơng dứt bỏ chữ Hán… Qua các tác
phẩm của Nguyễn Phan Chánh và các họa sĩ khác cũng
không kém phần tài năng của thế hệ anh ta, nghệ thuật của


người An nam có thể nói đã đứng ngang hàng với những
nền nghệ thuật đã được tôn vinh”.
Điều ngạc nhiên là tranh ông không chỉ được đánh giá bởi
dân trong nghề mà còn được dân chơi tranh nghiệp dư ở
Paris thuở ấy lùng sục, nhất là sau cuộc triển lãm ở thành
phố này. Trong số đó có Pierre Massé, Giám đốc một Công
ty Điện, người đã mua được bức Lên đồng, bác sĩ Montel,
từng là giám đốc một bệnh viện nhỏ tại Sài Gòn, sở hữu bức

Rửa rau cầu ao.
Một chi tiết thú vị nữa theo tài liệu mà con gái GS. Quang
cung cấp, sau khi Rửa rau cầu ao đã được
Montel mua, ông Hiệu trưởng Victor Tardieu mới
nhận được một lá thư đề ngày 24/5/1932 của
một nhà sưu tập tên Thierry Delanoue với lời lẽ
mong mỏi có được một bức tranh của họa sĩ
người Việt kia. Thư có đoạn: “Tôi sẽ rất sung
sướng nếu được biết rằng những bức tranh lụa

Chân
dung tự
họa.

tôi đã thấy trong cuộc triển lãm trước đây có cịn
ở Pháp hay khơng và có bán khơng, đặc biệt là bức tranh về
một cô gái bản xứ đang rửa rau và cho tôi biết giá cuối cùng
là bao nhiêu”.


Vậy là, sáu tác phẩm từng được trưng bày ở Paris của họa
sĩ đến giờ này đã nhận diện thêm được một – bức Bữa cơm,
cịn Cơ gái bán bánh vẫn chỉ mới biết được cái tên.
Con trai danh họa Nguyễn Phan Chánh, GS. Nguyễn Phan
Quang cho biết: “Gia đình chúng tôi luôn mong mỏi biết
được mặt mũi những tác phẩm ấy như thế nào, thuộc sở
hữu của ai cho dù chẳng thể nào mua lại được và cũng
không đủ tiền mua”.
Một số tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh


Trong công
viên Thống

Hoc vẽ

Nhất

Soi
gương

Soi gương


(phác
thảo)

Tắm sớm


Võ Tiến

Cơ và cháu



×