Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tiểu luận đai học sư phạm Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh qua vẻ đẹp của tranh dân gian Đông Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.15 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong thời đại xã hội phát triển như ngày nay với nền văn minh
công nghiệp có rất nhiều trào lưu nghệ thuật mới xuất hiện, sự nhìn nhận
về hội họa vẫn ln phát triển, người ta khơng thể qn được cái đẹp
phóng khống và khỏe mạnh, tươi vui, tinh giản mà đậm đà của tranh dân
gian Đông Hồ. Tranh dân gian là một trong những nét đặc trưng độc đáo
của dân tộc Việt Nam, mang đậm dấu ấn về cuộc sống, về ước mơ bình dị
của con người với những chủ đề, tư tưởng riêng biệt và giá trị nghệ thuật
thỏa mãn nhu cầu tinh thần và thẩm mỹ trong đời sống của nhân dân.
Ngay từ các em học sinh tiểu học đã được tơ vẽ theo tranh dân gian,
đó là những bức “Lợn dáy”… và trong chương trình mỹ thuật cấp 2 học
sinh bắt đầu học thường thức tranh là tranh dân gian bởi nó có vẻ giản dị
nhìn vào rất dễ hiểu và không những học sinh ở lứa tuổi thiếu niên nhi
đồng thấy đó như một tiếng nói chung về cội nguồn, một sự gần gũi dễ tiếp
cận mà cũng có nhiều họa sĩ đang cùng các nghệ nhân nghiên cứu, chuyên
sâu và tạo ra nhiều tác phẩm tranh khắc đẹp để góp phần tạo nên giá trị cho
loại hình nghệ thuật dân tộc này. Từ trước đến nay đã có nhiều quan niệm
về tranh dân gian Đơng Hồ, có quan niệm cho rằng tranh dân gian là một
loại tranh vẽ hồn nhiên theo bản năng vì các nghệ nhân khơng được đào
tạo ở một trường lớp nào chính quy nào và những người chuyên nghiệp có
xu hướng hiện đại của Tây Âu cho lại rằng đó là phong cách độc đáo của
dân tộc…
Dịng tranh dân gian Đơng Hồ (Bắc Ninh) đã cùng với tranh dân
gian Hàng Trống là hai dòng tranh lớn mang những nét đẹp hài hòa và tạo
nên diện mạo lớn của mỹ thuật dân gian Việt Nam, tranh dân gian sẽ là con
đường thuận lợi để giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nói chung cho học sinh. Bởi

1



giáo dục nghệ thuật đang là vấn đề ngày càng được quan tâm chú ý trong
việc phát triển toàn diện nhân cách con người mới. Thông qua việc đi vào
nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề gần gũi là cái đẹp của tranh dân gian sẽ
giúp trẻ nhìn thấy và u cái đẹp. Tơn trọng giữ gìn và sáng tạo cái đẹp ấy
cho bản thân và xã hội.
Tay cày, tay bút, nếp suy nghĩ, nguyện vọng tâm tư tình cảm của các
nghệ nhân và nhân dân lao động đều nhất quán, họ cùng tạo nên hình ảnh
thân thuộc gần gũi quanh mình trong cuộc sống cần lao, đó là tranh Đông
Hồ, tranh hướng người xem đến với nhận thức và giáo dục họ một cách
hóm hỉnh sâu sắc với đề tài, tư tưởng chủ đề rất gần gũi với cuộc sống,
tranh “Đánh ghen” với cảnh đánh ghen rất quyết liệt kèm theo đó là lời răn
dạy ngay ở góc tranh:
“Thơi thơi bớt giận làm lành
Chi bằng sinh sự nhục mình nhục ta”
Các truyện thơ như Kiều, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Lục
Vân Tiên… với những tình tiết và những nhân vật trong các chuyện đã
được nghệ nhân vẽ lại theo quan điểm tình cảm và sự thích thú của bà con
như phảng phất đâu đây bóng dáng và hiện thân của những người nghe kể
chuyện trên nét vẽ. Những chuyện anh hùng lịch sử được truyền tụng từ
đời nọ qua đời kia như tranh “Bà Trưng” “Bà Triệu”… đã dễ dàng cho trẻ
em hiểu về các câu chuyện dân gian và sớm để lại trong lòng và niềm tự
hào dân tộc.
Qua thời gian dịng tranh Đơng Hồ và những dòng tranh dân gian ở
các vùng miền khác cùng tồn tại và phát triển lâu bền, chúng đã ảnh hưởng
đến nhau, bổ xung cho nhau tạo nên sự phong phú cho nền mỹ thuật dân
gian Việt Nam. Nó đã cùng cách nói đa thanh, đa nghĩa, với những làn
điệu dân ca mượt mà, với những điệu múa dân tộc tạo nên một nền văn hóa
dân gian Việt Nam phong phú đặc sắc. Phải bảo tồn nét đẹp truyền thống

2



của từng dịng tranh, đồng thời giúp nó khơng ngừng phát triển, khẳng
định sức sống bất diệt của mình cùng lịch sử dân tộc là nhiệm vụ của tất cả
mọi đối tượng, mọi thế hệ từ việc giáo dục học sinh yêu thẩm mỹ, yêu tính
dân tộc ngay từ lúc bắt đầu cắp sách tới trường.
Và đã có rất nhiều sách nghiên cứu về nguồn gốc, tính chất và ý
nghĩa của tranh dân gian nhưng hầu như không thấy đề cập tới vấn đề đưa
tranh dân gian vào giáo dục như thế nào?
Chính vì những lý do trên mà em đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu
đề tài với nội dung “Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh qua vẻ đẹp
của tranh dân gian Đông Hồ” làm đề tài cho tiểu luận tốt nghiệp của
mình. Đề tài nhỏ và chưa thể đi sâu hết các vấn đề của tranh dân gian
nhưng em mong muốn góp một vài suy nghĩ của mình mang tính gợi mở
đối với việc nâng cao giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu nhằm làm nổi bật vẻ đẹp và vai trò của tranh dân gian, nhấn
mạnh trong việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh ở lứa tuổi thiếu niên
nhi đồng, từ đó có phương pháp để áp dụng tốt vào việc học mỹ thuật.
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Giúp các bạn học sinh nhận thức được tầm quan trọng của tranh dân
gian, từ đó sẽ tìm thấy sự gần gũi và tiếp cận với mong muốn được tìm
hiểu, lưu giữ và sáng tạo nghệ thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng ở đây chính là học sinh và tranh dân gian Đơng Hồ trong đó
có các yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm: Cảm xúc thẩm mỹ, nhận thức,
giáo dục. Tuy nhiên trong bài tiểu luận của mình em khơng nghiên cứu sâu


3


vào dòng tranh mà đối tượng nghiên cứu ở đây chủ yếu là về vẻ đẹp và nhấn
mạnh vai trò của nó trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của bài tiểu luận do thời gian và kiến thức có hạn
em chỉ xin được đề cập đến tính thẩm mỹ và vai trị của tranh dân gian dân
gian Đơng Hồ đối với vấn đề học tập và giảng dạy mỹ thuật ở các trường
tiểu học và trung học cơ sở.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này em chủ yếu tập trung vào các phương pháp sau:
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp điền dã.
- Phương pháp thống kê và thu thập tài liệu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
5. Đóng góp của tiểu luận:
Bài tiểu luận của em nhằm giúp học sinh có thể hiểu thêm vẻ đẹp và
giá trị của tranh dân gian, đồng thời mong muốn góp phần tạo thêm nguồn
tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu, sưu tầm về vẻ đẹp của tranh dân
gian khi đưa vào giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh.
6. Bố cục của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và hình ảnh minh
họa, tiểu luận gồm có 2 chương :
Chương I: Vài nét khái quát về tranh dân gian Đông Hồ.
Chương II: Nét tương đồng giữa tranh dân gian Đông Hồ và
tranh vẽ thiếu nhi.

4



B. NỘI DUNG
Chương I
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TRANH DÂN GIAN ĐƠNG HỒ
I. Đặc điểm của tranh dân gian Đơng Hồ
1. Khái quát về làng tranh Đông Hồ
Tranh khắc gỗ Đơng Hồ là dịng tranh có nghệ thuật độc đáo và đậm
đà tính dân tộc với kỹ thuật khắc, in mẫu mực, ổn định do trải qua nhiều
thế hệ nghệ nhân sáng tạo. Tranh được sản xuất tại Làng Đông Mại xưa kia
(thường gọi là làng Mái) thuộc xã Hồ Tú, tổng Đông Hồ, Huyện Thuận
Thành, Tỉnh Bắc Ninh nay là thôn Đông Hồ, xã Song Hồ, Huyện Thuận
Thành Tỉnh Bắc Ninh.
Đơng Hồ có vị trí địa lý lịch sử nổi tiếng vùng Kinh Bắc, phía Bắc
của Đơng Hồ là con sông Đuống tiếp giáp với đền thờ Kinh Dương
Vương, cách đó 1km là chùa bút Tháp, phía Nam có thành Luy Lâu (1
trong 3 trung tâm văn hoá phật giáo lớn ở phương Đông trong thời đế chữ
Hán, là trung tâm kinh tế chính trị quân sự và thương mại của quận Giao
Chí và Châu Long. Phía Nam là đồng ruộng, nhìn thẳng là làng Sĩ Nhiếp,
phía Đơng có miếu Thiên Than…Theo địa giới hành chính hiện nay Đơng
Hồ có 748 nhân khẩu, 183 hộ, có 224.000mv đất canh tác chưa được 1 sào
cho 1 đầu người. Chính vì vậy nghề phụ lại trở thành nguồn thu nhập chính
của người dân. Hiện nay các tỉnh khác như Hà Nội, Yên Bái, Lào Cai…
vẫn về đây nhập hàng. Đông Hồ còn xuất khấu những mặt hàng như thảm,
đồ chơi trung thu và hoa tết…
Làng Đông Hồ nằm ngay Sông Đuống bên cạnh đường giao thông
nối từ hai vùng đất lở phù trú của Châu thổ sông Hồng là xứ Bắc (Hà Bắc)
với xứ Đông (Hải Dương).

5



Đọc “Bên kia sơng Đuống” của nhà thơ Hồng Cầm trong SGK lớp
12 ta thấy sơng Đuống gắn bó với đời sống của người dân, với những vẻ
đẹp của tranh dân gian Đông Hồ, cho dù chưa được về làng Đơng Hồ
nhưng học sinh đã có thể cảm nhận và tưởng tưởng được về ngơi làng phù
trú đó.
II. Nội dung, hình thức trong tranh dân gian Đơng Hồ:
1. Tục chơi tranh ngày tết của nhân dân Việt Nam với những nội
dung phong phú
Quan điểm nghệ thuật của tranh dân gian là cái đẹp phải xuất phát từ
nội dung tình cảm chân thật và ý thức giai cấp của tác giả. Em thấy rằng
muốn hiểu hết cái đẹp, cái quý của tranh dân gian chúng ta phải hòa vào
với tâm hồn, tình cảm của nhân dân, phải hiểu được hồn cảnh lịch sử , xã
hội cùng với những ước mơ, nguyện vọng vì cuộc sống của người dân thửa
trước, ta mới thấy hết được ý nghĩa của tranh.
Nhất là trong những ngày tết tranh dân gian rất cần thiết. Ngày xưa
ở mỗi vùng mỗi miền tới ngày tết ra chợ đều thấy bày bán tranh thờ ngày
tết và dù có nghèo đến mấy người ta cũng đều cố gắng có một bức tranh để
treo nhà. Suốt trong mấy ngày tết có các cuộc chúc tết trong gia đình họ
hàng thân thuộc, người trong làng ngồi xóm, phố phường gặp nhau, tới lễ
tết đều chúc nhau những lời thịnh vượng, những gì không hay trong năm
cũ đã được quên đi và họ chúc nhau những gì mà mong mỏi cho cả bản
thân mình. Tất cả những lời chúc tết, những điều mơ ước, ước vọng của
nhân dân trong dịp tết đầu xuân đều được biểu hiện, phản ánh trong tranh
tết và câu đối tết. Tranh dân gian Đông Hồ, nhất là bộ phận tranh tết, gắn
bó với nhân dân, tham gia cuộc sống tình cảm của các gia đình khơng chỉ ở
chủ đề tư tưởng, mà còn ở giá trị nghệ thuật đã làm thỏa mãn nhu cầu thẩm
mỹ của mọi người. Chính cái đẹp của tờ tranh đã làm cho nó sống mãi.
Phần lớn các nghệ nhân làm tranh dân gian là những người nông dân thực


6


thụ, họ rất am hiểu tình cảm và con người của xã hội nông nghiệp, người
mua tranh thưởng thức tranh cũng là người lao động trong đó hầu hết là
nơng dân.
Người dân lao động vất vả đầu tắt mặt tối cả năm để vui mừng đón
ngày tết, vui là để đuổi sầu cầu may, bên cạnh đó bức tranh tết đã góp phần
tạo thêm niềm vui tích cực ấy. Tranh ra đời trong các căn nhà tranh và để
rồi lại được trưng nổi lên, làm tươi sáng cả một góc tường của những căn
nhà tương tự, cũng gianh tre lụp xụp hay gỗ ngói sơ sài, nó ăn nhập với
nhau. Nó sưởi ấm với màu sắc đậm đà, nó sởi lởi với hình ảnh dí dỏm, nó
thu hút mọi người để tạo ra tiếng cười khúc khích, những vẻ mặt hân hoan,
ánh mắt rạng rỡ …Cả tranh những ông tướng canh cổng giúp người dân
yên tâm vui tết, cả những tranh thờ sau ánh đèn, làn khói cùng mùi hương
tạo cảm giác yên tâm thanh thản.
Tranh dân gian rất thiết thực, giàu tình cảm, giúp con người yêu cuộc
sống và lao động, thấy lạc quan yêu đời hơn. Ngoài việc thể hiện những ước
mơ đẹp đẽ, ca ngợi cái đẹp của sản xuất, cổ vũ tinh thần thượng võ (tranh võ
trường, tranh voi, tranh chiến đấu…) tranh dân gian Đông Hồ cịn là một
cơng cụ chiến đấu của nhân dân lao động đánh vào mặt giai cấp thống trị
(Đám cưới chuột, Thầy đồ cóc, Hội tây nhảy đâm..) hay là ngịi bút phê
phán những thói hư tật xấu (đánh ghen, trai tứ khoái, gái bảy nghề…)
Tranh tết in nét vẽ tay với những bức khổ to xếp theo bộ như tứ
bình: Tố nữ, tứ quý: xuân - hạ - thu - đơng, cá chép trơng trăng, thiên hạ
thái bình…tranh đại tự phúc lộc thọ, những bức câu đối, liễn …
Tranh tết xuất hiện trong khơng khí vui tươi rộn rã của mỗi gia đình
như một yếu tố tạo niềm vui, nó được dán thẳng lên vách đất tường vơi,
khơng khung, khơng kính, nó ăn nhập ngay với thế giới xung quanh, cân

bằng với những tường và cửa không gờ soi, không chạm khắc, với những
xà và cột không nặng nề khơng tỉa tót, với những giường phản đơn sơ, mộc

7


mạc với những đồ lễ trên bàn thờ long trọng mà khơng chống lộn, với
những trang phục của con người lành sạch, trang nhã mà không diêm dúa,
và chồng bánh chưng, mâm cỗ đạm bạc… Đó là một tổng thể tươi tắn, vui
nồng mà khơng lịe loẹt, ồn ã.
2. Hình thức độc đáo về chất liệu, bố cục - hình mảng, đường nét,
màu sắc
Theo các nghệ nhân và người dân xưa, những người làm nên những
tranh Đông Hồ đều khẳng định bức tranh đẹp là: Đường nét phải khéo gọn,
tả đúng chất, đi dứt khoát. Là màu sắc phải tươi đậm và trong, màu nào rõ
màu ấy. Là hình phải khái quát đúng đặc trưng của từng loại đối tượng. là
khi vẽ người ta ăn nhau ở cái dáng và cái thần (người sao tính vậy) “nhân
hình tại mạo, trắng gạo ngon cơm”.
Bằng nghệ thuật đường nét các nghệ nhân đã xây dựng những hình
tượng điển hình, tinh giản, phối hợp với các đường cong và thẳng tạo nên
hình tượng trong tranh, là cái chủ đạo góp phần thành cơng cho bức tranh,
đường nét khoanh lấy các mảng màu và gửi cho màu nằm trên giấy, các
đường cong vừa in lên chưa cần đến màu đã tạo nên dáng chung của tờ
tranh. Đường nét được xem là “dáng” còn màu là “men”, tất nhiên phải có
dáng đẹp và men hay thì tác phẩm mới có giá trị. “Nhất dáng nhì men” là
thế. Đường nét đã ổn định thì từng mảng màu sẽ ổn định, tồn bộ hình mà
ổn định sẽ tạo nên sự ăn nhịp với mảng màu và gây hài hịa trong tồn bố
cục bức tranh.
Cái đẹp màu sắc trong tranh dân gian trước hết phải đi từ màu nền
và xuất phát từ tranh điệp Đông Hồ. Nguyên từ một nền điệp thuần chất

cũng đủ lôi cuốn và hấp dẫn người xem. Vết chổi lá thông kéo dài theo
chiều dọc hay ngang tờ giấy đã gây được hiệu quả bất ngờ. Đầu tiên chỉ là
màu trắng điệp, và từ đó các nghệ nhân đã lướt thêm nước màu vàng hịe
hay đỏ vang, và tùy theo độ lỗng hay đặc, khi phủ lên nền điệp cho những

8


màu vàng với sắc độ thay đổi từ vàng lụa tơ tằm đến vàng son rực rỡ hòa
với màu của sóng lúa ngồi đồng, của hoa trái chín trong vườn, các màu
nguyên chất đó đã chuyển thành những sắc thái kì diệu, bên cạnh đó màu
nước gỗ vang tạo nên một màu tươi chuẩn mực “đỏ như vang” trông vào
thấy một niềm vui hồ hởi và gợi khơng khí tết sơi nổi với tình cảm đầm
ấm. cho thấy mỗi màu sắc đều mang ý nghĩa tượng trưng nào đó, và ý
nghĩa này ở mỗi dân tộc, mỗi địa phương còn gắn với những vấn đề thuộc
về văn hóa, phong tục tập quán và về tôn giáo nữa.
II. Nét tương đồng giữa tranh dân gian và tranh thiếu nhi. Vẻ đẹp của
tranh dân gian ảnh hưởng tới việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh
1. Vẻ đẹp của tranh dân gian tác động tới tình cảm và việc hình
thành, phát triển nhân cách học sinh:
Thời gian đã khẳng định được sức sống của tranh dân gian Đơng
Hồ, nó đã giữ được vị trí trong cảm xúc thẩm mỹ của mọi người với giá trị
tư tưởng, vẻ đẹp hài hòa, và những cái đẹp đó bắt nguồn từ cách nhìn, cách
nghĩ của người nghệ nhân cùng nhân dân lao động làm nên những bức
tranh, những con người đó thực sự am hiểu, nắm bắt được về tình cảm và
cuộc sống của con người xã hội nông nghiệp nên họ hiểu, họ đã tái tạo lại,
vẽ ra bằng lối tạo hình gạn lọc, không hề sao chép thực tế, họ không chỉ
nắm chắc ngoại hình mà cịn hiểu sâu sắc cả về phần nội tâm nữa, do đó
tranh đã được miêu tả bằng lối tạo hình, gạn lọc và sắp xếp cho thuận mắt
để rồi đưa tranh lên ở trạng thái nghệ thuật.

Trong quá trình xây dựng nhân vật, nghệ nhân khơng bị ràng buộc
bởi cái vụn vặt của hình mẫu, những cái họ thường gặp đã dần đọng lại
trong đầu một hình tượng khơng cá thể nhưng thật tiêu biểu. Nghệ nhân
cũng không bị lệ thuộc bởi những định luật phép tắc, trường quy nào cả, họ
được tự do sáng tác theo sự suy nghĩ và sự thôi thúc của tình cảm.

9


Tranh dân gian Đông Hồ được khái quát cao ở những hình tượng trong
tranh, chúng vừa hư vừa thực khiến người xem thấy thuận mắt, nghĩ thuận
tình, và thấy được thỏa mãn tâm lý bởi bức tranh bao giờ cũng có hậu.
Với những đề tài phong phú mn hình mn vẻ mà tranh khắc gỗ
dân gian phản ánh đã phần nào tái tạo lại cuộc sống linh hoạt của ông cha
ta thuở trước. Để gợi lại những sự kiện lịch sử oai hùng của đất nước,
những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm, xây nền độc lập tự chủ của
các anh hùng dân tộc thuở trước, các nghệ nhân đã khắc họa những hình
ảnh như: Đinh Tiên Hồng cờ lau tập trận, Bà Trưng, Bà Triệu thúc quân
diệt giặc, Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên Mông…
Khi tiếp xúc với thể loại tranh lịch sử đó các em học sinh như được
thấy về lịch sử, đất nước, con người Việt Nam một cách rõ nét hơn. Mặc
dù các em đã từng được đọc, được học qua những bài giảng, những trang
sách nhưng khi nhìn thấy hình ảnh được phản ánh qua tranh dân gian miêu
tả với khí phách hiên ngang dũng mãnh trước quân thù của các vị anh hùng
đã để lại trong các em những ấn tượng tốt đẹp, niềm tự hào dân tộc, từ đó
hình thành ý thức trách nhiệm của bản thân mình với quê hương đất nước.
Xem tranh “Gà đàn” , “Lợn đàn” của Đông Hồ chúng ta thấy đều nói lên
mơ ước của người nơng dân đồng thời cũng là để chúc tụng nhau khi chào
đón một năm mới. Song trước khi chuyển sang chúc tụng thì nó đã là
những tranh phản ánh, mơ tả sinh hoạt hàng ngày trong đời sống nông

nghiệp nhân dân. Quanh năm ngày tháng lao động để mưu sinh, họ chỉ ước
mong sao có “cơm ăn đủ no, áo đủ mặc, gà đầy sân, lợn đầy chuồng” đó là
những ước mơ hồi bão chính đáng mà rất giản dị, mộc mạc. Khi thưởng
thức tranh người ta luôn thấy được thỏa mãn tâm lý bởi những vật hiện
trên tranh đều đầy đủ tốt lành với những thể hiện như ý nghĩ của họ đều
trong sáng, cái thiện thắng cái ác, đó là tranh những chú lợn hồ hởi như
cười, con gà như vui múa.

10


Hơn thế nữa cùng lúc với nhiệm vụ mô tả và phản ánh ước vọng
cuộc sống, người nghệ sĩ dân gian Việt Nam còn chứa đựng trang sức
quyến rũ của tờ tranh những tư tưởng và tình cảm đã được nâng lên.
Đây là những lợn mẹ, lợn con mang đầy đủ những tình cảm mẹ con
trong tư thế đùm bọc, quấn quýt trong đôi mắt lim dim hiền từ. Đặc biệt
các chi tiết gà mẹ ngậm con mồi rất nhẹ nhưng con mồi khơng thể thốt
được và đồng thời cũng không bị dập nát để các chú gà con được một
miếng mồi ngon. Tình mẹ con ở đây phải chăng đã được nghệ sĩ dân gian
nhân cách hóa?
Và tấm lịng mẹ chắt chiu, dành dụm nuôi dưỡng lũ con, nhịn miếng
để dành nhường cho con những miếng mồi ngon lành nhất. Đó cũng là đạo
lý thơng thường trong tình cảm mẹ con đã ăn sâu vào tâm hồn chúng ta, đã
được coi là một hình ảnh đẹp đẽ, là một rung cảm nghệ thuật phong phú
một hình tượng vừa có chân, có thiện, có mỹ.
Tấm lịng bà mẹ Việt Nam đã ăn sâu vào tâm hồn người nghệ sĩ dân
gian Việt Nam. Tấm lòng người mẹ đã chắt chiu, dành dụm tần tảo nuôi
con, lấy hạnh phúc của con làm hạnh phúc của mình, con vui là mẹ vui,
con no là mẹ no, con sung sướng là mẹ sung sướng, nó trở thành một tình
cảm như vốn sẵn có. Một bản năng trong tư duy sáng tạo vốn tiềm tàng

trong sương máu tâm hồn nghệ nhân, rồi từ đó tờ tranh quay trở lại có tác
dụng xây dựng tâm hồn nghệ nhân, rồi từ đó tranh quay trở lại có tác dụng
xây dựng tâm hồn cho người xem qua nhiều thế hệ nối tiếp đối với các em
học sinh ở lứa tuổi thiếu niên nhi đồng, nó làm nảy sinh đánh thức tính
nhân đạo, tình u thương kính trọng cha mẹ, anh em, bạn bè, và đồng loại
cũng từ đó hình thành ý thức, nhân cách học sinh trong thời đại mới.
Với nội dung phong phú của tranh dân gian đã tác động tới cảm xúc
thẩm mỹ trong các em, các em biết trân trọng các đẹp, yêu thiên nhiên cây
cỏ hoa lá, những con vật bé nhỏ mà gần gũi với cuộc sống thường ngày

11


của các em, cũng từ đó biết giữ gìn và có ý thức làm cho mơi trường xung
quanh sạch và đẹp hơn.
2. Tương đồng giữa đường nét trong tranh dân gian với nét vẽ
của các em học sinh lứa tuổi thiếu niên nhi đồng:
a. Đường nét trong tranh dân gian:
Mặc dù giữa nét vẽ của tranh dân gian và nét vẽ trong tranh của các
em thiếu nhi có tiếng nói và những đặc trưng riêng song về một khía cạnh
nào đó có những đặc điểm chung.
Cái chung ở đây là nét tạo nên hình tượng nhân vật ngộ nghĩnh, hồn
nhiên vô tư và trong sáng, các nhân vật ở trong tranh ln ở thế động,
khơng bị gị ép tạo cho tranh ln có nhịp điệu và mang đầy tính trang trí.
Đường nét trong tranh Đơng Hồ thường khơng tạo ra nhiều hình to,
nền thống mang tính chất phóng khống, mộc mạc của những người nông
dân thuần hậu. Các đường nét ấy lại thường to mập, sung sức, chắc khỏe,
dứt khoát hiền lành như bản chất của những người nông dân ưa “ăn chắc
mặc bền”. Khơng có tính chất vuốt ve, khêu gợi như của các phái tân hoa
như Tây Âu, thướt tha như nét khắc gỗ Nhật Bản hoặc bút pháp như rồng

bay phượng múa của quốc họa Trung Quốc cổ điển, khi xem tranh gà
“Đại cát” đang chân co chân duỗi, đem lại những điềm tốt lành may mắn.
những nét của tranh gà “Thư Hùng” biểu hiện sự dồi dào sung túc có tư
thế tự hào tự lực như tâm tình rằng: “no ăn và hạnh phúc là do mình tự
tạo bởi sức lao động của chính mình”. Tranh “Hứng Dừa” với đường nét
to mỏng, phồng như những trồi non đang trổ, biểu hiện của tuổi thanh
xuân căng đầy sức sống. Trong kỹ thuật làm tranh, các đường nét ấy bao
giờ cũng được in sau cùng, bằng những “mầu đen ở giữa những mảng
màu và nền tranh rực rỡ”.
Cách sử dụng đường nét, màu sắc là hai yếu tố quan trọng tạo nên vẻ đẹp
của tranh vì vậy hầu hết tranh khắc gỗ dân gian rất chú trọng tới đường

12


nét và màu sắc. Dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân, đường nét
tạo sự nhất quán giữa hình và màu, diễn tả được tình cảm tính cách nhân
vật bằng những nét viền to, nhỏ, đậm đà dứt khoát, khỏe nhưng không
khô cứng, chắc nhưng mềm mại uyển chuyển, thanh thoát tạo nên vẻ đẹp
riêng của tranh.
Các nghệ nhân đã lặn lội trong cuộc sống thấu hiểu các lớp người
trong xã hội, thuộc lòng các cảnh vật ở quanh mình: “Có đủ các thần tượng
về các thần thánh mà con người thấy liên quan đến nên họ sẵn có trong đầu
những hình ảnh chuẩn mực dù phức tạp đến đâu cũng tìm ra đường viền
giới hạn khái quát nhất”…(Một số đặc điểm trong tranh dân gian - Nguyễn
Trân). Cái đẹp đọng lại trong trí nhớ của họ khơng phải là ở hình thể trong
trạng thái tự nhiên vốn có nữa mà là một tinh giản, cô đọng và tiêu biểu.
Những đường nét trong tranh dân gian chẳng những tạo ra dáng hình mà
cịn đặc tả được tính cách và thể chất của đố tượng, nhân vật khiến cho
người xem có những tình cảm gần gũi, thoải mái với cuộc sống đồng ruộng

và màu sắc nâu sồng chân quê. Xem tranh “Đánh ghen”, vẫn bằng những
đường cong nghệ nhân đã thể hiện thành cơng hình ảnh hai bà vợ đanh đá
chua ngoa trong trạng thái tâm lý gợi ra sự mềm mại kì thú của thể chất da
thịt . Ở tranh “Thầy đồ cóc” thì nghệ nhân lại dùng đường nét gồ ghề khúc
khuỷu gợi lên cả chất da xù xì, dày cộm của con vật. Tranh “Trạng chuột
vinh quy” những nét cong vặn vẹo lắt nhắt lại bộc lộ sự nhút nhát khép nép
sợ sệt trước con mèo già hiểm ác. Tranh “Gà đàn” có những đường cong
thoải mái đã nêu được niềm vui xum họp, sự nhí nhảnh của lũ gà con, và
thấy được cả chất xốp của lông gà mẹ. Tranh “Hứng dừa” với hai câu thơ
đậm tính hài hước, một tình u tràn trề sức sống:
“Khen ai khéo dựng nên dừa
Đấy trèo đây hứng cho vừa lòng nhau”

13


Đường cong của cả người trèo cây và người hứng dừa đều mơn
mởn, nhởn nhơ đầy chất trữ tình tốt ra sự mềm mại của da thịt, cái lạc
quan của tâm hồn con người. Tranh Đông Hồ với những đường cong gẫy
khúc tạo nên những đám mây lớp trong lớp ngồi nặng nề như có cảm giác
thần bí thiêng liêng. Những đường thẳng của tường hoa và cột bình phong
đã tạo cảm giác bề thế trong một gia đình của “Đánh ghen”.
Đường thẳng tương đối là ít nhưng lại quan trọng để phù trợ cho
đường cong trong thế cân bằng có chừng mực, những đường cong thẳng
của cán cờ, của thanh kiếm và giá kiếm tuy ít nhưng đã tạo sự chắc chắn,
vững vàng và sức mạnh. Tranh “thầy đồ cóc” có những đường thẳng tập
trung ở án thư, và cạnh sập đặt theo thế cắt chéo nhau tạo cảm giác về gỗ
chắc chắn và làm nền cho vẻ bệ vệ của thầy đồ cóc.
Tranh “Hứng dừa, Em bé, Gà, Lợn,…” rất hiếm đường thẳng mà
chủ yếu là dùng đường cong, những nhịp điệu mang tính trang trí tạo cho

người xem luôn cảm thấy cuộc sống niềm vui sự phát triển, sự no đủ và
đầm ấm.
Khi xây dựng nhân vật các nghệ nhân đã có sự cân nhắc kỹ tinh giản
và cách điệu trong mọi đường nét, đồng thời khi bức tranh ra đời người ta
đã dán lên vách nhà để mọi người trong trong thơn xóm có dịp xem.
Những bình luận góp ý của quần chúng đã giúp tác giả sửa chữa và bổ
xung để được tranh mẫu hoàn mỹ. Do vậy tranh mẫu không chỉ là sánh tác
riêng của nghệ nhân mà cịn là kết quả góp ý chung của quần chúng.
b. Nét vẽ trong tranh thiếu nhi:
Tranh thiếu nhi không hẳn các em đều vẽ nét bo lấy hình mảng mà
nhiều khi chỉ là những mảng màu đặt cạnh nhau, tuy nhiên phần nhiều các
em cũng thường sử dụng nét để lấy viền hình.

14


Khi tiếp cận với đường nét trong tranh dân gian khơng phải các em bắt
chước các đường vẽ đó mà qua đó các em như được định hình một phong
cách khơng gị gẫm, khơng lệ thuộc.

15


Qua tranh dân gian các em như được mở rộng hơn tầm mắt vào thế
giới tự nhiên, mn hình mn vẻ, được khuyến khích và khích lệ vẽ. Với
những em học sinh có năng khiếu thì các em có sự hào hứng và vẽ một
cách say mê. Đối với các em học sinh ít năng khiếu cũng cảm thấy tự tin
hơn khi học vẽ, có cảm giác hơn khi học vẽ, có cảm giác vẽ cũng khơng
khó lắm và khơng cịn thấy sợ mơn mỹ thuật.
Qua tranh thiếu nhi chúng ta thấy các em thường thích gì thì vẽ đấy,

khơng đắn đo, do dự hoặc tỉa tót một cách kỹ lưỡng. Với phong cách tự do
suy nghĩ tự do sáng tác về những chủ đề đã được nghe, được thấy và thơng
thường các em ở nơi nào thì hay vẽ những cảnh vật ở nơi đó. Các em vẽ
theo cảm xúc tự nhiên vốn có, nên hình ở trong tranh các em rất ngộ
nghĩnh, ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng, nét vẽ thoải mái mạnh bạo rất dứt
khoát và khỏe khoắn. Trong quá trình thực tập em đã dạy tại trường
Hermann Gmainer và quan sát em thấy các em học sinh vẽ những tranh
thật đẹp như bức hai mẹ con chú gà này:

16


Bài vẽ của Thùy Linh lớp 2A1.
Nó chẳng có điểm chung với tranh “gà đàn” của Đơng Hồ là gì? Đấy
là màu sắc được đặt cạnh nhau không hề pha trộn, đấy là cái không gian
của tranh.
Với nghệ thuật sử dụng đường nét, các nghệ nhân làm tranh dân
gian đã xây dựng được những hình tượng điển hình, tinh giản, phối hợp
các đường cong và thẳng chưa cần vẽ màu đã tạo nên dáng chung của tờ
tranh có cái đẹp đại thể và đúng chất của đối tượng miêu tả.
Khi tiếp cận với tranh dân gian nhất là với đường nét trong tranh, các em
như cảm nhận thấy một cái gì đó rất gần gũi, đồng cảm, như tìm thấy một chỗ
dựa vững chắc, một người bạn thân thiện trong nét vẽ của mình.
3. Tương đồng về màu sắc giữa tranh dân gian với tranh thiếu nhi
a. Màu sắc trong tranh dân gian:
Thụ cảm trước màu sắc của thiên nhiên, của tâm lý dân tộc, các nghệ
nhân đã đưa lên mặt tranh dân gian một cách rất sáng tạo bảng màu ngun
chất lấy từ thảo mộc hay khống sản, đó là một bảng màu trong sáng và rực
rỡ với màu của thiên nhiên thiên, nâu của sỏi son, xanh của lá chàm, sò điệp
với những kĩ năng phối sắc rất tài tình, các nghệ nhân đã tạo mỗi tranh mỗi

vẻ: Hòe, hiên, chàm, đen, đỏ, quế, lục, các màu đen than lá tre… Từ cách in,
tô màu đến bồi làm cho bảng màu nguyên chất, thô sơ ấy thiên biến vạn hóa

17


vơ cùng phong phú, hình thành một quan niệm về hịa sắc độc đáo mang
tính dân tộc phù hợp với đời sống, khơng khí, ánh sáng trong hồn cảnh lịch
sử của nhân dân. Tranh dân gian đã có “một chỗ đứng vững chắc trong nghệ
thuật màu sắc” (Cái đẹp của tranh dân gian - Nguyễn Đức Nùng).
Và chúng ta thấy khi những mảng mầu khác được đặt lên trên của
nền điệp sẽ trở nên trong sáng, màu của tranh dân gian Đông Hồ được đặt
đúng chỗ khi tương quan với màu xung quanh kết hợp với nét còn gợi lên
được tính chất của vật thể. Tất cả những màu sắc tưới sáng ấy đã được chế
ngự bởi các nét đen to khỏe, các nét đen đã làm dịu đi các mảng màu tươi
rói đó, các nét đen ấy khơng đặc và đen xịt mà xôm xốp anh ánh, Trong
“Đánh vật” thì ta thấy được sự nở căng đanh chắc của màu da các chàng
trai. Thì với tranh “Hứng dừa” , “Đánh ghen” thể hiện cái mịn màng mềm
mại, nuột nà của làn da. Tranh “Thầy đồ cóc” lại có cảm giác xù xì thơ
nhám. Màu lơng của gà trong tranh “Gà đàn” có chất xốp mượt.
Các nghệ nhân khơng khoe màu, trên mỗi tờ tranh chỉ có màu nền và
nét đen kết hợp với ba màu nữa, hãn hữu một số tranh mới cần đến bốn
màu. Trái lại có những tranh chỉ cần hai màu, thậm chí chỉ có một màu kết
hợp với nét đen. Chỉ với một số màu sắc ít ỏi ấy, do cách phân mảng và có
một số mảng in chồng màu, màu trong tranh đã biến hóa, gây ấn tượng rất
phong phú. Đường nét màu sắc của tranh dân gian chúng ta thấy được sự
thông minh hóm hỉnh, sinh động linh hoạt và cái chân chất, thật thà của
tình cảm, những bảng màu tự nhiên đó làm người xem thấy vui con mắt và
có khi cịn làm thay đổi nhân sinh quan, từ buồn trở thành vui, đang khổ
cực lại như có niềm tin hứa hẹn (tranh đánh ghen, chăn trâu…).

Nếu nói mỗi đường khắc mỗi nét vẽ của tranh là sự thể hiện hiện
thực của trí tuệ và tình cảm thì màu sắc cũng là hình tượng của cảm xúc
thành màu hiện thực, những màu đó gợi lên được sự vui buồn, sự mát mẻ
sảng khoái.

18


b. Màu sắc trong tranh thiếu nhi:
Với tình cảm chân thật, các em thiếu nhi ln có cái nhìn hồn nhiên
tươi sáng, do đó màu sắc trong tranh của các em luôn rực rỡ đậm đà và
mạnh mẽ, ở tranh thiếu nhi các em luôn vẽ theo sự cảm nhận tự nhiên vốn
có, khơng bị lệ thuộc khung cảnh, màu sắc hiện thực, vẽ theo sự cảm thụ,
suy nghĩ của mình.

Tranh vẽ thiếu nhi mặc dù hình tượng cịn ngượng ngập, sai sót về tỷ
lệ, màu sắc thường giống thực và đơi khi lại khơng giống thực, chính vì thế
tạo nên cái rất duyên, màu sắc vừa hư vừa thực các em nghĩ sao thì vẽ vậy,
nó thường mang tính chất khái qt về hình tượng và màu sắc, đó chính là
ngơn ngữ tạo hình đích thực của các em.
Với màu sắc mạnh mẽ, nguyên chất ít pha trộn, các mảng màu đặt
cạnh nhau thoải mái đến bất ngờ.

19


Bên cạnh đường nét màu sắc không thể không lưu ý tới bố cục
của tranh khắc gỗ Đông Hồ.
4. Bố cục trong tranh dân gian và tranh thiếu nhi:
a. Bố cục trong tranh dân gian Đông Hồ:

Tranh dân gian được các nghệ nhân làm theo phối cảnh ước lệ từ
không gian, ánh sáng, con người và cảnh vật, lấy hình để gợi ý, bỏ qua
cách nhìn thơng thường với khái niệm gần to xa nhỏ, gần đậm xa nhạt, đó
là cái nhìn tự nhiên và là cách bố trí hình trong tranh Châu Âu. Ở đây các
nghệ nhân chú ý vào bản chất và dừng mắt ở mối quan hệ, địa vị xã hội,
những nhân vật chính như tiên, thánh, tổ… hay chú mèo trong bức “Đám
cưới chuột” đều to hơn hẳn, người hay các sinh vật dù ở gần cận cảnh
nhưng đều bị thu nhỏ sàn sàn như nhau. Đó là khoảng cách vị trí xã hội
chứ khơng phải khoảng cách trong vị trí tự nhiên nữa, vậy nên hầu hết các
tranh dân gian đều có các nhân vật chính được phóng to hơn, ở giữa, các
nhân vật phụ thì bé hơn ở bên.
Ở tranh dân gian Đơng Hồ, đường nét và màu sắc đã phối hợp với
nhau tạo nên hình mà khơng cần quy luật viễn cận và bóng tối, chỉ cần bằng
20


cách xếp hình trên mặt phẳng của tờ giấy đã tạo được không gian cả chiều
sâu, nhiều tầng lớp thuộc cả ba thế giới trên trời mặt đất và trong lịng đất.
Kể chuyện “Thạch Sanh” xuống hang sâu cứu cơng chúa chỉ bằng vài hình
đơn sơ đã cho thấy được cả dã tâm và hành động lấp hang của lý thông ở
trên mặt đất, thấy cả hành động Thạch Sanh ở trong hang tiếp tục làm việc
thiện. Xem “Cá chép bên sen” thấy mặt nước rút hẳn đi chỉ được gợi qua
động tác bơi của cá bên hoa sen, tranh “Cá chép trơng trăng”, “Cóc kiện
Trê” là các nhân vật hoạt động trong nước nhưng không hề bị nước che
khuất, nước rút về phía sau làm nền cho cá nhưng nhưng vẫn có vai trị để
giữ bóng trăng ở đằng sau và bầy cá con lượn quanh rong cỏ.
Trong sự ổn định của từng mảng hình và tổng thể các hình trên một
bức tranh, nghệ nhân đã khéo léo tạo nên một sự cân đối, một quan hệ tỷ lệ
hợp lý giữa các hình, các nhóm hình với nhau sao cho chúng không lấn át
nhau mà trái lại càng tôn nhau lên tạo lên sự cân đối cho hình đẹp, bố cục

chặt chẽ, độc đáo và hợp lý.
Từ những tranh phản ánh sinh hoạt xã hội, những cảnh đám rước
đông người, cảnh dạy học, cảnh cấy cày, từ không gian ở trạnh thái tự
nhiên rất nhiều chi tiết các nghệ nhân gạn lọc và giữ lại cảnh vật tiêu biểu,
đủ làm nền cho các nhân vật hoạt động theo yêu cầu của chủ đề, trong
“Đánh ghen” các nhân vật trước và sau khơng che lấp nhau, ta thấy hình
ảnh bức bình phong, tường hoa chậu cảnh đã chia khoảng khơng từ trong
nhà ra ngoài ngõ làm ba khoảng, ba khoảng đó thu nhỏ lại kéo gọn vào
trong tranh, chậu cảnh, cùng với cảnh đánh ghen cho chúng ta liên tưởng
tới một gia đình trung lưu, có của ăn của để với ông chồng vừa ham vẻ liễu
vừa hám vẻ thanh ngang nhiên xua tay vợ cả “thôi thôi bớt giận làm lành”
còn tay kia vẫn tranh thủ để lên ngực cô vợ lẽ.

21


Trên khơng gian ước lệ, hình được cách điệu đơn giản tạo dáng hoạt
bát, đường nét mạch lạc, các mảng màu đậm nhạt thay đổi hợp lý khiến
cho người xem như bị hút vào đẩy ra rất lý thú. Trong tranh Đơng Hồ cũng
thường thấy sự góp mặt của chữ trên tranh như tranh dân gian của hội họa
Trung Hoa. Những dòng chữ làm cho nội dung bức tranh thêm rõ ràng, các
khoảng trống trong tranh bị che bớt, kéo lại các mảng màu làm cho bố cục
bức tranh thêm đẹp. Tranh “Đánh vật” gạt bỏ cảnh chỉ giữ lại hai tràng
pháo (hay hai xâu tiền giải thưởng) trên nền tranh nổi lên bốn cặp đô vật,
ba đôi đang trổ tài, một đơi ngồi chờ, xếp thành hai tầng, hình tượng được
nhắc đi nhắc lại gây cảm giác hội xuân đơng vui có người xa người gần,
người trước người sau đều to như nhau và không hề che khuất nhau. Bằng
kinh nghiệm sống và kinh nghiệm nghề nghiệp của các nghệ nhân đã mang
vào trong tác phẩm những hình cân đối, tỷ lệ hợp lý và đẹp mắt phù hợp
trong mối tương quan với xung quanh. Tranh “Hứng dừa” ta thấy người to

ngang với cây, cô gái trông to hơn hẳn những chàng trai đang hái dừa đã
tạo hiệu quả trên mặt phẳng với đầy chất thơ mà không hề thấy sai lệch.
Các cô tố nữ trong bộ “Tố Nữ” đứng đã gợi lại hình ảnh các cơ gái
của vùng quan họ Bắc Ninh vào hội xuân với bố cục được diễn theo hình
chữ nhật đứng, duyên dáng với các tà áo dài, váy lĩnh đen, tạo thành nhiều
nếp chảy xuôi trông vừa hiền thục vừa nghệ thuật với các khối cánh tay
tròn do đường cong của nếp áo với đường xiên chênh chếch của các nhạc
cụ. tóc rẽ ngơi giữa vấn lên, đuôi gà bỏ sang một bên, chân đi hài tạo nên
một bố cục nhịp điệu nhìn vào khơng chán mắt.
Những hình phức tạp đã được quy vào các hình đơn giản để vững vàng
hơn về thế đứng, là tranh “Vinh hoa phú q” có hình em bé ơm gà ơm vịt
đều được quy từ hình trịn hay hình quả trứng, có cái động và căng, lại trịn
lẳn và đầy đủ. Ở tranh “Gà đàn” thì thấy mỗi chú gà là một hình trịn biến thể,

22


những hình trịn ấy xen kẽ nhau, rải ra một cách điều hòa, các mảng màu lốm
đốm như hoa nắng, thuận mắt theo nhịp điệu của từng loại màu ấy.
Tranh “Lợn độc” với bố cục hình chữ nhật nằm, các góc cạnh được
chỉnh sửa thành hình bầu dục, nở căng, vai và mơng chạm vào khung hình,
trên mình lợn có các họa tiết hình trịn âm dương làm tăng mức chuyển
động và hiệu quả trang trí, Trong sự ổn định của mảng hình, của tổng thể
các hình trên một bức tranh, và quan hệ tỷ lệ thích hợp các nghệ nhân đã
tạo nên sự cân đối, biểu tượng của sự sinh sơi phồn thực, tiếp đó là bức
tranh “Lợn đàn”, là sự phát triển của lợn độc với các hình bầu dục lớn nhỏ
của đàn lợn một mẹ năm con được xếp dày đặc đông đúc…
Trong cái bố cục tranh ấy thường có một góc nhỏ khiêm tốn để dành
cho một bài thơ ngắn hay một câu ca dao hoặc trích truyện thơ, tục ngữ …
những chữ đó là chữ Hán, chữ Nôm với nét mảnh mai hay to khỏe, vừa là

để trang trí vừa làm cho bố cục thêm chắc chắn vừa là tiếng nói là tâm tư
của người nghệ nhân muốn tuyền đạt lại với người xem tranh, đó là mơ
ước, đó là khát khao, đó là sự hài lòng… nội dung những bài thơ hay câu
ca ấy người dân đã nhớ thuộc lòng, những em bé thiếu nhi đã được nghe
lặp đi lặp lại thành đường mòn trong tiềm thức hay nghe lần đầu là hiểu
ngay nhớ ngay bởi trong đó có những âm hưởng của ca dao, tục ngữ.
“Khen ai khéo dựng lên dừa
Đấy chèo đây hứng cho vừa một đôi”
Đây là những động tác hứng dừa hớ hênh với sự đáng u nhí nhảnh
của cơ gái, trong tranh có nét phởn phơ, tươi rói, một mong muốn hạnh
phúc lứa đôi, những hành động này chỉ có ở trong tranh mới có thể thoải
mái như vậy khi đấy ở thời mà xã hội mang tư tưởng nho giáo “Nam nữ
thụ thụ bất thân”. Những câu đối, câu ca dao ... đã gắn bó với hình tượng

23


của nét và màu đẻ nhanh chóng truyền đạt đến người xem những chủ đề
của tác phẩm.
b Bố cục trong tranh thiếu nhi:

Trong tranh thiếu nhi các em thường ít chú ý tới bố cục bởi các em
vẽ theo cảm hứng, vẽ theo cách hiểu, cách nghĩ và cách cảm nhận của các
em. Khi vẽ một vấn đề nào đó thường mang tính chất liệt kê sự vật và hiện
tượng nên các nhân vật trong tranh được dàn trải trên bề mặt của tờ tranh,
người xa, người gần, người trước, người sau nhiều khi được sắp xếp tạo
thành lớp trên, lớp dưới to bằng nhau, không hề che khuất nhau, màu sắc
đẹp đã tạo nên những bức tranh thật hồn nhiên, ngộ nghĩnh và nhiều bức
tranh đã đạt hiệu quả trang trí cao.


24


25


×