Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

luận văn đại học sư phạm Tháp Phật và truyền thống văn hoá Phật giáo Đại Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 63 trang )

Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Phần mở đầu
Sự phát triển Phật giáo vào Việt Nam, tín ngưỡng thờ tự ăn nhập dần trong
không gian văn hóa Việt. Chùa chiền là chốn thờ tự cũng dần định hình kiểu thức
kiến trúc cho phù hợp với văn hóa bản địa, ban đầu chỉ là túp lều tranh rồi chuyển
sang kiểu kiến trúc quy mô hơn. Khuôn viên ngôi chùa cũng được quy hoạch cho
phù hợp với điều kiện sống và sinh họat tín ngưỡng. Tiếp nhận và cải biến là mô
hình chung trong hệ thống kiến trúc Phật giáo Trung quốc cũng như Việt Nam. Cả
thời kì trung đại, Phật giáo Việt phát triển không ngừng. Thời Lí - Trần, đạo Phật
trở thành quốc giáo, phát triển và ảnh hưởng mạnh trong chốn cung đình. Thời Lê -
Trịnh về sau, không còn là quốc giáo, vị trí độc tôn nhường cho Nho giáo, tuy
nhiên đạo Phật vẫn âm thầm và chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong chính quyền Đại
Việt cũng như được sự ưu ái của vua chúa quan lại triều đình. Có thể nói, sự di cư
chùa chiền từ chốn kinh kì - trung tâm đô thị về những nơi làng quê xóm nhỏ là xu
thế thích hợp cho đạo Phật thời Đại Việt. Không gian rộng hơn, kiến trúc dần quy
mô hơn, hệ thống tín ng ưỡng dân nhiều hơn và phát triển mạnh mẽ hơn. Trong
điều kiện đó, kiến trúc cũng dần phù hợp với điều kiện mới. Chùa gồm hệ thống
điện thờ, lầu chuông gác trống, hành lang giải vũ tạo nên những chỉnh thể trong
một tổng thể kiến trúc và tín ngưỡng. Trong không gian của ngôi chùa, tháp chùa là
thành phần không thể thiếu trong tổng thể kiến trúc.
Chùa - Tháp là hai hình thức kiến trúc độc đáo biểu trưng cho Phật giáo: nơi
nào có Chùa - Tháp thì nơi đó có Phật giáo, nước nào nhiều Chùa - Tháp là nhân
dân nước đó thâm tín Phật giáo, địa phương nào bảo tồn được cảnh chùa ngôi tháp
cổ lâu đời thì Phật giáo địa phương đó rễ sâu gốc bền trong tâm linh của nhân dân
địa phương.
Trong bài viết này tôi trực tiếp đề cập đến hệ thống tháp Việt được dựng lên
trong các chùa chiền miền bắc bởi sự truyền nhập và phát triển của Phật giáo qua
triều đại phong kiến nhà Trần.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội


Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Chương I: Lịch sử tháp Phật.
I. Khái niệm tháp.
Giáo lý của đạo Phật cũng như đặc điểm nổi bật nền kiến trúc Phật giáo, là
tính giản dị, đại chúng và bình đẳng, từ bi. Các yếu tố đó giống như sợi chỉ xuyên
suốt nối kết các công trình kiến trúc như chùa tháp, Tăng viện trên hai nghìn năm
qua. Những ngôi chùa Phật luôn là trung tâm tôn giáo lẫn trung tâm sinh hoạt văn
hóa cộng đồng, từng góp phần tích cực làm phong phú thêm nền văn hóa địa
phương nơi đạo Phật đặt chân truyền bá đến.
Phát sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch, ở miền Bắc Ấn Độ, đạo Phật
xuất hiện như phản ánh lòng bất bình của quần chúng đối với chế độ đẳng cấp hà
khắc và quyền uy độc đoán của giới thống trị Tăng lữ Bà la môn. Tiếc rằng ngày
nay, những công trình kiến trúc Phật giáo huy hoàng của triều đại Asoka (271-231
trước Tây Lịch) nay không còn, nhưng những gì còn lại của những thế kỷ sau cũng
đủ để mô tả sinh hoạt đạo Phật thời kỳ đầu đó.
Bên cạnh các đền đài Bà la môn đồ sộ, mang nặng tính phô diễn nhưng khép
kín, xuất hiện các công trình tôn giáo khiêm tốn, dung dị nhưng mở rộng ra cho quần
chúng nhân dân, không phân biệt đẳng cấp, nguồn gốc. Đó chính là kiến trúc chùa
tháp.
Vậy một câu hỏi đặt ra: Tháp là gì?
Theo Từ Hải Từ điển của Trung Hoa có viết như sau: Tháp là phù đồ, nơi
chôn xương Phật, cũng gọi là Tháp bà, Phù đồ (hay Phù tề); còn có một tên nữa là
Phù họa hay Phật Đồ đều là tiếng Phật; nó do chữ “Stupa” hay “Pagoda” nói chệch
ra. Theo nghĩa đạo Phật, nó là mồ mả, là linh miếu.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Trong Phật Học Từ điển của Đoàn Trung còn viết: Tháp (stupa), Dagoba,

Tháp bà, Đâu bà, Du bà, Tụy đô bà, Phù đồ đều là những tiếng âm theo Phạn.
Thường đọc Tháp. Cũng đọc: Bảo tháp, Thất bảo tháp (nghĩa: Miếu, linh miếu). Đó
là những toà cao, nhiều tầng, dưới lớn trên nhỏ, để thờ xá lỵ (tro tàn) của chư Phật
hoặc của các nhà thành Đạo: Bồ tát, Duyên Giác, La Hán, hoặc để chôn di cốt của
các vị thượng toạ các ngôi chùa.
Ở đây chúng ta cần hiểu: Xá lị (Xá lợi) chính là xương còn lại của người chết
được hỏa táng. Theo truyền thuyết, xương cốt của Phật Thích Ca hỏa táng ở
Kusinara sáng láng như ngọc (ngọc xá lợi) được chia làm tám phần cho dân chúng
tám khu dân cư và thành phố ở Ấn Độ để họ xây tháp thờ cúng.
Tháp lại là những ngôi đền, dựng ra để thờ di tích, tro tàn, hài cốt của các nhau
vua, hiểu theo nghĩa thế gian. Trong những tài liệu lịch sử Phật Giáo, có 4 ngôi tháp, mà
các nhà tu hành nào đến hành hương chiêm ngưỡng, "thì được phước đức to". Đó là:
• Tháp kỷ niện chỗ Phật đản sanh.
• Tháp kỷ niệm chỗ Phật thành đạo nơi gốc cây bồ đề.
• Tháp kỷ niệm chỗ Phật chuyển Pháp luân, bắt đầu thuyết pháp. Như đức
Thích Ca chuyển pháp luân trong vườn Lộc (Lộc uyển), độ cho 5 vị Tỳ
Kheo.
• Tháp kỷ niệm chỗ Phật nhập diệt, nơi hai cây sa la, gần thành Câu Thi
Na. Ngài Huyền Trang đời Đường trong khi đi Thiên Trúc, có viếng và
chiêm bái bốn ngôi tháp nầy.
Như vậy: Ban đầu tháp (stupa) dùng để chỉ cho những chỗ được kiến tạo để thờ
xá lị của Phật, nhưng về sau nó được dùng lẫn lộn với chi đề (cetiya - điện thờ). Ma ha
tăng kỳ luật quyển 33, và Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 11 quy định rõ: Phàm nơi nào có
xá lị của Phật thì gọi là tháp, không có xá lị của Phật thì gọi là chi đề. Căn cứ vào đây
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
thì 8 ngôi tháp tôn trí xá lị của Phật tại Câu Thi Na, Ma Kiệt Đà v.v mới đích thực là
stupa (tháp). Ngoài ra, các ngôi tháp nơi Phật đản sinh tại thành Ca Ti La Vệ, ngôi

tháp chỗ Phật thành đạo dưới gốc cây bồ đề, ngôi tháp chỗ Phật chuyển pháp luân tại
vườn Lộc Uyển, ngôi tháp chỗ Phật hiện thần thông tại tinh xá Kỳ Viên, ngôi tháp có
3 cấp báu bên thành Khúc Nữ, ngôi tháp chỗ để kinh Đại thừa trong núi Kỳ Xà Quật,
ngôi tháp tại rừng Am La Vệ, nơi Duy Ma Cật thị hiện bệnh, ngôi tháp chỗ Phật Niết
bàn trong rừng Sala, (8 linh tháp lớn này) đều thuộc về chi đề.
Nguyên uỷ về việc tạo tháp bắt đầu từ thời Đức Phật, Thập tụng luật quyển
56 chép: Trưởng giả Tu Đạt từng xin tóc và móng tay của Phật về xây tháp để cúng
dường. Ngoài ra, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33 chép: Vua Ba Tư Nặc noi gương
Phật, kiến tạo tháp Phật Ca Diếp để lễ bái, cúng dường hằng ngày.
Sau khi Phật nhập diệt, Bà la môn Hương Tánh chia xá lị của Phật cho 8
nước; rồi các vị quốc vương rước xá lị ấy về nước xây tháp cúng dường. Đó là lịch
sử xây tháp đầu tiên sau khi Phật Niết bàn. Ngoài ra, theo A Dục vương truyện
quyển 1 và Thiện kiến luật Tì bà sa quyển 1 đều chép rằng: khoảng 200 năm sau
Phật nhập diệt, vua A Dục trị vì nước Ma Kiệt Đà đã xây 84.000 ngôi bảo tháp
trong vương quốc của mình.
1. Vài ngôi tháp tiêu biểu tại những nước Phật giáo.
Nếu căn cứ vào ý nghĩa rộng rãi của tháp mà nói thì các nơi trên thế giới đã
từng kiến tạo tháp rất nhiều. Chúng ta có thể kể đến một số ngôi tiêu biểu tại những
nơi theo Phật giáo như sau:
1.1. Ấn Độ: Tại Ba Hách Đặc (Bharhut) có một ngôi tháp di tích, thân tháp
đã huỷ hoại hết, nhưng còn nền tháp và những tảng đá. Thời gian xây tháp này
khoảng 200 năm trước Tây lịch.
- Ngôi tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng kiến tạo khoảng 100 năm trước Tây lịch.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
- Tháp thờ tại động A Chiên Đa (Ajanta) và tại hang Na Tây Khắc (Nàsik).
Vua Ca Nị Sắc Ca (kaniska) nước Kiền Đà La thuộc Bắc Ấn Độ xây một
ngôi tháp cao 32m dưới núi Tuyết Sơn, khoảng thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Đồng thời

nhà vua cũng xây một ngôi tháp khác, gồm 13 tầng cao hơn 200m, mà theo sách
Lạch Dương Già ký quyển 5 thì đây là ngôi tháp đặc sắc nhất trong những ngôi
tháp tại Tây Vức

Sanchi - Kiến trúc Phật giáo cổ xưa nhất
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
1.2. Tích Lan (SriLanka): Vua Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya Tissa) đã
kiến tạo một số ngôi tháp tại Tháp Viên (Thùpàràma). Đó là những ngôi tháp xuất
hiện sớm nhất trên Tích Lan. Ngoài ra, trên núi Vô úy (Abhayagiri) có một ngôi
tháp cao 120m, kiến tạo vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Đây là một trong những
ngôi tháp cổ rất nổi tiếng tại Tích Lan.
Colombo - Sri Lanka
1.3. Miến Điện (Myanmar): Nước này có tháp Phật Đoan Đức Cung
(Shwedagon) tại Ngưỡng Quang (Rangoon) cao 118m; tháp Tu Mã Đổ
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
(S'emaudau) tại Tí Cổ (pegu) cao 102m. Toàn bộ mặt ngoài của tháp đều được thếp
vàng và có 10 ngôi tháp nhỏ ở xung quanh.
Shwedagon tại Yangon, Myanma
1.4. Thái Lan: Tại cố đô Du Địa Á (Ayuthia) còn lưu lại không ít những
ngôi tháp Phật cổ xưa. Ngoài ra, tại Băng Cốc (Bangkok) còn có tháp Phỉ Lạp thác
mỗ ma yết đề (Phra - Thomma - Chedi) cao 125m, và ngôi tháp Thanh Tự (Wat
Ching) đều là những ngôi tháp nổi tiếng thế giới.
1.5. Lào: Nước Lào có tháp Duy Ân Thường (Chom - Vien chang), tháp
Khoa Ma Nghinh (Chom - yong), đều là những ngôi tháp cổ trọng yếu hiện còn.

Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Thạt Luông tại Viêng Chăn, Lào
1.6. Trảo - Oa (Java): Nơi đây có Bà La phù đồ (Borobudur) là một ngôi
tháp quy mô, bề thế; nền tháp hình tứ giác, chính giữa là một ngôi tháp lớn đứng
thẳng lên tới đỉnh, và chu vi thân tháp gồm có 72 ngôi tháp nhỏ. Trong mỗi ngôi
tháp nhỏ đều đặt tượng phật, toàn bộ kiến trúc có nhiều tầng cấp, hình dáng tương
tự kim tự tháp. Chiều dài, chiều rộng mỗi bên 123m, và chiều cao 42m. Đó là thánh
địa Phật giáo Đaị thừa hiện còn, rất to lớn và rất trang nghiêm.
Hàng stupa hình chuông tại Borobudur - Indonesia.
1.7. Trung Quốc: Tại Trung Quốc, thời đại tạo tháp được ghi nhận sớm nhất
là thời Tam Quốc. Tương quyền vào năm Xích Ô thứ 3 (năm 240), vua Đông Ngô
là Tôn Quyền sai Khương Tăng Hội đã chí thành cầu nguyện, cảm được xá lỊ xuất
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
hiện. Do đó, nhà vua rất thán phục, cho xây tháp để cúng dường, gọi nơi này là
chùa Kiến Sơ. Thế nhưng, theo Phật Tổ thống kỷ quyển 54 thì ngôi tháp tại chùa
Bạch Mã được xây vào năm Vĩnh Bình thứ 10 (năm 67) đời vua Hán Minh Đế, mới
là ngôi tháp sớm nhất của Trung Quốc. Về sau, sự tích các triều đại xây tháp vẫn
còn tiếp tục. Vào năm Thái Khang thứ 2 (năm 281), đời vua Võ Đế nhà Tây Tấn,
Huệ Đạt ở huyện mậu, tỉnh Chiết Giang trông thấy một bảo tháp từ dưới đất hiện
lên, cao độ 45m, rộng khoảng 22m. Do thế, ông bèn xây tháp tại ấy. Năm Huy Bình
nguyên niên (năm 516) đời Bắc Ngụy, Linh thái hậu là Hồ thị sai thợ thiền nghệ
kiến trúc một ngôi tháp gỗ tại chùa Vĩnh Ninh, Lạc Dương, gồm 9 tầng, cao 320m,
đứng cách xa một trăm dặm vẫn có thể trông thấy. Nhưng đáng tiếc là ngày nay
ngôi tháp này không còn.Vào đời nhà Tùy, vua Tùy Dạng Đế đã vì Đại sư Trí Khải

mà xây một ngôi bảo tháp bằng gạch tại chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai. Ngôi
tháp này hình lục giác, gồm 4 tầng, cao độ 74m. Vua Đường Thái Tông cũng từng
theo lời thỉnh cầu của Đường Tam Tạng Huyền Trang mà xây một ngôi tháp gạch
tại chùa Từ Ân, Tây An, cao 58m.
Đại Nhạn Tháp - Trung Quốc
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
1.8. Ni Bạt Nhĩ (Nepal): Xứ này có tháp Ô Nhã Mỗ Bố Na Đức
(Snuyambhunàth) tại Gia Đức Mãn Đô (Katmandu) rất lớn, hình dạng như cái bát úp.
1.9. Tây Tạng: Tháp ở Tây Tạng thường được gọi là Lạt ma tháp, và đa số
tháp ở đây đều có hình dáng nhỏ.
1.10. Nhật Bản: Vào tháng 2 năm Kính Đạt Thiên hoàng thứ 14 viên quan
đại thần Tô Ngã Mã Tử tạo một ngôi tháp ở phía Bắc Đại Dã Khâu. Ở trên đầu
chóp tháp tôn trí ngọc xá lị mà ông đã thỉnh được. Đến năm Suy Cổ Thiên hoàng
thứ 15 (năm 606), Thánh Đức thái tử tạo một ngôi tháp 5 tầng tại chùa Pháp Long,
đến nay vẫn còn. Đây là ngôi tháp gỗ cổ nhất thế giới.

Chùa tháp Toji - Kyoto - Nhật Bản
2. Hình dáng của tháp:
Về chủng loại của tháp rất phong phú, nếu dùng hình dáng để phân loại thì ta
có:tháp phú bát, tháp khám, tháp trụ, tháp nhạn, tháp lộ, tháp ốc, tháp vô bích, ,
tháp Lạt ma, tháp nhiều tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
bát giác, tháp đại, tháp đa bảo, tháp du kỳ, tháp Ngũ luân, tháp hình trứng, tháp vô
phùng, tháp lâu các, tháp mật diêm, tháp kim cương bảo tòa, tháp mộ

Trong các hình thức của tháp thì hình thức tháp phú bát (bát úp) là xưa nhất.
Theo luật Ma ha tăng kỳ quyển 33, và hữu bộ tùy nại da tạp sự quyển 18 thì tháp
phú bát gồm có các bộ phận sau đây cấu thành: thân tháp hình bát úp, đầu bằng có
trụ hình bánh xe, tướng luân và bảo bình. Luật quy định, nếu dựng tháp thờ Phật thì
phải có đầy đủ hình thức kể trên.Nếu dựng tháp cho Độc giác Phật thì không được
an trí bảo bình. Nếu xây tháp cho vị A la hán thì tướng luân không được nhiều hơn
4 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Bất Hoàn thì tướng luân không quáv 3 tầng.
Nếu xây tháp cho vị chứng quả nhất lai, thì tướng luân không quá 2 tầng. Nếu xây
tháp cho vị chứng quả Dự lưu thì tướng luân không quá 1 tầng.Nếu xây tháp cho
người thiện trong phàm phu thì phải xây bằng trên đầu và không được dùng hình
thức tướng luân. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 41 còn ghi rõ: Vị chuyển luân thánh
vương (như vị nguyên thủ của một đại cường quốc) cũng được xây tháp, nhưng
không được dùng tướng luân (tầng tháp hình lục giác hay bát giác), và chỉ xây bên
ngoài khuôn viên chùa. Vì vị này tuy có phước đức lớn nhưng chưa đoạn trừ hết 3
độc tham, sân, si.
Nền của tháp theo thể thức Ấn Độ thời xưa thì phần lớn làm hình tròn.
Nhưng Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam thì thường dùng tứ giác hoặc bát giác để
cấu trúc.Thân tháp càng về sau, càng biến thành nhiều tầng. Vào khoảng thế kỷ thứ
3, thứ tư có tháp 3 tầng xuất hiện, sau đó lại có 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng, 13 tầng, 15
tầng, 17 tầng, thậm chí đến 37 tầng.Nhưng theo Tỳ nại da tạp sự quyển 18 (Đ.24,
tr.291c) qui định thì số lượng các tầng tướng luân hoặc là 1,2,3,4 cho đến 13 tầng là
tối đa. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn một số tháp nhiều tầng nổi tiếng, như tại chùa
Tung Nhạc, núi Tung Sơn (Trung Quốc)có ngôi tháp gạch cao 15 tầng. Ở chùa
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Tiến Phúc, tại Tây An có ngôi tháp tiểu nhạn cao 15 tầng; và chùa Hương Tích, tại
Tây An có ngôi tháp gạch cao 13 tầng.
3. Chủng loại của tháp

Nếu căn cứ vào những vật được tôn trí trong tháp mà phân loại, thì chúng ta
có: tháp xá lợi, tháp tóc, tháp móng, tháp răng, tháp y, tháp bát, tháp chân thân,
tháp tro thân, tháp toái thân, tháp bình, tháp hải hội, tháp tam giới vạn linh, tháp
nhất tự nhất thạch
3.1. Tháp xá lợi: Tức là ngôi tháp được kiến tạo tôn trí xá lợi của Phật -
những chất kết tinh sau khi nhục thân đã được trà tì.
3.2. Tháp tóc: Ngôi tháp lập ra để cúng dường tóc Phật.
3.3. Tháp móng: Ngôi tháp được xây dựng để cúng dường móng tay, móng
chân của Phật. Hai vật này do trưởng giả Tu Đạt xin Phật đem về nhà xây tháp cúng
dường.
3.4. Tháp răng: Ngôi tháp dùng để cúng dường răng của Phật.
3.5. Tháp chân thân: Tháp dùng để tôn trí chân thân (nhục thân) của cao
tăng.
3.6. Tháp khôi thân: Tức ngôi tháp tàng trữ tro của bậc cao tăng sau
khi đã hỏa thiêu.
3.7. Tháp toái thân: Tức ngôi tháp an trí một phần tro thân sau khi hỏa thiêu
còn lại, như ngôi tháp Từ Ân ở gần đầm Nhật Nguyệt là ngôi tháp toái thân của Đại
sư Huyền Trang.
3.8. Tháp phổ đồng: Còn gọi là tháp phổ thông, tháp hải hội; tức ngôi tháp
tập trung di cốt của chúng tăng các nơi về tàng trữ vào một chỗ.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
3.9. Tháp tam giới vạn linh: Tức ngôi tháp tập trung những di cốt của hạng
người hữu duyên với Phật pháp.
3.10. Tháp mễ cốc: Ngôi tháp tàng trữ lúa thóc dùng để cầu nguyện cho ngũ
cốc được mùa.
3.11. Tháp nhất tự nhất thạch: Cứ mỗi viên đá nhỏ khắc một chữ trong
kinh Pháp Hoa, rồi chôn vào lòng đất, xây tháp lên trên để cúng dường.

Ngoài ra, kinh Quán Hư Không Tạng Bồ tát còn cho biết trên cung trời Đao Lợi
có 4 ngôi tháp tôn trí 4 di vật của Đức Phật, thường gọi 4 tháp của Đế thích, đó là:
1) Tháp tóc.
2) Tháp y.
3) Tháp bát.
4) Tháp răng.
4. Chất liệu dùng làm tháp
Phân tích về những chất liệu dùng làm tháp, ta có: tháp gỗ, tháp gạch, tháp
đá, tháp bùn, tháp đất, tháp sắt, tháp đồng, tháp vàng, tháp bạc, tháp thủy tinh, tháp
pha lê, tháp lưu ly, tháp ngọc, tháp châu báu và tháp hương.
4.1. Tháp gỗ: Tại Trung Quốc hiện còn ngôi tháp gỗ xưa nhất, đó là ngôi
tháp Thích Ca tại chùa Phật Cung, huyện Ứng, tỉnh Sơn Tây, làm năm Thanh Ninh
thứ 2 (năm1056) triều vua Liêu Đạo Tông, hình bát giác, gồm 5 tầng cao 115m,
kiến trúc rất kiên cố. Năm Nguyên Thuận Đế, tại huyện Ứng bị động đất 7 ngày
ngôi tháp này vẫn đứng yên bất động. Ngoài ra còn phải kể đến ngôi tháp do vua
Ca Nị Sắc Ca kiến trúc và ngôi tháp ở chùa Vĩnh Ninh, thành Lạc Dương cũng đều
là tháp gỗ.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
4.2. Tháp gạch: Hiện nay các nước Thái Lan, Miến Điện, Lào, Việt Nam,
Tây Tạng, những ngôi tháp hiện còn phần lớn là tháp bằng gạch. Tại chùa Tung
Nhạc, Trung Quốc có ngôi tháp gạch 12 cạnh, cao 15 tầng, nền tháp rất cao, mái
che trùng điệp, tráng lệ, hùng vĩ. Đây là một ngôi tháp kiến trúc rất nghệ thuật, cực
kỳ giá trị.
4.3. Tháp đá: Tại Ấn Độ ngày xưa thường xây tháp bằng đá như ngôi Sơn
Hà đại tháp. Ngoài ra, trong hang đá ở Vân Cương Trung Quốc hiện còn một số
ngôi tháp bằng đá.
4.4. Tháp cát: Trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa cũng như kinh

Luật Dị Tướng quyển 44 đều có đề cập đến cố sự "Đồng tử vun cát làm tháp".
4.5. Tháp đất: Trong Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có kể đến loại
tháp làm bằng đất dùng để cúng dường Phật.
4.6. Tháp sắt: Sách Nhập Đường cầu pháp tuần lễ ký chép: Tháng 9 năm
Lân Đức thứ 2 (năm 665) đời Đường Cao Tông, tại chùa Pháp Vân có tạo một
ngôi tháp bằng sắt gồm 7 tầng, cao 1 trượng.
4.7. Tháp đồng: Ngô Việt Vương là Tiền Hoàng Thục noi gương vua A Dục
ngày xưa, khoảng năm Hiển Đức thứ 2 (năm 955) cho đúc 84.000 cái tháp bằng
đồng, cao chừng 2 tấc Tây, mọi người đều ngợi khen là rất đẹp.
4.8. Tháp vàng: Phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa từng đề cập đến
loại tháp này.
4.9. Tháp bạc: Loại tháp cũng giống như tháp vàng ở trên, tương đối cũng ít
thấy. Theo sách Xuất Tam Tạng ký tập quyển 8 cho biết một người Bà la môn từng
tạo một ngôi tháp bạc trong nhà, cao 3 trượng, rộng 8 thước.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
4.10. Tháp thủy tinh: Ở Nhật Bản, tại phường Phản Bản Thực Tạng có ngôi
tháp thờ xá lợi bằng thủy tinh, được kiến trúc rất nghệ thuật; đó là quốc bảo của
nước Nhật.
4.11. Tháp pha lê, xa cừ, mã não, lưu ly: Các loại tháp này cũng đều thấy
có đề cập đến trong phẩm Phương Tiện và phẩm Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa.
4.12. Tháp ngọc: Loại tháp này còn lại hiện nay rất ít. Năm Khang Hy thứ
49 (năm 1709) đời nhà Thanh, vua Thánh tổ từng sai thợ chuyên môn dùng 3 màu
thạch ngọc vàng, xanh, trắng phối hợp điêu khắc một tòa tháp ngọc 8 tầng, cao độ 3
thước Tây, nghệ thuật điêu khắc rất tinh vi. Ngôi tháp này được xem như một thứ
quốc bảo. Trải qua thế cuộc biến thiên, bảo vật này lưu lạc đến nước Mỹ và hiện
nay nó được tàng trữ tại Đại học Áo Lập Cương.
4.13. Tháp hương: Tức dùng hương tán nhỏ hòa với nước mà nắn thành

ngôi tháp nhỏ, cao chừng 1,2 tấc Tây trở lên, trong tháp tôn trí những bản kinh
chép tay để lễ bái cúng dường, gọi là "Pháp xá lợi"
5. Mục đích của tháp:
Nếu phân tích về phương diện ý nghĩa, mục đích thì có: tháp kỳ phúc, tháp
báo ân, tháp pháp thân và tháp thọ.
5.1. Tháp kỳ phúc: Các tín đồ Phật giáo xem việc tạo tháp là một công đức
lớn, nên dựng tháp để cầu phúc.
5.2. Tháp báo ân: Vì mục đích báo đáp ân đức của Phật mà xây tháp để thờ
Phật, nên gọi là tháp báo ân.
5.3. Tháp pháp thân: Vì để an trí pháp thân xá lợi (những bản kinh quí
được chép tay) nên tạo tháp.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
5.4. Tháp thọ: Tức là bia, mộ của các cao tăng dự tạo lúc còn sống, giống
như người đời xây sinh phần.
6. Cách bài trí tháp.
Về cách bài trí tháp thì có các hình thức: tháp cô lập, tháp đối lập, tháp bài
lập, tháp phương lập, tháp cũng lập, tháp phân lập v.v
6.1. Tháp cô lập: Tức ngôi tháp đứng đơn độc một mình. Hình thức này phổ
biến nhất.
6.2. Tháp đối lập: Như tại Trường An ở Thiểm Tây (Trung Quốc) có 2 ngôi
tháp Đại Nhạn và Tiểu Nhạn đứng đối diện nhau.
6.3. Tháp bài lập: Như 3 ngôi tháp ở trong vườn chùa Gia Hòa ở tỉnh Chiết
Giang, kiến tạo từ đời Đường và được tu bổ vào năm Quang Chử thứ 2 (năm 1876)
6.4. Tháp phương lập: Như tại thành Thẩm Dương ở Liễu Ninh có 4 ngôi
tháp đứng ở 4 cửa thành.
6.5. Tháp ngũ lập: Như 5 ngôi tháp ở chùa Ngũ Tháp ở ngoài cửa Tây của Bắc
Bình.

6.6. Tháp phân lập: Như 7 ngôi tháp tại Kim Cương Bảo Tháp viện ở phía
Tây Bắc Bình.
7. Công đức tạo tháp.
Các kinh điển cũng như các giáo huấn xưa nay đều nói rõ về công đức rất lớn
của việc tạo tháp. Kinh Thí Dụ nêu ra 10 phước báo thù thắng của việc tạo tháp:
- Không bị sinh vào những quốc độ biên địa.
- Không bị nghèo khốn.
- Không mang thân ngu si, tà kiến.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
- Có thể làm nguyên thủ những nước lớn.
- Thọ mạng lâu dài.
- Có thể được sức mạnh như lực sĩ Kim Cang Na La Diên.
- Được phước đức to lớn không gì sánh bằng.
- Được nương nhờ đức từ bi của chư Phật, Bồ tát.
- Đầy đủ tam minh, lực thông, bát giải thoát.
- Được vãng sinh Tịnh độ của 10 phương chư Phật.
8. Công đức nhiễu tháp.
Kinh Đề Vị cũng nêu lên 5 công đức của sự nhiễu tháp như sau:
- Đời sau được sắc đẹp, đoan chính.
- Được âm thanh trong trẻo, êm dịu.
- Được sinh lên cõi trời.
- Được sinh vào nhà các vương hầu.
- Đạt được đạo quả Niết bàn.
Khi nhiễu tháp phải đi theo chiều phía tay phải, và phải cúi đầu nhìn xuống
đất, không được dẫm đạp những côn trùng nơi tháp, không được nhìn ngó 2 bên,
không được khạc nhổ trên đất tháp, không được dừng lại nói chuyện với người
khác. Không những tạo tháp, nhiễu tháp mới có công đức, mà sửa chữa tháp, quét

tháp, lễ tháp v.v cũng đều có công đức rất lớn.
II. Chức năng của tháp Phật.
Từ xưa, tháp trước hết là nơi chứa đựng xá-lị các vị Phật hoặc các bậc
Thánh. Tháp cũng được xây dựng tại các thánh tích quan trọng, kỉ niệm cuộc đời
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
của đức Thích Ca Mâu Ni (Lam-tì-ni, Giác Thành, Câu-thi-na, Vương xá). Tại Ấn
Độ, trong thời Phật Giáo hưng thịnh (thế kỉ thứ 3), vua A Dục (Asoka) đã cho dựng
trên 4,800 toà phù đồ (stupa) để ghi dấu tích đức Phật Thích Ca rải rác khắp lãnh
thổ của ngài.
Một số tháp không nhất thiết là những nơi chứa đựng Xá-lị. Chúng chứa
đựng kinh điển, tranh tượng. Một trong những tháp lớn nhất còn tới ngày nay là
Bô-rô-bu-đua tại Indonesia. Tháp cũng là một trong những đối tượng thiền quán,
thường thường có nhiều ý nghĩa biểu tượng. Các bậc thang lên tháp đôi lúc biểu
hiện cho các khái niệm Đại thừa, như bốn bậc là từ, bi, hỉ, xả hay mười bậc là Thập
địa.
Ở mỗi nước có sự lý giải khác nhau về tháp Phật:
• Tại Ấn Độ, phù đồ (stupa) được coi như là chính sự hiện diện của đức Phật
nên trong quá trình xây dựng thì hướng về những tổ chức nghi lễ cần thiết. Vì thế,
những phù đồ thường xây lên một cách độc lập, mặc dù đây chỉ là một vật liên hệ
phụ thuộc trong lòng một điện thờ. Phù đồ là vật kiến trúc xưa nhất của Phật Giáo.
• Ở các nước như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, stupa có dạng bán
cầu và đỉnh nhọn, vì theo tương truyền trước khi tịch, Phật được hỏi: làm thế nào
để bảo tồn sự tôn kính di thể Phật? Phật gấp tư áo cà sa, úp bát khất thực lên, rồi
đặt cái gậy chống lên trên cùng rồi tịch.
• Ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, tháp hay tháp-bà
(được gọi là stupa), là nơi đựng tro di hài của Phật hay của sư tổ trụ trì chùa.
Tháp có chiều cao lớn hơn cạnh đáy, chia thành nhiều tầng, thường càng lên

cao càng thu nhỏ dần, phía trên cùng có mái cong.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Hay: thậm chí ở những giáo phái Phật giáo cũng có những lý giải khác
nhau về tháp Phật:
• Phật Giáo Tịnh Độ Tông đã cho chúng ta loại tháp Hoà Phong (chùa Dâu
- Bắc Ninh) hay tháp Cửu Phẩm Liên Hoa (chùa Động Ngọ - Hải Hưng) Bút Tháp
(Hà Bắc) thì biểu trưng các tầng tháp về các kiếp tu của con người. Những ngọn
tháp có 8 mặt thì lại biểu hiện cho 8 hướng trong ý thức Phật pháp viễn chiếu tám
phương. Kiến trúc của những tháp Trung Hoa được xây chắc chắn, cho nên các
tầng tháp phía trên nhô ra không lớn lắm. Nhưng khi những ngôi tháp được truyền
sang Nhật Bản và Hàn Quốc, thì thân tháp ại có phần nhỏ, các lớp mái thì lại mở
rộng ra.
• Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng khi xây tháp thì chủ trương xây theo loại
hình "Cối Kinh".
• Phật Giáo Tiểu thừa thì về sau đã chuyển đổi loại tháp "bát úp" để trở
thành những loại "That" (That Luồng) hay "Vát". Những loại tháp này được xây
theo hình chuông. Những ngôi tháp này chính là ngôi đền thờ, trong đó thờ đức
Thích Ca Mâu Ni. Những loại tháp không có tầng này được gọi là "Hoả châu tháp".
Người ta kể rằng Cao Biền đã cho đúc "Bát Vạn Sơn Tháp" dùng để trấn yểm các
mạch trên đất Giao Chỉ. Nhưng di tích này đã không tồn tại nữa.

Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Chương II: Tháp Phật và truyền thống văn hoá Phật giáo Đại Việt.
1. Đặc trưng của chùa tháp.

• Mọi ngôi tháp đều được xây bằng đá hoặc chủ yếu bằng gạch theo hình
bát giác, lục giác, hay hình vuông. Gạch có màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước
với độ xốp cao, được xây không có mạch vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên
gạch.
• Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các
phần của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.
• Tháp có phần ngọn được thu nhỏ.
• Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng
dạng, đăng đối.
• Đa phần các tháp có cửa quay ra hướng Nam, các phía còn lại là cửa giả,
được bố trí đăng đối với cửa chính.
Bởi vì: hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Người Việt xưa
có câu: "lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam". Đối với đạo phật, hướng Nam là
hướng của trí tuệ, hướng của bát nhã, nhờ có trí tuệ chúng sinh mới đáo bỉ ngạn
(đến bến bờ giải thoát- niết bàn).
Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người
dân sinh sống.
2. Sự giao thoa kiến trúc tháp giữa các nước.
2.1. Ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Hoa qua các tháp ở Việt Nam.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Tháp ở Việt Nam có 2 kiểu tháp khác nhau:
a. Kiểu tháp xây thấp (có khi bít đặc ), nóc tròn, cong hình cánh cung, không
có mái. Kiểu tháp này chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Ấn Độ.
Ngày xưa: ảnh hưởng Ấn Độ (tôn giáo, nghệ thuật) lan ra ngoài do ngõ chính
ở Cachemire và Bengale. Trong khoảng thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VII theo ngõ
Cachemire, ảnh hưởng Ấn Độ chia ra làm 2 đường:
- Qua Ba Tư và lan rộng đến các vùng Trung Đông như Ai Cập, Ả Rập.

- Qua Tân Cương. Vùng này là nơi phối hợp, môi giới của 2 nền nghệ thuật
Ấn Độ và Trung Hoa. Rồi từ Tân Cương ảnh hưởng Ấn Độ lan dần vào Trung
Quốc đến tỉnh Sơn Tây. Ảnh hưởng này hoàn toàn có tính cách tôn giáo.
Nhưng từ thế kỷ thứ VII ảnh hưởng Ấn Độ đã mượn ngõ Bengale mà chia ra hai
đường:
+ Ngược lên Tây Tạng.
+ Xuyên qua vùng đồng bằng Gange lan tràn thẳng qua Miến Điện, rồi tiến
thẳng sang vùng Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Ảnh hưởng Ấn Độ lại còn
tràn xuống Xiêm La, đột nhập vào Cao Miên và qua Chàm, tức miền Nam Trung
-Việt và Nam-Việt ngày nay.
Những tháp bát giác, lục giác hay vuông, với nóc cong tròn thuộc ảnh hưởng
Ấn Độ gồm có: những tháp chàm ở Nha Trang, Bình Định, Mỹ Sơn, tháp Rùa, tháp
chùa Ninh Phúc (Bút Tháp), tháp chùa Bắc Việt tương tế ở Tân Sơn Nhất.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
b. Kiểu tháp xây cao (không bít đặc, có cửa ra vào), mái cong, nhọn. Kiểu tháp
chịu ảnh hưởng của Trung Hoa.
Còn ảnh hưởng Trung Hoa, ngay từ thời Triệu Đà tràn thẳng xuống Việt
Nam theo ngõ Bắc Việt. Với tính cách thực dân và dã tâm đồng hóa tín ngưỡng
nghệ thuật ở xứ này, từ Sĩ Nhiếp, các chức Lạc Hầu, Lạc Tướng đã bị bãi bỏ để
thay vào chức huyện lệnh; tổ chức mỗi huyện thành một trung tâm văn hóa, chính
trị với dụng tâm kiểm soát chặt chẽ mọi hành động quật khởi của dân Việt, đồng
thời hoàn thành cấp tốc chương trình đồng hóa.
Do đó kiến trúc miền Nam đã có mầu sắc khác với miền Bắc và phản ảnh rõ,
nhất là những tháp chùa.
Những tháp Việt Nam ảnh hưởng Trung Hoa là những tháp chùa Liên Phái cao
tầng, và tháp Từ Nhơn ( chùa Thiên Mụ ) cao 21 thước 28 phân. Hai tháp ấy đều có nhiều
mái cong, và cao hơn các tháp ảnh hưởng Ấn Độ. Tháp Trung Hoa xây cao, nhiều tầng,

càng cao càng nhỏ lại, có dụng ý tượng trưng cho sự sống; sự hoạt động của con người.
Ngoài ra còn mục đích cầu mong , ước ao sau khi nhắm mắt qua đời , con người sẽ được
siêu thăng.
Tháp Trung Hoa cũng như mọi kiến trúc khác đều có hai đặc
điểm:
- Xây nhiều tầng mái.
- Mái chìa ra ngòai
Đặc điểm thứ nhất: xây nhiều tầng, mái, kiến trúc sư Trung Hoa dụng ý tránh
khí hậu nóng. Đặc điểm thứ hai: mái chìa ra ngoài để tránh mưa.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Kiến trúc Nhật Bản cũng giống Trung Hoa trên hai điểm ấy, nhưng để tránh
hiểm họa động đất, người Nhật còn có một đặc điểm thứ ba là không đổ nền và
không xây tường bọc xung quanh nhà.
Tháp chùa Việt Nam cũng hoàn toàn giống Trung Hoa trên hai điểm đó,
nhưng mái tháp Việt Nam ít cong hơn, vì Việt Nam có nhiều mưa.
Qua những nhận xét đã trình bày trên, chúng ta có thể kết luận: Tháp chùa
Việt Nam có hai sắc thái riêng biệt rõ ràng, biểu hiện cho hai luồng ảnh hưởng
Trung Hoa và Ấn Độ ở khắp nơi trên đất nước ta.
2.2. Sự giao thoa văn hoá Chămpa - Đại Việt.
Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì nghệ thuật Chămpa cổ và nghệ thuật Việt
cổ có nhiều nét tương đồng. Nhìn chung thì nghệ thuật Chămpa có trước nghệ thuật
Việt và đã đạt đỉnh cao ngay khi nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.
Xét về mặt kiến trúc: các tháp Chămpa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc núi
thấp, được xây dựng thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương khí thì
chùa, tháp Việt Nam thời Lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi và sườn
núi, tạo nên cả một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón dương khí.
Tháp Việt Nam cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Chămpa và có bình diện

vuông gần với các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Chămpa cũng như tháp Lý
- Trần về cơ bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành phần bằng đá.
Có điều, tháp Chămpa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây,còn ở tháp Lý-Trần
thì hình trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau đó mới mang nung, xây
đến đâu là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Chămpa là các apsara, đa số
thuộc đỉnh cao của điêu khắc Chămpa thuộc thế kỷ thứ 10. Các nhân vật kết hợp
người với chim hoặc với thú đều có cả trong nghệ thuật Chămpa và nghệ thuật Việt.
3. Gía trị của kiến trúc chùa tháp.
- Các chùa tháp đã phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hoá Đại Việt
từ những giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc
cho đến những giai đoạn thích nghi, tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và
sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với
các dân tộc liền kề.
- Giá trị nghệ thuật của các hình trang trí ngoài việc giúp cho các chùa tháp
đẹp hơn, còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn về niên
đại, phong cách và chức năng của các chùa tháp.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội
Bài điều kiện Lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam
Phần nội dung.
Chương I: Xã hội thời Trần.
1. Sự thành lập thời Trần.
Nhà Lý phát triển thịnh trị vào đời vua Lý Nhân tông ( 1072 - 1127) sau đó
bắt đầu đi vào con đường suy yếu. Các vua lên ngôi khi còn bé như vua Lý Anh

Tông làm vua khi 5 tuổi, Lý Cao Tông 2 tuổi…Quyền hành rơi vào tay những kẻ
hại dân. Trước tình hình này, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ, góp phần làm lung lay
ngai vàng nhà Lý. Khi nhà Lý suy yếu, nạn cát cứ lại xảy ra. Trong khi đó vua Lý
Huệ Tông không có con trai. Năm 1225 ông đã nhường ngôi cho con gái thứ là
Chiêu Thánh, còn mình là Thái Thượng Hoàng. Lúc này Lý Chiêu Hoàng mới có 7
tuổi.
Vì vậy mọi quyền hành trong tay triều đình đều nằm trong tay viên quan điện
tiền Trần Thủ Độ. Dòng họ Trần lúc này đã chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong
triều đình. Cuối cùng ngày 12 tháng chạp năm Ất Dậu (11/1/1226) dưới sự chỉ đạo
của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng tuyên bố nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Trần Thái Tông. Triều Trần chính thức được thành
lập, thực sự thay thế nhà Lý trên vũ đài chính trị, nắm quyền điều hành đất nước từ
năm 1226 – 1400. Nhà Trần đã thay thế nhà Lý và hai triều đại này không có
khoảng cách về thời gian. Vì vậy có thể thấy rằng nhà Trần đã tiếp thu mọi thành
tựu văn hoá xã hội thời Lý.
2. Xã hội thời Trần.
Trịnh Thanh Hoa – K55B VNH Trường ĐHSP
Hà Nội

×