Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Về một loại nghĩa phi miêu tả cần có trong từ điển giải thích tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.82 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM THỊ THU GIANG




VỀ MỘT LOẠI NGHĨA PHI MIÊU TẢ
CẦN CÓ TRONG TỪ ĐIỂN GIẢI THÍCH TIẾNG VIỆT
(Trên cơ sở cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên)




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC















Hà Nội – 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM THỊ THU GIANG


VỀ MỘT LOẠI NGHĨA PHI MIÊU TẢ
CẦN CÓ TRONG TỪ ĐIỂN GIẢI THÍCH TIẾNG VIỆT
(Trên cơ sở cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên)


Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN VĂN HIỆP





Hà Nội – 2009

1
MỤC LỤC

Danh mục bảng biểu 3
Mở đầu 4
Chương 1. Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài 9
1.1. Khái niệm tình thái 9
1.2. Các kiểu ý nghĩa thuộc phạm trù tình thái 13
1.3. Các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái 21
1.4. Các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong khuôn khổ đề tài
luận văn 22
1.5. Một vài vấn đề từ điển học có liên quan đến đề tài 23
Chương 2. Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa, cách giải thích các vị từ tình thái
tính trong Từ điển tiếng Việt 26
2.1. Khái niệm vị từ tình thái tính 26
2.2. Phân loại vị từ tình thái tính 27
2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của vị từ tình thái tính 29
2.4. Tiểu kết chương hai 36
Chương 3. Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa, cách giải thích các phó từ chỉ
thời, thể trong Từ điển tiếng Việt 40
3.1.Một số khái niệm liên quan 40
3.2.Phân tích ngữ nghĩa của các phó từ chỉ thời – thể – tình thái và so sánh
với lời giải thích chúng trong TĐTV 43
3.3.Tiểu kết chương ba 50
Chương 4. Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa các trợ từ tình thái trong sự so
sánh với lời giải thích nghĩa của Từ điển tiếng Việt 54
4.1.Khái niệm trợ từ 54

4.2.Phân tích đặc điểm ngữ nghĩa của các trợ từ tiếng Việt 56
4.3. Tiểu kết chương bốn 63

2
Chương 5. Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa, cách giải thích các từ chêm xen
tình thái trong Từ điển tiếng Việt 66
5.1.Khái niệm từ chêm xen tình thái trong tiếng Việt 66
5.2.Phân tích đặc điểm ngữ nghĩa các từ chêm xen tình thái 68
5.3.Tiểu kết chương năm 74
Kết luận 77
Tài liệu tham khảo 83
Phụ lục 87































3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
∞ ∞ ∞ ∞
Trang
Bảng 2.1 38
Bảng 2.2 39
Bảng 3.1 51
Bảng 4.1 58
Bảng 4.2. 59






























4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Luận văn với đề tài “Về một loại nghĩa phi miêu tả cần có trong từ điển
giải thích tiếng Việt”(trên cơ sở cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ
biên) có nhiệm vụ khảo sát và miêu tả một loại nghĩa phi miêu tả hay nghĩa
tình thái của một số phương tiện từ vựng tiếng Việt biểu thị nội dung ý nghĩa
này. Loại nghĩa gần như không được đề cập hay chỉ được đề cập rất ít trong
các từ điển giải thích tiếng Việt. Từ kết quả của luận văn, chúng tôi đề xuất

những bổ sung cần thiết cho cách giải thích liên quan đến loại nghĩa này trong
các mục từ của từ điển.
Sở dĩ chúng tôi lựa chọn đề tài này là vì nhiều lý do:
1.1. Tính thời sự
Trong thời gian gần đây, ngôn ngữ học đã mở rộng đối tượng nghiên
cứu của mình, không chỉ nghiên cứu ngôn ngữ trong cấu trúc tĩnh tại mà là
ngôn ngữ trong hoạt động với tư cách là công cụ tương tác liên nhân. Trong
đó, tình thái nổi lên như một trong những trọng tâm nghiên cứu. Khái niệm
ngữ nghĩa cũng vì thế mà thay đổi, không chỉ bó hẹp ở nghĩa miêu tả mà còn
cả nghĩa phi miêu tả (nghĩa tình thái, nghĩa đánh giá); không chỉ quan tâm đến
hiển ngôn mà cố gắng làm sáng tỏ những cơ chế nảy sinh, tiêu chí phân loại
và đặc điểm của hàm ý (thông tin ngầm ẩn) với các kiểu hàm ý khác nhau;…
Trong các từ điển giải thích, nghĩa của từ đặc biệt là nghĩa phi miêu tả
chưa được quan tâm đúng mức. Loại nghĩa này gần như không được đề cập
đến trong từ điển giải thích. Vì thế việc bổ sung những nét nghĩa đánh giá vào
lời giải thích của các mục từ thật sự cần thiết để phù hợp với sự phát triển
không ngừng về đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học cũng như việc làm sáng
tỏ các nét nghĩa khác nhau cùng tồn tại trong một đơn vị từ vựng.


5
1.2. Tính lý luận
Với sự mở rộng đối tượng nghiên cứu như vậy, các xu hướng ngữ pháp
hình thức bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là trong việc giải thích bản chất nghĩa và
chức năng của các sự kiện ngôn ngữ. Ngữ pháp chức năng ra đời, một xu
hướng nghiên cứu thiên về ngữ pháp – ngữ nghĩa đã khắc phục những hạn chế
này. Có điều, ngữ pháp chức năng không phải là một sự xuất hiện đột ngột mà
mà kết quả của một sự phát triển lâu dài. Có thể thấy tinh thần của ngữ pháp
chức năng trong nhiều nghiên cứu và đường hướng phản ánh vai trò của ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người qua các nghiên

cứu về tình thái của Jespersen, von Wright, Bally, Dik,…Ở Việt Nam, những
nghiên cứu của Hoàng Tuệ, Cao Xuân Hạo, Lê Đông, Phạm Hùng Việt,
Nguyễn Văn Hiệp, đã cho chúng ta có một cách hiểu nhất định về khái niệm
phức tạp này. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu mô tả, phân tích các
phương tiện biểu thị tình thái cũng chưa thật sự có nhiều, đặc biệt trong
những lĩnh vực có liên quan đến chiều kích nghĩa tình thái trong các mục từ
của từ điển giải thích tiếng Việt.
Xem xét các vấn đề nghiên cứu về từ điển học chúng tôi cũng thấy một
hiện trạng như vậy. Cuốn Một số vấn đề từ điển học [43] tập hợp một số bài
viết của các tác giả khác nhau đã cho chúng ta cái nhìn tổng quát về nghiên
cứu từ điển học cũng như một số vấn đề của cuốn Từ điển Tiếng Việt (do
Hoàng Phê chủ biên). Tuy nhiên, việc giải thích nghĩa phi miêu tả đang thiếu
vắng ở khá nhiều mục từ thì cũng chưa được quan tâm đúng mức với tầm
quan trọng của chúng.
1.3. Tính thực tiễn
Ở bất kỳ ngôn ngữ nào việc biên soạn các từ điển giải thích từ cũng rất
quan trọng. Không chỉ thế việc thường xuyên phải chỉnh sửa chúng cho phù
hợp với sự phát triển của ngôn ngữ và ngôn ngữ học cũng được đặt ra. Vì vậy,

6
việc bổ sung và đi đến hoàn chỉnh sự giải thích nghĩa đánh giá ở nhiều mục từ
trong từ điển giải thích là rất quan trọng.
Những nghiên cứu của đề tài còn có ý nghĩa lớn đối với việc dịch thuật
và giảng dạy ngoại ngữ, nhất là vấn đề dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
Luận văn sẽ là những cứ liệu đáng tin cậy phục vụ cho việc dạy tiếng, phát
triển những kỹ năng tri nhận và từ đó có cách lựa chọn để sử dụng đúng đắn,
phù hợp trong các hoàn cảnh giao tiếp thực tế. Từ đây, những kết quả nghiên
cứu của luận văn sẽ góp phần thiết thực đối việc biên soạn các giáo trình dạy
tiếng Việt như một ngoại ngữ.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là một số phương
tiện từ vựng chủ yếu và quan trọng, thể hiện nội dung ý nghĩa tình thái trong
tiếng Việt như:
- Vị từ tình thái tính
- Phó từ chỉ thời – thể
- Trợ từ
- Từ chêm xen
Luận văn tiến hành phân tích, miêu tả và chỉ ra những nét nghĩa tình
thái mà chúng biểu thị.
Tiến hành thu thập tư liệu ở các mục từ thuộc các lớp phương tiện từ
vựng trên trong Từ điển giải thích tiếng Việt, cụ thể là ở Từ điển tiếng Việt
(TĐTV) do Hoàng Phê chủ biên (xuất bản năm 2002) và hoạt động của các từ
này trong giao tiếp. Từ đó có sự so sánh giữa những nét nghĩa đánh giá đã
miêu tả với lời giải thích những đơn vị từ vựng này trong TĐTV để rút ra
những kết luận khoa học cần thiết và đề xuất bổ sung cách giải thích loại
nghĩa này trong lời giải thích của một số mục từ.


7
3. Mục tiêu của đề tài
Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm đạt được những mục tiêu cả về
mặt lý thuyết lẫn thực tiễn.
Mục tiêu chính của đề tài là bổ sung và hoàn chỉnh cách hiểu về nghĩa
của từ nhất là về nghĩa phi miêu tả.
Về mặt lý thuyết, bằng việc áp dụng những lý thuyết ngữ nghĩa hiện đại
để xem xét nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ, trong đó có từ với tư cách đơn vị
ngôn ngữ có nghĩa nhỏ nhất có thể hoạt động độc lập, luận văn hướng đến
việc làm sáng tỏ những loại nghĩa khác nhau cùng tồn tại trong một đơn vị.
Từ đó góp phần xây dựng một khung miêu tả ngữ nghĩa có hiệu lực trong việc
miêu tả ngữ nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên. Khác với các công trình đi trước,

luận văn này đi sâu vào nghĩa phi miêu tả cụ thể là nghĩa biểu lộ. Loại nghĩa
này còn gọi là nghĩa tình thái hay nghĩa đánh giá. Theo quan sát của chúng
tôi, loại nghĩa gần như không được đề cập hay chỉ được đề cập rất ít trong các
từ điển giải thích tiếng Việt.
Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng để có được một tổng quan lý
thuyết về nghĩa, đặc biệt là nghĩa phi miêu tả của từ. Từ đó, góp phần củng
cố, phát triển tính đúng đắn của ngữ pháp chức năng.
Luận văn cũng hướng đến xác lập một nguồn tư liệu phong phú, sinh
động về tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp thực tế ở nhiều môi trường khác
nhau, có thể sử dụng trong nghiên cứu ngữ pháp của lời nói, ngôn ngữ học
tâm lý, ngôn ngữ học xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp khoa học sau:
- Phương pháp thống kê: thu thập các đơn vị từ vựng là đối tượng
nghiên cứu của luận văn.

8
- Phương pháp miêu tả: kết quả của các phương pháp quan sát thực
nghiệm, thống kê sẽ được miêu tả cụ thể để từ đó rút ra các kết luận cụ thể.
- Phương pháp diễn dịch: xuất phát từ lý thuyết tình thái để soi đường
cho vấn đề lý luận về một số phương tiện tình thái là đối tượng của luận văn;
chúng tôi sẽ xuất phát từ những cơ sở lý thuyết liên quan đến vị từ tình thái
tính, phó từ chỉ thời – thể, trợ từ và từ chêm xen cũng như vai trò biểu thị nội
dung nghĩa tình thái của chúng để chỉ ra các sắc thái nghĩa đánh giá cần được
thể hiện trong từ điển.
- Phương pháp quy nạp: từ những quan sát tư liệu mà đề xuất, lý giải
vấn đề.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số thủ pháp của ngữ pháp truyền
thống và ngữ pháp ngữ nghĩa như: cải biến, thay thế, tỉnh lược, so sánh, phân
tích ngữ cảnh,…

5. Bố cục luận văn
Luận văn gồm có 99 trang, trong đó phần chính văn là 82 trang. Ngoài
phần mở đầu, kết luận và phần phụ lục, luận văn gồm năm chương:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa, cách giải thích các vị từ
tình thái tính trong Từ điển tiếng Việt
Chương 3: Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa, cách giải thích các phó từ
chỉ thời, thể trong Từ điển tiếng Việt
Chương 4: Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa các trợ từ tình thái trong sự
so sánh với lời giải thích nghĩa của Từ điển tiếng Việt
Chương 5: Khảo sát và phân tích ngữ nghĩa, cách giải thích các từ
chêm xen tình thái trong Từ điển tiếng Việt




9
Chương 1. Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài

1.1. Khái niệm tình thái
Trong những năm gần đây, ngôn ngữ học mở rộng đối tượng nghiên
cứu không chỉ quan tâm đến mô hình ngôn ngữ học tĩnh tại mà cả ngôn ngữ
trong hoạt động với tư cách là công cụ giao tiếp liên nhân hay quan tâm đến
sự kiện lời nói. Vì thế vai trò của chủ thể giao tiếp, tính chủ quan được chú
trọng hơn, trong đó có vấn đề tình thái.
Tình thái là khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học mà đặc trưng chung
nhất là phản ánh những mối quan hệ khác nhau của nội dung thông tin miêu tả
trong phát ngôn với thực tế và những quan điểm, thái độ đánh giá của người
nói đối với nội dung miêu tả trong câu xét trong mối quan hệ với người nghe,
hoàn cảnh giao tiếp. Như thế, nói một cách giản dị, các đặc trưng của tình thái

xoay quanh mối quan hệ giữa người nói, nội dung miêu tả trong phát ngôn và
thực tế.
Tình thái cũng là khái niệm phức tạp của ngôn ngữ học với rất nhiều
định nghĩa, cách hiểu khác nhau. Do vậy, việc đi từ những đối lập cơ bản nhất
sẽ cho ta hiểu được bản chất của tình thái.
1.1.1. Tình thái trong logic truyền thống (tình thái khách quan) đối lập
với tình thái trong ngôn ngữ (tình thái chủ quan)
Tình thái trong logic học được gọi là tình thái khách quan vì nó quan
tâm đến tính đúng/sai hay thực cách của mệnh đề được biểu thị trong câu nói.
Khi đưa tình thái vào câu nói, với tư cách là thành tố định tính cho mệnh đề,
các nhà logic học phân loại phán đoán dựa trên các tiêu chí về tính khả năng,
tính tất yếu và tính hiện thực. Theo đó, cũng có ba loại phán đoán: phán đoán
khả năng phản ánh xác suất có mặt hay vắng mặt của một đặc trưng nào đó ở
đối tượng, tức đối tượng mang đặc trưng đó ít nhất trong một thế giới khả

10
hữu; phán đoán tất yếu phản ánh đặc trưng được gán cho đối tượng ở mọi
điều kiện, tức đối tượng mang đặc trưng đó trong mọi thế giới khả hữu; phán
đoán hiện thực xác nhận sự có mặt hay vắng mặt của đặc trưng được gán cho
đối tượng.
Như vậy, tình thái khách quan chỉ nhằm vào một số kiểu quan hệ chung
nhất giữa phán đoán với hiện thực, mang tính khách quan bản thể, được coi
như là một đặc trưng nội tại của cấu trúc chủ từ - vị từ logic và chỉ nhằm phục
vụ cho việc phân loại phán đoán. Nó loại trừ vai trò của người nói với mọi
nhân tố chủ quan như ý chí, sự đánh giá, mức độ cam kết, thái độ hay lập
trường của người nói.
Đối lập với tình thái khách quan trong logic là tình thái chủ quan trong
ngôn ngữ, kiểu tình thái nhấn mạnh đến vai trò của người nói. Về cơ bản đều
dựa trên những phạm trù của tình thái khách quan là tính khả năng, tính tất
yếu và tính hiện thực; nhưng ở đây người nói hoặc đưa ra những bằng chứng,

suy luận làm cơ sở cho một cam kết nào đó đối với hiện thực được nói đến
trong câu (khía cạnh nhận thức) hoặc thể hiện thái độ đối với hành động được
đề cập trong câu (khía cạnh đạo nghĩa). Người nói thể hiện những đánh giá và
cam kết tình thái của mình theo một thang độ rất rộng. Vì thế phổ nội dung
tình thái chủ quan cũng rộng hơn rất nhiều so với phổ nội dung của tình thái
khách quan.
Ví dụ:
(1) Có lẽ nó sẽ đến.
(2) Thế nào nó cũng đến.
(3) Chắc gì nó đã đến.
Nếu tình thái khách quan trong logic chỉ quan tâm đến tính chân trị
(đúng/sai), khả năng xảy ra của hiện thực được nói đến trong câu: Nó đến; thì
nội dung của tình thái chủ quan rộng hơn nhiều và có thể tạo lập hàng loạt câu

11
tùy theo đánh giá của người nói. Ở câu (1), người nói phán đoán không chắc
chắn về sự tình Nó đến; còn ở (2) là cam kết chắc chắn điều Nó đến sẽ xảy ra;
đến (3) cũng là sự phỏng đoán về sự việc nhưng thiên về ý sự việc đó sẽ
không xảy ra, khả năng Nó sẽ không đến nhiều hơn.
1.1.2. Tình thái đối lập với ngôn liệu (nội dung mệnh đề)
Đây được coi là đối lập then chốt trong nghiên cứu tình thái và được
nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận rộng rãi. Ngôn liệu thực chất là thông tin
miêu tả ở dạng tiềm tàng, còn tình thái là phần định tính cho thông tin miêu tả
ấy. Tình thái tham gia vào quá trình thực tại hóa, nhờ đó nội dung sự tình còn
ở dạng tiềm tàng có thể trở thành phát ngôn hiện thực. Nó cho biết sự tình
trong phát ngôn chỉ là khả năng hay đã là hiện thực, là khẳng định hay phủ
định, cho biết mức độ cam kết hay thái độ đánh giá của người nói đối với
hành động nêu ra trong câu. Ví dụ, với cùng nội dung Tuấn đỗ đại học – đồng
nhất về ngôn liệu, người ta có thể thể hiện nhiều nội dung tình thái khác nhau:
(4) Tuấn đã đỗ Đại học.

(5) Gì thì gì, Tuấn cũng đỗ đại học.
(6) Tuấn làm sao mà đỗ đại học được.
(7) Tuấn đỗ đại học à?

Vậy tình thái là “quan điểm hoặc thái độ của người nói đối với mệnh đề
mà câu nói biểu thị hoặc cái tình huống mà mệnh đề miêu tả”
Trong ngôn ngữ học, người đầu tiên đề xuất ra sự phân biệt này là
Ch.Bally với hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nghĩa là modus (tình thái)
và dictum (ngôn liệu). Trong đó, dictum là bộ phận biểu hiện nội dung sự tình
ở dạng tiềm năng. Nó gắn với chức năng kinh nghiệm, chức năng miêu tả của
ngôn ngữ. Còn modus thì gắn với bình diện chủ quan, thể hiện những nhân tố
như ý chí, thái độ, đánh giá của người nói đối với điều được nói ra, xét trong

12
các chiều kích quan hệ với thực tế, quan hệ với người đối thoại và hoàn cảnh
giao tiếp.
Sự phân biệt này còn thấy ở nhiều tác giả khác như Fillmore, Bally,
Lyons, Palmer, Hare, Lewis…Trong đó, cách sử dụng thuật ngữ đối lập tình
thái và nội dung mệnh đề có lẽ là cách dùng phổ biến nhất hiện nay.
Hiểu theo nghĩa hẹp, tình thái chỉ xoay quanh các tham số về tính tất
yếu, tính khả năng và tính hiện thực, trên cơ sở nhận thức hay đạo nghĩa, và
tất cả được hiểu theo góc độ khách quan (tình thái trong logic) hay chủ quan
(tình thái trong ngôn ngữ). [23; tr.91]
Hiểu theo nghĩa rộng, khái niệm tình thái sẽ bao hàm nhiều ý nghĩa
khác nhau. Một số kiểu ý nghĩa cơ bản:
- Các ý nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn của người nói, hay kiểu
mục đích tại lời mà người nói thực hiện (hỏi, ra lệnh, yêu cầu, bác bỏ, khuyên,
mời…) gắn trực tiếp với chiều tương tác liên nhân của giao tiếp, với kiểu tác
động của người nói đến người đối thoại.
- Các ý nghĩa khác nhau thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường hay

cảm xúc của người nói đối với nội dung thông báo: người nói đánh giá nội
dung thông báo về mức độ quan trọng, về độ tin cậy, xem nó là điều tích cực
(mong muốn) hay tiêu cực (không mong muốn), bất ngờ, ngoài chờ đợi hay
bình thường, về tính khả năng, tính hiện thực…
- Ý nghĩa thuộc đối lập giữa khẳng định và phủ định đối với sự tồn tại
của sự tình.
- Những đặc trưng liên quan đến sự diễn tiến của sự tình, liên quan
đến khung vị từ và mối quan hệ giữa chủ thể được nói đến trong câu và vị từ
(thời, thể hay các ý nghĩa được thể hiện bằng vị từ tình thái)
- Các ý nghĩa phản ánh các đặc trưng khác của phát ngôn và hành
động phát ngôn với ngữ cảnh, theo quan điểm, đánh giá của người nói.

13
Cách hiểu tình thái theo nghĩa rộng nhất như vậy được Bybee diễn đạt
là “tất cả những gì mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh
đề” [dẫn theo 13; tr. 22] . Nói cách khác, phạm trù tình thái bao gồm tất cả
những phương diện nội dung gắn với thực tại câu, biến các nội dung mệnh đề
ở thế tiềm năng trở thành các phát ngôn trong giao tiếp.
Trong giới nghiên cứu Việt ngữ học, chủ trương quan niệm như thế có
các tác giả Đỗ Hữu Châu, Hoàng Tuệ, Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp…; đặc
biệt là Cao Xuân Hạo.
1.2. Các kiểu ý nghĩa thuộc phạm trù tình thái
Với một khái niệm phức tạp như tình thái, việc phân loại các kiểu tính
tình thái cũng không hề đơn giản. Các nhà nghiên cứu từ trước đến nay đã cố
gắng sắp xếp các kiểu tính tình thái vào một số phạm trù. Nhưng phần lớn là
phân loại trong khuôn khổ một nhóm ý nghĩa tình thái chứ không phải là bao
quát toàn bộ các ý nghĩa tình thái hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó.
Những năm gần đây cách phân chia ý nghĩa tình thái thành ba phạm
trù: tình thái khách quan, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa khá phổ
biến, được nhiều tác giả đồng tình.

- Tình thái khách quan trong logic quan tâm đến tính chân thực, tất
yếu hay ngẫu nhiên của mệnh đề.
- Tình thái nhận thức chỉ ra tình trạng hiểu biết của người nói, bao
gồm cả sự xác nhận của người nói đối với điều được nói ra.
- Tình thái đạo nghĩa liên quan đến tính hợp thức về đạo đức hay các
chuẩn mực xã hội khác đối với hành động do một người nào đó hay chính
người nói thực hiện.
Tuy nhiên, cách phân chia này thực ra chỉ nhằm vào một số kiểu ý
nghĩa tình thái mà thôi. Một số đối lập chung, chủ yếu về tình thái trong ngôn
ngữ có sức bao quát hơn đó là đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo

14
nghĩa; đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái căn bản; đối lập giữa tình
thái mục đích phát ngôn với tình thái lời phát ngôn.
1.2.1. Đối lập giữa tình thái nhận thức (Epistemic Modality) và tình
thái đạo nghĩa (Deontic Modality)
Tình thái nhận thức liên quan đến tính tất yếu, tính khả năng và mức độ
cam kết của người nói đối với tính chân thực của điều được nói ra. Trường
hợp không đánh dấu về tình thái nhận thức là trường hợp người nói xác nhận
hoàn toàn tính chân thật của điều được nói ra. Ngược lại, trường hợp đánh dấu
về tình thái nhận thức là trường hợp người nói thể hiện những cam kết thấp
hơn. Ví dụ, trở lại xét những câu tiếng Việt sau:
(8) Nó đến.
(9) Thế nào nó cũng đến.
(10) Có lẽ nó đến.
Trường hợp không đánh dấu là “Nó đến”, còn hai trường hợp có đánh
dấu là “Thế nào nó cũng đến” và “Có lẽ nó đến”. Khi xét về mức độ xác thực
của người nói, ta có thể xếp thang độ sau:
Nó đến > Thế nào nó cũng đến > Có lẽ nó đến
Tình thái nhận thức về bản chất thuộc tình thái chủ quan vì tất cả cơ sở

bằng chứng và lý luận mà người nói đưa ra đều nhằm chỉ ra mức độ cam kết
của người nói. Mức độ cam kết của người nói biến thiên theo loại bằng chứng
và cơ sở suy luận mà người nói có được. Chẳng hạn, theo Givón thì thang độ
tin cậy của các loại bằng chứng như sau:
 Về ngôi: người nói > người nghe > người thứ ba
 Về giác quan: thị giác > thính giác > những giác quan khác >
cảm giác
 Về tính trực tiếp: giác quan > suy đoán
 Về độ cận kề: gần > xa (Givón) ; [dẫn theo 23; tr.16]

15
Như vậy, có thể kết luận rằng tình thái nhận thức thể hiện cái vị thế
hiểu biết của cá nhân người nói đối với tính chân thực của điều được nói đến
trong câu, dựa trên những bằng chứng hoặc cơ sở suy luận nào đó.
- Tình thái đạo nghĩa là loại tình thái liên quan đến yếu tố ý chí của
người nói, liên quan đến hợp thức về đạo đức hay các chuẩn mực xã hội khác
đối với hành động do người nói hay chủ thể hành động thực hiện.
Tuy nhiên hai loại tình thái này đều có hai đặc điểm chung đó là tính
chủ quan và tính không thực hữu.
 Tính chủ quan: Nếu ở tình thái nhận thức thể hiện ở những bằng
chứng cơ sở lý luận mang tính cá nhân của người nói để thể hiện sự cam kết
có tính chân thực của điều được nói ra thì ở tình thái đạo nghĩa thể hiện thái
độ, ý chí và mong muốn của người nói đối với hành động. Theo đó, nó được
chia làm 4 tiểu loại: bắt buộc, cấm đoán, được phép và miễn trừ.
 Tính không thực hữu: Ở tình thái nhận thức, tính không thực hữu
thể hiện sự cam kết có mức độ của người nói đối với tính chân thực của điều
được nói ra. Tức người nói không đảm bảo hoàn toàn tính chân thực của nó.
Còn ở tình thái đạo nghĩa, nó thể hiện ở hành động tương lai mà người nói
muốn người nghe thực hiện hay tự mình thực hiện.
Ví dụ:

(11) Nó có thể làm việc vào ngày nghỉ.
Vị từ tình thái “có thể” dẫn đến hai cách hiểu. Theo tình thái nhận thức,
phát ngôn này được khúc giải: Tôi cho rằng nó làm việc cả vào ngày nghỉ,
dựa trên những bằng chứng và suy luận của cá nhân tôi (như: nó không đi
chơi vào ngày nghỉ mà thường đến cơ quan). Còn theo tình thái đạo nghĩa là:
Tôi đồng ý, cho phép nó được làm việc vào những ngày nghỉ, vì lý do yêu cầu
của công việc hay thu nhập của nó chẳng hạn.

16
Vậy sự phân biệt tình thái nhận thức và đạo nghĩa trong phạm vi tình
thái chủ quan về thực chất xoay quanh ba tham số về tính tất yếu, tính khả
năng và tính hiện thực. Chúng tôi đồng ý với cách phân biệt bao quát của tác
giả Nguyễn Văn Hiệp khi đã sơ đồ hóa sự phân biệt này dựa trên ba tham số
như trên, cụ thể là:
Tình thái

Khả năng Tất yếu

Nhận thức Đạo nghĩa Nhận thức Đạo nghĩa


Hiện thực Pht Hiện thực Pht Hiện thực Pht Hiện thực Pht
(Viết tắt: Pht – Phi hiện thực)
1.2.2. Đối lập giữa tình thái nhận thức (Epistemic Modality) và tình
thái căn bản (Root Modality)
Phạm trù tình thái còn cần bao quát loại ý nghĩa tình thái của sự tình
cần truyền đạt, thể hiện như những thuộc tính của sự tình khách quan. Đó là
lý do một số nhà nghiên cứu nêu ra một đối lập khác: đối lập giữa tình thái
căn bản (Root Modality) và tình thái nhận thức (Epistemic Modality)
Tình thái căn bản được định nghĩa như là tình thái của hành động được

chia làm hai loại: tình thái đạo nghĩa và tình thái trạng huống.
Trong khi tình thái đạo nghĩa thuộc phương diện đạo đức, thể hiện ý
chí, mong muốn chủ quan của người nói đối với hành động thì tình thái trạng
huống lại mang tính khách quan. Nó liên quan đến các yếu tố cảnh huống có
tính vật lý bên ngoài, không có sự can thiệp của nhân tố ý chí hay mong muốn
của người nói.

17
Ví dụ:
(12) Nó phải dậy sớm còn chị có thể ngủ muộn hơn.
Câu này thuộc loại tình thái đạo nghĩa bắt buộc và miễn trừ. Người nói
thể hiện mong muốn đối với việc thực hiện hành động: yêu cầu Nó phải đi
ngủ sớm và cho rằng người nghe – chị được phép ngủ dậy muộn.
(13) Trước nó ôn thi nên phải dậy sớm. Giờ đã thi xong rồi nó không
phải dậy sớm nữa.
Theo tình thái trạng huống, việc nó phải dậy sớm không phải do ai
quyết định, yêu cầu mà do hoàn cảnh Nó ôn thi và việc Nó không phải dậy
sớm cũng do trạng huống thi xong rồi quy định.
Sự phân biệt giữa tình thái căn bản và tình thái nhận thức có nhiều ưu
điểm hơn so với sự phân biệt tình thái đạo nghĩa và tình thái nhận thức. Sở dĩ
như vậy vì nó bao quát nhiều loại ý nghĩa tình thái khác nhau như loại tình
thái liên quan đến năng lực của chủ thể, ước muốn của chủ thể, điều kiện bên
ngoài cho phép chủ thể thực hiện hành động. Hơn nữa, cho phép chúng ta lý
giải một số vấn đề thuộc giao diện giữa cú pháp và ngữ nghĩa, cụ thể ở bình
diện tạo sinh câu nói. Đặc biệt quan trọng khi thực hiện việc dán nhãn cho các
thành tố cấu trúc của câu tiếng Việt.
Sự phân biệt này cho phép đặt ra giả thuyết về sự tiến hóa tình thái. Đã
có những nghiên cứu gần đây cho thấy mối quan hệ lịch sử giữa hai loại tình
thái này, đó là ý nghĩa thuộc tình thái nhận thức được phái sinh từ những ý
nghĩa thuộc tình thái căn bản như những nghiên cứu của Bybee (1994),

Stephany (1998) [dẫn theo 23; tr.116]
1.2.3. Đối lập giữa tình thái hướng tác thể và tình thái hướng người
nói
Tình thái hướng tác thể biểu thị những điều kiện bên trong và bên ngoài
của tác thể đối với việc thực hiện hành động được nói đến trong câu. Theo

18
nghiên cứu của Bybee, loại tình thái này được xem xét theo những nội dung
sau: sự bắt buộc, sự cần thiết, năng lực và mong muốn.
- Tình thái hướng người nói được thấy trong những câu áp đặt, đề
nghị một hành động hoặc một cách ứng xử nào đó, đặc biệt thường thấy trong
những phát ngôn thuộc nhóm “khuyến lệnh”. Những nội dung của tình thái
hướng người nói (cầu khiến, cấm đoán, mong đợi,…) được xử lý trong tình
thái của mục đích phát ngôn.
1.2.4. Đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của
lời phát ngôn
- Tình thái của mục đích phát ngôn: xem xét nội dung tình thái thuộc
phạm vi dụng học, đưa mục đích phát ngôn vào định nghĩa về tình thái.
- Tình thái của lời phát ngôn: nếu tình thái mục đích phát ngôn thuộc
phạm vi dụng học thì tình thái lời phát ngôn thuộc bình diện nghĩa học. Nó
liên quan đến thái độ của người nói đối với điều được nói ra trong câu cũng
như quan hệ giữa chủ thể và vị thể của mệnh đề được biểu đạt. Có thể chia
nội dung tình thái này thành: tình thái của câu và tình thái của cấu trúc vị ngữ
hạt nhân (xét trong câu tường thuật).
Tình thái của câu thể hiện mức độ cam kết và thái độ của người nói đối
với điều được nói ra. Còn tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân thể hiện
những dạng thức tồn tại của hành động, quá trình, trạng thái, tính chất, quan
hệ, mà vị ngữ biểu đạt.
Tác giả Cao Xuân Hạo là người đầu tiên chủ trương đưa ra sự phân biệt
giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn theo tinh

thần như thế. Sau đó Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp (2003) cũng đi theo chủ
trương đó nhưng có những đề xuất và điều chỉnh nhất định.
1.2.5. Những đối lập mang tính lập trường, thuộc chủ quan của người
nói

19
Ngoài những đối lập tình thái được nói đến ở trên, trong tình thái ngôn
ngữ không thể thiếu những đánh giá chủ quan của người nói đối với điều
được nói đến trong câu. Tính chủ quan mà ngôn ngữ học quan tâm chính là
tính chủ quan tạo lời (locutionary subjectivity), theo Lyons “…về tính chủ
quan tạo lời, ta có thể nói rằng đó là sự thể hiện của chính bản thân tác thể tạo
lời (người nói hoặc người viết, người phát ngôn) trong hành động phát ngôn.
Nói một cách giản dị, tính chủ quan tạo lời là sự tự thể hiện trong việc sử
dụng ngôn ngữ” [27; tr.347]
Loại nghĩa đánh giá này rất quan trọng xét trên khía cạnh tương tác liên
nhân hoặc siêu ngôn ngữ. Thông qua những đánh giá chủ quan, người nói thể
hiện vai trò chủ động của mình trong giao tiếp, chủ động tác động đến nhận
thức của người nghe, từ đó chương trình hóa những phản ứng hồi đáp từ phía
người nghe. Những đánh giá chủ quan, thuộc lập trường của người nói rất đa
dạng, có thể liệt kê ra những khía cạnh đánh giá với những đối lập cơ bản sau:
- Đánh giá tích cực/ tiêu cực:
Ví dụ:
(14) Cô ấy trông béo lên.
(15) Đi biển một tuần nên cô ấy đen đi nhiều.
- Đánh giá về tính mong muốn/ không mong muốn
Chẳng hạn như:
(16) Đi công tác về, nó được nghỉ vài ngày.
(17) Trong tù nó bị ăn cơm nguội cả năm trời.
- Đánh giá về lượng (ít/ nhiều)
Ví dụ:

(18) Con bé ăn mỗi một cái bánh. (Khúc giải: Con bé ăn 1 cái bánh, tôi
cho rằng ăn như thế là ít)

20
(19) Con bé ăn những năm cái bánh . (Khúc giải: Con bé ăn năm cái
bánh, tôi cho rằng như thế là nhiều)
- Đánh giá về chủng loại (phong phú/ nghèo nàn)
Ví dụ:
(20) Giờ nhà anh ta chỉ còn một cái tivi, một cái giường, một cái tủ.
(Khúc giải: Nhà anh ta có một cái tivi, một cái giường, một cái tủ; theo tôi
như thế là ít đồ đạc quá)
(21) Giờ nhà anh ta có nào là tivi, nào là giường, nào là tủ. (khúc giải:
Nhà anh ta có tivi, giường, tủ; tôi cho rằng như thế là nhiều đồ, có thể là hơn
trước đây)
- Đánh giá về thời gian (sớm/muộn)
Như:
(22) Bây giờ mới 9 giờ. (Khúc giải: Bây giờ là 9 giờ và tôi cho rằng
như vậy là sớm)
(23) Bây giờ đã 9 giờ. (Khúc giải: Bây giờ là 9 giờ và tôi cho rằng như
vậy là muộn)
- Đánh giá về tính cùng cực, bất thường
(24) Tôi nói không mà nó cứ làm.
(25) Trong lúc mẹ ốm anh ta lại vào tù.
Những nội dung đánh giá này có thể được thể hiện một cách trực tiếp,
hiển ngôn hoặc một cách gián tiếp, hàm ngôn. Hàm ngôn hay thông tin ngầm
ẩn gồm bốn loại : dẫn ý, tiền giả định, hàm ngôn quy ước và hàm ngôn hội
thoại. Chúng được phân biệt với nhau theo các tiêu chí : về tính hàm chân trị,
tính có thể khử bỏ, sự phụ thuộc vào ngữ cảnh. Theo đó :
- Dẫn ý : mang tính chân trị, không thể khử bỏ và không phụ thuộc
vào ngữ cảnh.


21
- Tiền giả định : không mang tính chân trị, không thể khử bỏ và
không phụ thuộc vào ngữ cảnh.
- Hàm ngôn quy ước : không mang tính chân trị, có thể khử bỏ và
không phụ thuộc vào ngữ cảnh.
- Hàm ngôn hội thoại : không mang tính chân trị, có thể khử bỏ và
phụ thuộc vào ngữ cảnh.
Nghĩa tình thái mang tính “lập trường”, thuộc về chủ quan của người
nói thực sự quan yếu khi chúng tôi – qua khảo sát cụ thể của luận văn này –
đề nghị về một kiểu nghĩa cần có trong từ điển giải thích tiếng Việt hiện nay.
1.3. Các phương tiện biểu thị tình thái
Cũng phong phú như các kiểu ý nghĩa của tình thái, có nhiều phương
tiện để biểu thị nội dung ý nghĩa của phạm trù này. Những phương tiện chủ
yếu thường được nhắc đến là:
- Phương tiện ngữ âm: dùng ngữ điệu, trọng âm để thể hiện thái độ,
tình cảm hoặc để nhấn mạnh vào điểm mà người nói cho là cần chú ý.
- Phương tiện ngữ pháp: đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc của câu để
thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn trong phát ngôn.
Hoặc sử dụng một số kiểu câu thường là câu ghép, trong đó một thành phần
biểu thị tình thái, còn thành phần kia biểu thị nội dung của câu, chẳng hạn như
kiểu câu được gọi là câu có động từ thái độ mệnh đề.
- Phương tiện từ vựng: Sử dụng các vị từ tình thái, vị từ tình thái tính,
các quán ngữ, trợ từ, tiểu từ tình thái, phó từ…
Khác với các ngôn ngữ biến hình như tiếng Anh, Pháp, Nga chẳng hạn,
phương tiện ngữ pháp biểu thị khá rõ ràng ý nghĩa tình thái và phân biệt rạch
ròi với hai nhóm phương tiện từ vựng và ngữ âm. Nhưng ở ngôn ngữ đơn lập
như tiếng Việt, ngoài ngữ điệu, phương tiện từ vựng đóng một vai trò quan

22

trọng. Một cách khái quát, tác giả Nguyễn Văn Hiệp [23; tr.140] đã phân chia
các phương tiện biểu thị tình thái trong tiếng Việt thành những lớp chính sau:
a) Các phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ: đã, đang, sẽ, vừa,…
b) Các vị từ tình thái: nên, cần, phải, tất,…
c) Các vị từ tình thái tính làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan,
định, cố, muốn, đành, được, bị, bỏ,…
d) Các vị từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: tôi
e rằng, tôi sợ rằng, tôi nghĩ rằng,…
e) Các quán ngữ tình thái: ai bảo, nói gì thì nói, tội gì,…
f) Các vị từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với những điều kiện
về ngôi, về chỉ tố thời,…) như: ra lệnh, van, xin,…
g) Các thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ,…
h) Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ (idiom) tương
đương: à, ư, nhỉ, nhé, thôi, chứ, đi, mất,…
i) Các vị từ đánh giá và tổ hợp có tính đánh giá: may (là), may một cái
(là), đáng buồn (là), đáng mừng (là),…
j) Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay cả, chính, đích thị,…
k) Các từ ngữ chem xen biểu thị tình thái: nó biết cóc gì, mua cha nó
cho rồi,…
1.4. Các phương tiện từ vựng biểu thị tình thái trong khuôn khổ đề tài
luận văn
Trong khuôn khổ đề tài luận văn “Về một loại nghĩa phi miêu tả cần có
trong từ điển giải thích tiếng Việt (trên cơ sở cuốn Từ điển tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên)”, chúng tôi lựa chọn xem xét và có những đề xuất liên
quan đến những lớp phương tiện từ vựng biểu thị tình thái sau:
- Các vị từ tình thái tính làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, suýt,
cố, nỡ, dám,…

23
- Các phó từ chỉ thời, thể: lại, đã,…

- Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay cả, chính, đích thị,…
- Các từ ngữ chem xen biểu thị tình thái: nó biết cóc gì, mua cha nó
cho rồi, hỏi cái đếch gì,…
1.5. Một vài vấn đề từ điển học có liên quan đến đề tài
1.5.1. Vấn đề giải thích nghĩa trong từ điển giải thích tiếng Việt
Hiện nay, có nhiều loại từ điển được xuất bản song từ điển học (môn
khoa học nghiên cứu về từ điển) vẫn là bộ môn còn mới mẻ trong nghiên cứu
Việt ngữ học. Đã có một số bài viết trình bày các vấn đề lý thuyết từ điển học
(Hoàng Phê 1969 [32], Hoàng Phê và Nguyễn Ngọc Trâm 1997 [43]; Đỗ Hữu
Châu 1969 [5], Nguyễn Văn Tu 1969 [44]); hay một vấn đề cụ thể nào đó của
từ điển học (Chu Bích Thu 1997 [43], Đào Thản 1997 [43],…); hoặc thông
qua việc giới thiệu, nhận xét các quyển từ điển để phát biểu về quan niệm và
phương pháp biên soạn từ điển (Vương Lộc 1969 [26], Bùi Khắc Việt 1969
[45],…)
Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên) là cuốn từ điển tường giải
tiếng Việt đầu tiên của nước ta được biên soạn dựa trên phiếu tư liệu tương
đối đầy đủ. Các soạn giả đã cố gắng giải quyết một số vấn đề cụ thể cho phù
hợp với đặc điểm và sự phát triển của tiếng Việt và chữ Việt. Tuy nhiên định
hướng xây dựng quyển từ điển này là “đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng
(Mác - Lênin) và tính tiện dùng” [32; tr.8] và khi giải thích nghĩa “chú ý đến
những quan hệ ngữ nghĩa có tính hệ thống trong từ vựng, cố gắng giải thích
nghĩa theo cùng một kiểu, một mẫu thống nhất những từ ngữ thuộc cùng một
lớp từ vựng và những trường hợp nghĩa của từ có cùng cấu trúc giống nhau”
[32; tr.17]. Chu Bích Thu khi xem xét cấu trúc vi mô trong Từ điển tiếng Việt
đã nêu ra “Yếu tố mang thông tin ngữ nghĩa gồm toàn bộ lời giải thích. Thông

×