Phân tích nhân vật người Vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân
Đề bài: Phân tích nhân vật người Vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà
văn Kim Lân. Bài làm của một học sinh lớp 12 tại Chương Xá.
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò
thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo
bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo,
đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách
của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào
cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị.
Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng
ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình
cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân
vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực
và nhân đạo của tác phẩm.
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái
tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật
cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề
của tác phẩm. Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải
nhận xét là : “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng
người”. Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy
nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ
thuật sâu xa.
Cốt truyện xoay quanh sự kiện “ nhặt vợ " bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng. Nhà
Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên Tràng bị
khinh rẻ. Đã thế, anh ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ. Trong hoàn cảnh
bình thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói khủng khiếp,
anh ta lại “nhặt" được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin
gì.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng
khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen
trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu
lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí
vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều
không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa
kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để
kiếm sống.
Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác : Áo quần tả tơi như tổ
đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con
mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương
cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn.
Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của
mọi người. Khi nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò này – Lại đây mà đẩy
xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong
cớn nói với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy ? Thị lon ton chạy
lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích
lắm. Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng
xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến,
sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống,
thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá. Một lúc
sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích
bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả : Ăn thật nhá! ừ
ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta dang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của
một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần : Thị cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa
quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được
ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói
sắp chết. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta
cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ : về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt:
Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật. Thế
là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là chuyện tầm
phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là
để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình
cảm gì với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị
ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình
bằng con mắt tò mò.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài ra
không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà
chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng ? Nhẹ dạ chăng? Mặc
kệ ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã ! Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết
đâu mà tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ
yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào !
Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp
phỏng, xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng không
sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến đầy rẫy
những định kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh
chàng mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi chết đói và
những người trong gia đình anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị hay không?
Chuyện làm “vợ” đến với chị quá bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên cạnh
dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta lại
càng nổi bật : Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt.
Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì dang diễn ra
trong lòng người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời
làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép
của một cô dâu. Chắc là với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi không biết cái gì
đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng? Liệu hành động
“Cũng liều nhắm mắt đưa chân" này có mang lại cho chị được chút hạnh phúc ấm
áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh của chị bây giờ ?! Bao
nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu hỏi: sắp đến chưa ? vẫn
chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai không ?
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới
đất, thì chị ta không khỏi chán ngán, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái
ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới
ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao
được nữa? Việc đã rồi ! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng
xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi
mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần… Nghệ
thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường này
khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm
xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm
trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị không ? Liệu mái
nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân ? Đặc biệt là cảnh chị ta hai
tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con
Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái
thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị
bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là
thực mà cứ như không phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà
như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời
người con gái chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi lắm ! Chị không
nói được nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành
nước mắt mà chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.
Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập.
Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã
khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không phải
như vậy.
Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu. Ông
không muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Khi viết truyện
ngắn vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và
thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền
Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm
chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào
cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ
nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no đủ nhưng
dẫu sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Chị
hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một
nửa sự sống rồi sao?
Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của
Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hôm qua, cái đói đã
làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm
ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với chị. Chị bắt đầu vun vén
cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Có bàn
tay săn sóc của chị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn
ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng
không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở
ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật.
Người đàn bà vô danh nhưng không vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh
khí cho mẹ con Tràng.
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong
bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị
ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi
tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của
người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị
không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang
mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng
đã có vợ, dẫu rằng đó chì là cô vợ nhặt.
Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện
sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; còn người nói đến phong
trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là
chị vợ nhặt – người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn những
người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên
trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê gớm. Hình ảnh ấy là
một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của câu chuyện đáng buồn
này.
Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân
hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không sai, nhưng đọc
đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh
người vợ nhặt của anh Tràng.
Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc
họa thành công hình ảnh người vợ nhặt – người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp đã
gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống
đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp
khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ
nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự
cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy nhất định phải được sống ấm
no, hạnh phúc.