Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.58 KB, 22 trang )

SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
PHẦN I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I.
II.
2. Các hình thức tổ chức dạy học với di sản
Các hình thức sử dụng di sản trong dạy học một số bộ môn ở trường
phổ thông.
2.1. Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học ở
trường phổ thông
Bài học có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học các bộ
môn ở trường phổ thông. Nó là hình thức cơ bản của việc tổ chức quá trình
thống nhất giữa giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Bài học là
thành phần chính, chiếm đa số thời gian của quá trình dạy học ở trường phổ
thông. Do đó, tiến hành bài học là điều tất yếu và bắt buộc trong việc dạy học
ở trường phổ thông. Song bài học có để lại những dấu ấn sâu đậm trong tâm
hồn học sinh hay không, có làm cho học sinh yêu thích những vấn đề đã học
và biết vận dụng chúng một cách năng động, sáng tạo để giải quyết các vấn đề
bức xúc của cuộc sống hay không là tuỳ thuộc ở phương pháp của người thầy.
Bởi vậy tiến hành bài học bằng cách sử dụng sáng tạo, đa dạng, nhuần nhuyễn
các phương pháp dạy học của giáo viên sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bồi
dưỡng, khắc sâu kiến thức, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm và rèn luyện
các năng lực nhận thức, năng lực thực hành bộ môn cho học sinh. Một trong
những biện pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn là
sử dụng tài liệu về di sản khi tiến hành bài học trên lớp.
Tài liệu về di sản đóng vai trị là một nguồn kiến thức góp phần bổ
sung, cụ thể hoá, làm phong phú hơn nội dung bài học do quy định số trang
1
có hạn, sách giáo khoa không đề cập tới. Nó làm cho những kiến thức trong
bài học không chỉ đơn thuần là con số, các sự kiện khô khan mà sinh động
hơn, có hồn hơn, giúp cho học sinh tái hiện được kiến thức và hiểu bài nhanh,


nhớ lâu hơn.
Tuy nhiên, để khai thác các tài liệu về di sản phục vụ cho bài nội khó
thì giáo viên phải tuân thủ những yêu cầu sau:
- Giáo viên phải tiến hành chọn lọc kỹ và xác minh tính chân thực của
các tài liệu về di sản.
- Tài liệu di sản có nhiều nhưng do thời gian của một tiết trên lớp có
hạn (45 phút) nên đòi hỏi giáo viên phải biết chọn lọc những tài liệu điển hình
nhất, sắp xếp các tài liệu đó thành hệ thống phù hợp với tiến trình bài học kết
hợp với các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật hiện đại làm cho bài
học sinh động hơn. Đồng thời, tuỳ theo mục đích, nội dung bài học mà giáo
viên khai thác những tài liệu khác nhau (có bài dựng tranh ảnh, có bài dựng
hiện vật kết hợp các đoạn miêu tả, tường thuật về di sản, nhân vật lịch sử) phù
hợp với trình độ và khả năng nhận thức của học sinh.
Sử dụng tài liệu di sản trong tiến hành bài học trên lớp là phương pháp
khá phổ biến được nhiều giáo viên sử dụng. Do những điều kiện chủ quan và
khách quan của từng địa phương, của từng trường hợp đặc biệt là những địa
phương ở xa nên giáo viên nhiều khi không thể tiến hành bài khó ngay tại nơi
có di sản. Để bài giảng sinh động, hấp dẫn hơn, gây hứng thú học tập cho học
sinh, giáo viên phải sử dụng các phương tiện trực quan trong bài giảng. Ngoài
các kênh hình có sẵn trong SGK thì việc sưu tầm tài liệu về các di sản vào dạy
học là điều cần thiết. Song vấn đề đặt ra là làm thế nào sưu tầm được các tài
liệu về di sản một cách tốt nhất, hiệu quả nhất? Trách nhiệm này thuộc về nhà
trường, giáo viên và việc tổ chức cho học sinh sưu tầm.
Có thể tiến hành khai thác tài liệu về di sản bằng cách:
Thứ nhất, nhà trường tạo mọi điều kiện tốt nhất, đặc biệt là hỗ trợ về
vật chất cho giáo viên bộ môn đến các nơi có di sản sưu tầm tài liệu phục vụ
2
cho việc dạy học. Trước khi đến tìm hiểu, sưu tầm tài liệu ở nơi có di sản
giáo viên phải nghiên cứu kỹ SGK và lập một bản danh sách các di sản cần
thiết phải sử dụng trong việc dạy học bộ môn của mình. Còn khi trực tiếp đến

nơi có di sản thì điều đầu tiên là giáo viên phải tìm hiểu bao quát quá trình
hình thành và xây dựng của khu có di sản. Sau đó đi tham quan toàn bộ để
xác định những tài liệu nào (tranh ảnh, hiện vật, những mẩu chuyện) phù hợp
với nội dung giảng dạy. Hoặc giáo viên có thể liên hệ, trao đổi với cán bộ
quản lý di sản để nhờ họ giúp đỡ tìm hiểu sâu hơn, có hiệu quả hơn về sự hình
thành, tồn tại và nội dung của di sản. Mỗi giáo viên những bộ môn có ưu thế
trong việc sử dụng di sản vào dạy học phải luôn có ý thức sưu tầm tư liệu để
phục vụ bài giảng.
Nhà trường và giáo viên nên phát động học sinh tham gia sưu tầm tài
liệu, tranh ảnh hoặc vật về di sản phục vụ cho hoạt động dạy học. Công việc
này có thể phát động trong các đợt thi đua chào mừng những ngày lễ lớn,
thông qua đây mà tạo hứng thú học tập và bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa
học cho học sinh.
Sau khi đã sưu tầm được tài liệu về di sản, giáo viên phải tiến hành
phân loại cho phù hợp với nội dung từng bài học cụ thể và sắp xếp thành hồ
sơ dạy học.
Khi tiến hành soạn giáo án, giáo viên phải chọn những tài liệu điển
hình nhất, cần thiết nhất để đưa vào bài giảng. Tránh tình trạng đưa quá nhiều
tài liệu, không phân biệt đâu là tài liệu cần thiết, điển hình, sử dụng không
đúng lúc, đúng chỗ, làm loãng nội dung cơ bản của bài học. Những tài liệu về
di sản được sử dụng trong hình thức này như là các phương tiện trực quan,
nguồn kiến thưc, do đó cần kết hợp chặt chẽ với trình bày miệng và các
phương pháp khác. Song phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Ví như, giáo viên có thể sử dụng ảnh chụp về di sản kết hợp với việc miêu tả
khái quát có phân tích những kiến thức liên quan hoặc giáo viên có thể sử
dụng tranh ảnh về di sản kết hợp với những mẩu chuyện để cụ thể hoá kiến
3
thức hay kết hợp sử dụng tranh ảnh về di sản với trao đổi đàm thoại nhằm
giúp học sinh hiểu sâu sắc những kiến thức cơ bản của bài học.
2.2. Tiến hành bài học tạo nơi có di sản. Bài học tại thực địa.

Bài học là hình thức tổ chức cơ bản của việc dạy học ở trường phổ
thông. Bài học không chỉ tiến hành ở trên lớp mà còn có thể tiến hành ở nơi
có di sản hay thực địa.
Nó được thực hiện theo nội dung quy định của chương trình và hoàn
toàn khác với các hoạt động ngoại khó tại di sản. Tuy hình thức học tập có
thay đổi song bài học tại thực địa là bài học nội khó, một mắt xích trong toàn
bộ khó trình có liên quan đến các bài học khác. Việc học tập loại bài này là
bắt buộc đối với tất cả học sinh.
Bài học tại thực địa có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh về cả ba mặt
kiến thức: tư tưởng, tình cảm và kỹ năng. Bởi vì thực địa – nơi có di sản là
những dấu vết, mảnh vụn của quá khứ còn sót lại nên khi tiến hành bài học
nội khó tại đây tức là học sinh đã được quan sát các dấu vết, mảnh vụn của
quá khứ để bổ sung, cụ thể hoá những kiến thức các em đang nghiên cứu. Nó
giúp các em phát triển trí tưởng tượng, đa dạng hoá hoạt động nhận thức, gây
hứng thú học tập bộ môn. Tiến hành học tại thực địa là phương thức thực hiện
dạy học gắn với đời sống có tác dụng nâng cao hiểu biết về kiến thức môn
học, về văn hoá – giáo dục, lòng yêu quê hương, đất nước, óc thẩm mĩ cho
các em. Bài học tại di sản cũng phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của một bài
học nội khóa đồng thời cũng phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu của bài học tại
thực địa.
2.2.1. Để tiến hành bài học tại thực địa cần bảo đảm một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, công tác chuẩn bị cho việc tiến hành bài học tại nơi có di sản
phải được thực hiện chu đáo, kỹ lưỡng. Công tác chuẩn bị là yếu tố quyết
định cho mọi sự thành hay bại, kể cả trong hoạt động dạy học. Tiến hành bài
học tại thực địa là một hình thức tổ chức dạy học bên ngoài lớp học, quá trình
4
dạy học liên quan đến nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau nên phải được chuẩn
bị chu đáo, kỹ lưỡng cả đối với giáo viên và học sinh.
Một là, chọn vấn đề, địa điểm phù hợp với mục tiêu, nội dung, số tiết
học và điều kiện tiến hành. Nếu ở địa phương trường đúng hoặc các vùng lân

cận có di sản liên quan đến những sự kiện lớn được ghi trong chương trình
môn học thì cố gắng tiến hành bài học tại di sản, còn ở những địa phương
không có di sản liên quan đến kiến thức trong chương trình thì tổ chức dạy
học tại di sản những bài học về địa phương (lịch sử địa phương, địa lý địa
phương, âm nhạc dân gian ở địa phương…).
Hai là, phải lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tiến hành bài
học, đi khảo sát thực địa, liên hệ với các cơ quan quản lý di sản. Sau khi đã
lựa chọn được vấn đề dạy học và di sản phù hợp, giáo viên phải xây dựng
được kế hoạch chuẩn bị và tiến hành bài học tại nơi có di sản một cách chi tiết
cho từng nội dung công việc, thời gian thực hiện, lực lượng phối hợp, phương
tiện thiết bị hỗ trợ. Kế hoạch tiến hành bài học tại di sản phải báo cáo với tổ
chuyên môn, lãnh đạo nhà trường để được duyệt thực hiện và có kế hoạch hỗ
trợ. Tiếp đó, giáo viên tiến hành khảo sát thực địa, tìm hiểu kỹ lưỡng các đặc
điểm về vị trí địa lí, địa hình địa vật tự nhiên, các hiện vật, chứng tích… có
liên quan đến nội dung bài học. Đây là cơ sở quan trọng để giáo viên chuẩn bị
nội dung bài giảng và tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh một cách cụ
thể nhất. Sau khi đã khảo sát thực địa, giáo viên liên hệ với cơ quan, đơn vị
quản lý di sản (thường là các Bảo tàng địa phương hoặc ngành Văn hoá, thể
thao và du lịch các cấp) để đăng kí sử dụng di sản, nhờ giúp đỡ (phương tiện
kĩ thuật, hướng dẫn viên, bảo vệ), thống nhất kế hoạch, thời gian tiến hành bài
học để phối hợp thực hiện. Đặc biệt, nếu dự định bài học (hoặc một vấn đề
nào đó của bài học) do người phụ trách di sản, hướng dẫn viên hay nhân
chứng lịch sử thực hiện thì giáo viên cần đặt ra mục tiêu, yêu cầu và nội dung
cơ bản để họ chuẩn bị trước. Ngoài ra, khi làm việc với các cơ quan quản lý di
sản, giáo viên cần chú ý khai thác, tìm hiểu các nguồn tài liệu về di sản và các
5
nội dung bài học có liên quan đến di sản bao gồm tài liệu hiện vật gốc, sa bàn,
mô hình phục chế, phim ảnh, các công trình nghiên cứu, bài viết chuyên đề.
Đây sẽ là nguồn tài liệu về địa phương phong phú, có giá trị để giáo viên bổ
sung vào bài giảng hoặc thiết kế bài giảng về địa phương.

Ba là, giáo viên phải chuẩn bị trước cho học sinh về tư tưởng và kiến
thức chuyên môn như nêu mục đích, yêu cầu của bài học và nội dung kiến thức
cơ bản cần tìm hiểu trước ở nhà, thông báo sơ qua về địa điểm có di sản, sự
kiện, nội dung kiến thức liên quan đến di sản, yêu cầu các em sưu tầm thêm tài
liệu có liên quan; chuẩn bị đồ dùng trực quan, phương tiện dạy học cần thiết;
phổ biến nội qui học tập tại thực địa. Ngoài ra, giáo viên còn phải nhắc nhở học
sinh về việc đảm bảo phương tiện đi lại, an toàn giao thông (nếu học sinh tự
đến địa điểm tiến hành bài học), giờ giấc, vật dụng che mưa nắng,…
Thứ hai, nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, cơ
bản và bám sát nội dung kiến thức mà di sản phản ánh.
Chuẩn bị nội dung bài học tại nơi có di sản là công việc quan trọng mà
giáo viên phải thực hiện tốt. Bởi lẽ, để đạt được các mục tiêu giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển như bài học trên lớp, bài học tại di sản cần chú trọng
đến việc làm sáng tỏ bản chất những mối liên hệ bên trong của các kiến thức
liên quan tại chính nơi học sinh đang được học. Vì vậy, nội dung bài học tại
di sản vừa phải đảm bảo tính chính xác, cơ bản, vừa sức hoạt động nhưng
đồng thời phải phù hợp, bám sát nội dung kiến thức mà các chứng tích, hiện
vật tại di sản phản ánh.
Một là, nội dung bài học phải là kiến thức cơ bản được quy định trong
chương trình của lớp học, cấp học nhưng phải lựa chọn những kiến thức phù
hợp với di sản. Ở đây, giáo viên phải xác định mối quan hệ giữa nội dung bài
giảng và các chứng tích, hiện vật tại di sản. Phải xem các chứng tích, hiện vật
tại di sản là một nguồn kiến thức chủ yếu của bài học hoặc ít ra là có tác dụng
dẫn chứng, minh họa cho nội dung của bài học. Tuy nhiên, cần phải lưu ý là
“không cần và không thể giới thiệu toàn bộ di sản hoặc toàn bộ bài học mà
6
giáo viên chỉ lựa chọn những kiến thức được minh chứng rõ ràng qua di vật
của di sản”. Như vậy, nội dung bài học tại di sản không nhất thiết phải trình
bày tất cả kiến thức được qui định trong chương trình mà cần lựa chọn những
vấn đề cơ bản nhất, được phản ánh qua các chứng tích, hiện vật tại di sản để

giảng dạy cho học sinh. Điều quan trọng là nguồn kiến thức từ di sản phải làm
sáng tỏ nội dung kiến thức trọng tâm của bài.
Ngoài việc lựa chọn nội dung kiến thức được qui định trong chương
trình của lớp học, cấp học phù hợp với di sản, bài giảng tại đây cần được bổ
sung nguồn tài liệu về địa phương để làm sinh động, cụ thể hoá nội dung bài
học, qua đó khôi phục bức tranh quá khứ đã diễn ra tại di sản một cách sống
động, chân thực nhất. Nguồn tài liệu về địa phương được sử dụng phải đảm
bảo độ chính xác, tin cậy.
Đối với bài học có trong SGK môn học, bài giảng tại di sản cần bổ
sung các tài liệu địa phương phù hợp bằng cách vừa giảng, vừa kết hợp tổ
chức cho học sinh quan sát, tìm hiểu các hiện vật, chứng tích thực địa có liên
quan tới bài học. Hoặc sau khi giảng dạy xong nội dung của bài học, giáo viên
tổ chức cho học sinh quan sát, tìm hiểu các loại tài liệu, hiện vật liên quan đến
bài. Bổ sung tài liệu về địa phương, tài liệu về di sản làm sinh động, sâu sắc
hơn nội dung bài giảng là vô cùng quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, giáo
viên phải chú ý làm sao để đảm bảo mạch nội dung chương trình của bài học,
tránh quá tải đối với hoạt động nhận thức của học sinh, hay quá ôm đồm kiến
thức về địa phương.
Đối với bài học về địa phương, nội dung bài giảng tại di sản có thể do
giáo viên thiết kế theo tài liệu hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo hoặc do
giáo viên tự biên soạn. Nếu tài liệu do giáo viên tự biên soạn, cần tuân thủ các
nguyên tắc về phương pháp dạy học:
Một là, chọn những kiến thức cơ bản, tiêu biểu của địa phương tương
ứng với một nội dung kiến thức của bài học trong chương trình, SGK chung
làm nội dung cho các tiết học về địa phương.
7
Hai là, việc dạy học những tiết về địa phương trong khuôn khổ chương
trình ở trường phổ thông mang tính chất tổng hợp toàn diện, không phải là
dạy chuyên đề về một lĩnh vực nào đó của bộ môn.
Ba là, nguồn tài liệu chủ yếu để biên soạn nội dung bài giảng về địa

phương, ngoài những tài liệu do giáo viên và học sinh sưu tầm, xác minh cần
dựa vào các bài viết, công trình của những cơ quan có trách nhiệm như Sở
văn hoá – thông tin, Ban Tuyên giáo tỉnh… Bài học về địa phương do giáo
viên tự biên soạn nên tranh thủ ý kiến góp ý của các cơ quan có trách nhiệm ở
trường và địa phương.
Thứ ba,bài học tại địa điểm có di sản phải phát triển được các hoạt
động nhận thức tích cực, độc lập óc quan sát, đặc biệt là tư duy độc lập của
học sinh.
Hoạt động nhận thức tích cức, độc lập của học sinh là một trong những
điều kiện có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ
môn. Tổ chức dạy học tại thực địa – nơi có di sản giáo viên phải kết hợp các
phương pháp, các cách dạy học để khơi dậy sự tò mò, kích thích hứng thú,
phát triển về quan sát của học sinh khi tiếp xúc với dấu vết hay hiện vật tại di
sản, tránh làm cho học sinh mệt mỏi, phân tán sự chú ý sang nội dung xa bài
học. Để phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức của học sinh, giáo
viên nên vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề kết hợp với trao đổi, đàm thoại,
trực quan và phối hợp các dạng tổ chức hoạt động học tập (toàn lớp, nhóm, cá
nhân) một cách tốt nhất.
Thứ tư, bài học tại di sản phải giúp học sinh “Trực quan sinh động” các
chứng tích, hiện vật, phản ánh các kiến thức của môn học mà các em đang tìm
hiểu.
Trực quan sinh động là khâu đầu tiên của quá trình nhận thức, là một
nguyên tắc của lí luận dạy học. Những dấu vết, hiện vật tại di sản không chỉ là
nguồn kiến thức mà còn là những phương tiện trực quan vô giá giúp học sinh
có biểu tượng sinh động, chân thực về các sự kiện, hiện tượng, địa danh, từ đó
8
hình thành khái niệm một cách vững chắc. Mặt khác, việc được quan sát trực
tiếp lại dấu vết, hiện vật tại di sản sẽ tạo cho học sinh xúc cảm đặc biệt, qua
đó tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm và hành vi của các em. Đây là ưu
thế vượt trội của bài học tại nơi có di sản so với bài học ở trên lớp. Vì vậy, bài

học tiến hành tại nơi có di sản phải chú ý phát triển óc quan sát của học sinh,
khi tiến hành bài học tại di sản, giáo viên cần chú ý:
- Một là, phải khai thác tối đa khả năng cung cấp thông tin thông qua
các dấu vết, hiện vật,… tại nơi có di sản. Khi khai thác tập trung vào những
dấu vết, hiện vật quan trọng phản ánh kiến thức cơ bản của bài học, tránh tình
trạng cho học sinh quan sát tràn lan làm loãng trọng tâm nội dung cần nghiên
cứu của bài học.
- Hai là, khi hướng dẫn học sinh quan sát phải giúp học sinh tìm ra mối
quan hệ bên trong, làm sáng tỏ nội dung, kiến thức mà các chứng tích, hiện
vật phản ánh.
- Ba là, tổ chức hoạt động quan sát các chứng tích, hiện vật của học
sinh một cách khoa học, hợp lí và hiệu quả.
Thứ năm, phải tổ chức cho học sinh tự học trong và sau giờ học.
Đây là điều kiện cần thiết để bài học tại di sản đạt kết quả tốt. Học sinh
chỉ có thể trả lời được các câu hỏi, chỉ ra được các mối quan hệ bên trong
giữa các đối tượng quan sát và bản chất của hiện tượng trên cơ sở biết phân
tích, so sánh, khái quát… các mặt chủ yếu của những điều quan sát được. Vì
vậy, phải phát triển khả năng tự học của học sinh trong và sau bài học. Khi
tiến hành bài học tại thực địa, tuỳ vào điều kiện cụ thể, giáo viên có thể tổ
chức các hoạt động tự học cho học sinh như:
- Hướng dẫn học sinh tập dượt nghiên cứu thông qua tiếp xúc với các
loại tài liệu tại di sản như tìm hiểu niên đại, xuất xứ, chất liệu, hình thức thể
hiện (kiểu kiến trúc, hoa văn trang trí, kiểu chữ…) và nội dung kiến thức của
các dấu vết, hiện vật… liên quan đến bài học.
9
- Hướng dẫn học sinh làm các loại bài tập thực hành từ đơn giản đến phức
tạp: Vẽ sơ đồ khu di sản, vẽ lược đồ thể hiện diễn biến sự kiện, hiện tượng đã
diễn ra tại nơi có di sản, lập hồ sơ, đánh giá, phân loại hiện vật tại di sản…
- Hướng dẫn học sinh viết bài thu hoạch về bài học.
- Kết hợp tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khó sau

bài học như tham quan toàn bộ khu di sản, tổ chức các trò chơi lịch sử, đóng
kịch diễn lại các câu chuyện, sự tích liên quan đến di sản…
2.2.2. Các cách tiến hành bài học tại di sản
Tại nơi có di sản, giáo viên có thể tiến hành hai loại bài học: bài học
nghiên cứu kiến thức mới và bài học ôn tập, sơ kết, tổng kết.
Việc tiến hành bài học tại di sản rất đa dạng, phong phú, tuỳ thuộc vào
điều kiện cụ thể và sự sáng tạo của giáo viên. Nếu có điều kiện kết hợp với
ban quản lí di sản, có thể tiến hành bài học nghiên cứu kiến thức mới như sau:
- Giảng viên giới thiệu những nét cơ bản về nội dung kiến thức có liên
quan đến di sản.
- Một cán bộ địa phương (cán bộ lãnh đạo, cán bộ phụ trách văn hoá,
hay người đã tham gia, chứng kiến) trình bày cụ thể về nội dung kiến thức bài
học liên quan đến di sản.
- Giáo viên chốt lại những vấn đề chủ yếu, nhất là những vấn đề được
quy định trong chương trình học.
- Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà tổ chức các hoạt động sau buổi học.
Nếu bài học do giáo viên đảm nhiệm, có thể tiến hành theo hai cách:
Thứ nhất, giáo viên tiến hành dạy học bình thường như ở trên lớp tại
một phòng rộng ở nơi có di sản (nếu có), sau đó hướng dẫn học sinh tham
quan những dấu vết, chứng tích, hiện vật có liên quan đến bài học. Tiến hành
bài học nghiên cứu kiến thức mới tại di sản bằng cách này tương đối đơn
giản, dễ thực hiện. Nó có tác dụng cụ thể hoá, củng cố, khắc sâu kiến thức cho
học sinh.
10
Thứ hai, giáo viên tiến hành bài học ngay tại phòng trưng bày (nếu có)
hoặc nơi có chứng tích, hiện vật của di sản. Trong trường hợp này, dấu vết,
hiện vật tại di sản trở thành đồ dùng trực quan, giáo viên có thể thực hiện bài
học theo quy trình sau:
- Ổn định tổ chức lớp học. Công việc này được thực hiện trong suốt
buổi học. Song lúc bắt đầu buổi học, giáo viên tập trung học sinh, ổn định tổ

chức và quán triệt những yêu cầu quy định phải tuân thủ trong suốt buổi học.
- Kiểm tra bài cũ, giáo viên có thể sử dụng các chứng tích, hiện vật tại
di sản để hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi kiểm tra.
- Dẫn dắt học sinh vào bài mới: giáo viên có thể căn cứ vào các dấu vết,
chứng tích, hiện vật tại di sản để dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề và
nêu lên bài tập nhận thức.
- Tổ chức các hoạt động dạy học: Giáo viên cần kết hợp khéo léo, hợp
lí và nhuần nhuyễn các biện pháp:
+ Kết hợp việc huy động kiến thức cũ, kiến thức mới đã chuẩn bị trước
của học sinh với trao đổi, thảo luận để tìm hiểu nhanh các kiến thức của bài
học ít hay không được phản ánh bởi các chứng tích, hiện vật tại di sản.
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc hướng dẫn học sinh quan sát thực
địa – di sản với trao đổi, thảo luận để làm rõ kiến thức trọng tâm của bài học.
+ Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với chứng tích, hiện vật tại di sản.
+ Kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý giữa việc hướng dẫn học sinh quan sát
chứng tích, hiện vật tại di sản với việc trình bày có hình ảnh sinh động của
giáo viên.
+ Nếu bài học tại thực địa – di sản là một vấn đề chung về đất nước, dân
tộc có trong SGK thì giáo viên cần gắn nội dung bài học với thực tế địa phương.
- Kết thúc bài học, giáo viên có thể dựa vào những dấu vết, hiện vật tại
di sản để kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh, học sinh báo cáo kết quả
đồng thời kết hợp tổ chức một số học sinh ngoại khó thích hợp.
11
2.3. Tổ chức tham quan học tập tại nơi có di sản phải được tổ chức
chặt chẽ, theo đúng chương trình quy định, tránh việc làm tuỳ tiện không có
kế hoạch vì đây là một hoạt động nội khó. Đối với hình thức này, nội dung
chủ yếu của buổi tham quan là nhằm củng cố kiến thức đã học hoặc chuẩn bị
cho việc học bài mới. Đây là dịp để học sinh có điều kiện trực tiếp quan sát,
tìm hiểu các tài liệu, hiện vật liên quan đến bài học, cụ thể hoá kiến thức và
tạo những biểu tượng chân thực, chính xác. Do đó, trong buổi tham quan, giáo

viên cần tập trung vào những tài liệu, hiện vật có liên quan đến chương trình
đã học (hoặc sẽ học). Để đạt được kết quả tốt, giáo viên nên kết hợp với cán
bộ hướng dẫ ở nơi có di sản để việc trình bày, bổ sung kiến thức phù hợp với
yêu cầu và trình độ nhận thức của học sinh, trên cơ sở đó, gợi ý, dẫn dắt học
sinh nắm vững những vấn đề quan trọng.
2.3. Tổ chức tham quan ngoại khó, trải nghiệm di sản
Tham quan ngoại khó, trải nghiệm di sản có một vị trí quan trọng trong
dạy học ở trường phổ thông. Những dấu vết, hiện vật tại di sản không chỉ có
tác dụng cụ thể hoá kiến thức môn học, mà còn để lại một ấn tượng mạnh mẽ,
nâng cao hứng thú học tập và rèn luyện kỹ năng quan sát, tư duy của học sinh.
Tổ chức tham quan ngoại khó, trải nghiệm di sản cho học sinh là hình
thức phổ biến, có hiệu quả trong các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông.
Hình thức này có thể áp dụng cho học sinh các khối ở cả cấp Tiểu học, THCS
và THPT. Song việc tổ chức học sinh tham quan ngoại khó, trải nghiệm di sản
đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức để chuẩn bị và tiến hành về thời điểm tổ chức,
có thể tiến hành vào đầu năm học hoặc nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn trong
năm như ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam (22/12), ngày thành lập
Đảng (03/02), kỉ niệm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5)… ngày truyền
thống của quờ hương.
Để cho việc tổ chức được chu đáo, tránh các sự cố xảy ra, cần phải có kế
hoạch và phương pháp tiến hành, quy định thời gian và nhiệm vụ của học sinh.
12
Đồng thời để buổi tham quan di sản đạt kết quả tốt cần có sự phối hợp
giữa giáo viên các bộ môn liên quan với tổ chức Đoàn – Đội trong nhà trường.
Thông thường giáo viên môn học có thể lập kế hoạch cho hoạt động
tham quan ngoại khó, trải nghiệm di sản như sau:
- Xác định mục đích buổi tham quan.
- Chuẩn bị cho buổi tham quan, bao gồm:
+ Đầu năm học, giáo viên đề xuất với nhà trường kế hoạch tham quan
di sản ở địa phương hoặc trung ương.

+ Tiếp đó, giáo viên liên hệ với ban quản lý di sản, gặp gỡ trao đổi với
cán bộ hướng dẫn, phụ trách, trình bày rõ mục đích yêu cầu của buổi tham
quan để cùng có kế hoạch phối hợp, tạo điều kiện cho hoạt động đạt kết quả.
Mặc dù buổi tham quan ngoại khó không gắn với nội dung chương trình của
bài học, song vẫn có tác dụng không nhỏ, trực tiếp với việc bổ sung kiến thức
môn học của học sinh. Vì vậy, trong kế hoạch tham quan, giáo viên cần xác
định rõ những hiện vật, tài liệu nên tập trung tìm hiểu, phù hợp với mục đích
yêu cầu đề ra.
+ Để thu được kết quả cao, giáo viên cần phổ biến cho học sinh rõ mục
đích, yêu cầu của buổi tham quan. Đây là một trong các yếu tố đưa đến sự
thành công của hình thức hoạt động này. Bởi lẽ, nếu giáo viên không tổ chức
chặt chẽ thì với số lượng học sinh khá đông sẽ khó quản lý, khó hướng dẫn
các em chấp nhành nội quy của nơi có di sản. Một trong những yêu cầu quan
trọng đối với học sinh trong khi tham quan là các em cần ghi chép những số
liệu, tài liệu do người thuyết minh cung cấp, hoặc những ghi chú ở các tư liệu
được trình bày.
+ Giáo viên cần dự kiến thời gian cho buổi tham quan. Thông thường,
đối với các di sản ở gần trường chỉ nên tiến hành trong khoảng 2 giờ để phù
hợp với sức khoẻ, trình độ cũng như khả năng nhận thức của học sinh.
- Tiến trình buổi tham quan: giáo viên cần căn cứ vào đối tượng học
sinh các khối lớp mà dự kiến tiến trình buổi tham quan. Đối với học sinh nhỏ
13
tuổi, giáo viên có thể cho các em tham quan khái quát di sản. Đối với học sinh
lớn tuổi, giáo viên có thể kết hợp vừa tham quan khái quát vừa hướng dẫn các
em tìm hiểu sâu một số chứng tích, hiện vật sát với nội dung các bài học các
em đã học hay sẽ học.
- Kết thúc buổi tham quan, giáo viên có thể liên hệ với cán bộ phụ trách
di sản cho học sinh xem phim để củng cố những điều thu nhận được (nếu có).
- Sau khi tham quan, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trao đổi hoặc
viết bài thu hoạch về một số vấn đề nhằm nâng cao nhận thức của các em.

Để tổ chức cho học sinh tham quan học tập hay tham quan ngoại khó,
trải nghiệm di sản đạt kết quả cần bảo đảm các yêu cầu sư phạm sau đây:
- Xác định rõ mục đích, chủ đề buổi tham quan.
- Chuẩn bị chu đáo về địa điểm, kế hoạch tiến hành, thái độ của học
sinh, phương pháp. Nếu giáo viên làm người hướng dẫn thì phải tìm hiểu,
nắm vững những chứng tích, hiện vật, đồ trưng bày, hay di tích để chuẩn bị
nội dung trình bày. Nếu hướng dẫn tham quan là cán bộ quản lý di sản thì
giáo viên phải trao đổi trước về mục đích, yêu cầu tham quan, những điều cần
biết về học sinh. Trong cả hai trường hợp giáo viên đều giữ vai trò quan
trọng.
- Trong phương pháp tiến hành cần tránh việc làm có tính chất hình
thức, chỉ cho học sinh xem lướt qua mà không hướng dẫn các em tìm hiểu
những dấu vết, hiện vật cần thiết cho học tập.
2.4. Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động ngoại khó khác
2.4.1. Khai thác và sử dụng tài liệu về di sản để tổ chức triển lãm, ra
báo học tập
Nhân dịp các ngày lễ lớn của đất nước, hoặc ngày truyền thống của quê
hương, giáo viên bộ môn kết hợp với Đoàn thanh niên hoặc Đội thiếu niên
Tiền phong tổ chức cho học sinh (theo khối, lớp) sưu tầm tài liệu về di sản ở
địa phương để triển lãm hoặc ra báo học tập. Hoạt động này sẽ phát huy tính
tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập, nâng cao năng lực nhận thức và
14
hứng thú học tập cho các em. Ví như, để hiểu rõ công lao của Bác Hồ trong
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo viên tổ chức cho học sinh sưu
tầm, sử dụng các tài liệu, tranh ảnh chụp những hiện vật ở bảo tàng, nhà
truyền thống, nhà lưu niệm về Bác ở địa phương để làm báo tường, triển lãm
các hình ảnh về hoạt động của Người từ 1919 đến 1930…
Để khai thác và sử dụng tài liệu ở di sản vào hoạt động này ở trường phổ
thông đạt kết quả cao, nhà trường và giáo viên các bộ môn có ưu thế phải xây
dựng được một kế hoạch thật cụ thể, có mục đích rõ ràng. Giáo viên nên phân

công cho mỗi lớp (nếu là triển lãm, ra báo học tập ở lớp thì phân công tổ), khai
thác tài liệu nói về một nội dung cụ thể, sau đó sẽ trưng bày triển lãm.
Những tài liệu dùng trong triển lãm, ra báo học tập sẽ được sử dụng
vào xây dựng phòng học bộ môn để phục vụ dạy học lâu dài.
2.4.2. Tổ chức thi tìm hiểu về di sản ở địa phương
Đây là một hoạt động ngoại khó rất quan trọng, một biện pháp để thực
hiện gắn nhà trường với đời sống xã hội, giúp học sinh được quan sát trực
tiếp, “sinh động” cuộc sống xung quanh như là một nguồn kiến thức “ngoài
sách vở”.
Hoạt động ngoại khó này cũng có thể thực hiện nhân dịp kỉ niệm các
ngày kỉ niệm lớn của đất nước, ngày truyền thống địa phương kết hợp với các
phong trào thi đua của nhà trường.
Muốn thực hiện hoạt động ngoại khóa này, giáo viên các môn học liên
quan cần:
- Đề xuất với nhà trường kế hoạch tổ chức, dự kiến thời điểm phát
động, thành lập Ban giám khảo.
- Xác định mục đích, yêu cầu và nội dung cuộc thi.
- Phổ biến mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thi cho học sinh các khối lớp.
- Dự kiến thời gian thực hiện, thời điểm thu bài dự thi.
- Phân công Ban giám khảo chấm bài, lựa chọn giải thưởng, công bố
kết quả.
15
- Tổ chức phát phần thưởng cho những em đạt giải.
2.4.3. Kể chuyện, nói chuyện về di sản
* Kể chuyện: Đây là hình thức hoạt động ngoại khó hấp dẫn, dễ làm và
có tác dụng giáo dục cao.
Nội dung kể chuyện về di sản là việc phổ biến kiến thức một cách khoa
học, không phải những chuyện hư cấu. Do đó, nội dung câu chuyện kể phải
có chủ đề (về một sự kiện lịch sử, một nhân vật, một địa danh liên quan đến di
sản) và dựa vào tài liệu chính xác.

Nội dung câu chuyện phải liên quan đến các kiến thức cơ bản trong bài
học của bộ môn, chính xác, tránh những chi tiết li kì không có giá trị khoa
học, không phù hợp với yêu cầu học tập.
Kể chuyện phải làm cho người nghe xúc động, như được sống lại với
sự kiện ấy, như câu chuyện của các nhân chứng lịch sử hay người kể lại đã
“nhập thâm” với sự kiện.
Kể chuyện khác với thông báo, bao giờ cũng có chủ đề, có tình tiết.
Nội dung bài kể chuyện không chỉ có khối lượng tri thức cần cung cấp,
mà còn bao gồm cả việc phân tích, nêu lên bản chất của sự vật.
Nội dung một câu chuyện kể thông thường bao gồm các yếu tố: giới
thiệu vấn đề, tình huống đặt ra, diễn biến sự kiện, sự phát triển của tình tiết
đến cao độ, câu chuyện kết thúc.
Việc kể chuyện về di sản có thể tổ chức khi điều kiện thuận lợi, song
tốt nhất là vào dịp các ngày lễ kỉ niệm lớn, ngày truyền thống quê hương.
Giáo viên bộ môn báo cáo với Ban giám hiệu nhà trường về kế hoạch
mời người đến kể chuyện về di sản cho các em học sinh. Giáo viên có thể mời
các chiến sĩ cách mạng lão thành tiêu biểu, những “nhân chứng” đã chứng
kiến, tham gia các sự kiện tại di sản, những người thân của các nhân vật có
liên quan đến di sản,…
16
* Nói chuyện về di sản:
Nói chuyện có nội dung, yêu cầu cao hơn kể chuyện. Kể chuyện chủ
yếu là việc trình bày các sự kiện cụ thể nâng lên trình độ tư duy khái quát, còn
nói chuyện chủ yếu làm cho người nghe nhận thức một cách khái quát, được
minh họa dẫn chứng bằng các kiến thức cụ thể theo một chủ đề nào đấy.
Nói chuyện phải có chủ đề rõ ràng, chủ đề phải phù hợp với nội dung
chương trình nội khó, với nhiệm vụ chính trị trước mắt. Nói chuyện về di sản
thường được tổ chức nhân dịp những ngày kỉ niệm một sự kiện quan trọng,
một danh nhân, một lãnh tụ cách mạng có liên quan đến di sản.
Người nói chuyện phải là người am hiểu sâu sắc về di sản. Do đó,

người nói chuyện thường là giáo viên, cán bộ nghiên cứu, cán bộ giảng dạy
trường đại học, cán bộ làm công tác văn hoá, tuyên huấn…
Để thực hiện hoạt động ngoại khóa này, giáo viên bộ môn cần:
- Báo cáo kế hoạch mời người nói chuyện về di sản với Ban giám hiệu
nhà trường.
- Xác định mục đích, yêu cầu, nội dung hoạt động.
- Dự kiến người sẽ mời nói chuyện (nếu giáo viên nói chuyện thì phải
tìm hiểu kĩ về di sản và chuẩn bị nội dung, nếu mời cán bộ nghiên cứu, hay
giảng viên trường đại học thì giáo viên phải nói rõ mục đích, yêu cầu của nội
dung hoạt động).
- Dự kiến về thời gian thực hiện. Cách thời điểm tiến hành một tuần cần
phổ biến mục đích, yêu cầu cho học sinh biết rõ.
3. Một số phương pháp dạy học với di sản
3.1. Việc sử dụng di sản trong dạy học một số bộ môn (lịch sử, địa lý,
âm nhạc,…) ở trường phổ thông
Trước hết phải thông qua các phương pháp truyền thống phù hợp với
từng môn học như:
- Trình bày miệng:
17
Trong dạy học nói chung, trình bày miệng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì
lời nói giữ vai trò chủ đạo đối với việc giảng dạy của giáo viên và học tập của
học sinh. Việc trình bày miệng không chỉ giúp học sinh khôi phục hình ảnh về
nội dung bài học đang nghiên cứu mà còn giúp các em nhận thức sâu sắc kiến
thức trình bày những suy nghĩ, hiểu biết trong nghiên cứu, tìm tòi.
Có nhiều cách trình bày miệng như tường thuật, miêu tả, kể chuyện,
giải thích,… giáo viên cần phải căn cứ vào đặc trưng môn học để sử dụng cho
phù hợp. Song khi sử dụng các cách của trình bày miệng đều phải đảm bảo
yêu cầu phát huy tính tích cực của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng trực quan:
Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học,

nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ
sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh hoạ sự vật.
Dạy học một số bộ môn với di sản có thể sử dụng các loại đồ dùng trực
quan như:
+ Đồ dùng trực quan hiện vật, bao gồm những di tích văn hoá, di tích lịch
sử và cách mạng, những di vật khảo cổ hoặc di vật thuộc các thời đại lịch sử.
Đồ dùng trực quan hiện vật là một loại tài liệu gốc rất có giá trị, có ý
nghĩa to lớn về nhận thức, giáo dục và phát triển học sinh. Song loại đồ dùng
trực quan này không có sẵn trong trường phổ thông mà được gìn giữ trong
nhà bảo tàng, hoặc ở nơi có di tích và không còn được nguyên vẹn. Vì vậy,
khi sử dụng các hiện vật trong dạy học cần phát huy trí tưởng tượng tái tạo, tư
duy lịch sử để học sinh hình dung đúng đời sống hiện thực của quá khứ.
Trong điều kiện thuận lợi, giáo viên nên tổ chức giảng dạy trong các viện bảo
tàng ở trung ương, địa phương hay ở ngay các địa điểm có di tích, tức là tiến
hành bài học tại nơi có di sản (như đã trình bày ở trên).
- Đồ dùng trực quan tạo hình, bao gồm mô hình, sa bàn và các loại đồ
phục chế khác, hình vẽ, phim ảnh, ảnh. Loại đồ dùng trực quan này, giáo viên
có thể khai thác, sưu tầm, chụp ảnh từ các di sản đem về trường phổ thông để
18
giảng dạy. Đó là hình thức sử dụng tài liệu, tranh ảnh… về di sản để tiến hành
bài học ở trên lớp.
- Loại đồ dùng trực quan quy ước, bao gồm các loại bản đồ, đồ thị, sơ
đồ, bảng biểu,… Loại đồ dùng trực quan này, giáo viên cũng có thể khai thác,
sưu tầm viết về di sản để xây dựng phục vụ các bài học tiến hành ở trên lớp
hay bài học tại di sản (thực địa).
Khi sử dụng các loại đồ dùng trực quan trên, giáo viên phải căn cứ vào
đặc trưng môn học, đối tượng học sinh để có phương pháp sử dụng phù hợp.
Song dự vận dụng vào bất kỳ môn học nào thì đều phải phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh.
- Sử dụng trao đổi, đàm thoại. Đây là việc mà giáo viên nêu ra các câu

hỏi để học sinh trả lời, đồng thời các em có thể trao đổi với nhau, dưới sự chỉ
đạo của thầy, qua đó đạt được mục đích học tập đề ra. Tuỳ theo môn học, có
thể vận dụng các dạng trao đổi như trao đổi tài liệu, trao đổi phân tích và khái
quát hóa, trao đổi tìm tòi phát hiện, trao đổi ôn tập, tổng kết, trao đổi kiểm tra,
… Trong trao đổi đàm thoại giáo viên đặt câu hỏi và tổ chức cho học sinh trả
lời hoặc trao đổi với nhau để tìm ra ý kiến đúng, thậm chí trong quá trình trao
đổi học sinh có thể tự đặt câu hỏi và trả lời. Song vấn đề quan trọng khi vận
dụng phương pháp này là chất lượng của câu hỏi. Câu hỏi đưa ra cho học sinh
trao đổi phải bảo đảm các yêu cầu sư phạm mà lý luân dạy học bộ môn quy
định.
Khi sử dụng di sản trong dạy học một số môn học ở trường phổ thông
cần thiết phải sử dụng trao đổi, đàm thoại kết hợp với các phương pháp đã
nêu ở trên.
3.2. Sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại
Trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung, cần kế thừa, phát triển
mặt tích cực của hệ thống phương pháp dạy học quen thuộc, đồng thời phải
học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới và phương tiện dạy học
hiện đại phù hợp với điều kiện của đất nước, nhà trường Việt Nam.
19
- Học theo hợp đồng: “ Là một hoạt động học tập trong đó mỗi học sinh
được giao một hợp đồng trọn gói bao gồm các dịch vụ (bài tập) bắt buộc và tự
chọn khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Học sinh chủ động và
độc lập quyết định về thời gian cho mỗi nhiệm vụ (bài tập) và thứ tự thực hiện
các nhiệm vụ (bài tập) đó theo khả năng của mình.
Trong học theo hợp đồng, giáo viên là người thiết kế, xây dựng các
nhiệm vụ trong hợp đồng, tổ chức, hướng dẫn học sinh nghiên cứu hợp đồng,
kí kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng theo năng lực, trình độ và nhịp độ học
tập của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
Hợp đồng học tập có thể hiểu là một nhiệm vụ thống nhất và khả thi
giữa hai bên giáo viên và cá nhân học sinh, theo đó cam kết của học sinh sẽ

hoàn thành nhiệm vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Hợp đồng học tập
còn được gọi với cái tên khác như: kế hoạch học tập, thỏa thuận thực hiện,
cam kết học tập.”
Quy trình thực hiện theo hợp đồng bao gồm:
+ Chọn nội dung và thời gian phù hợp. Đối với công việc này, giáo
viên cần xác định nội dung nào của môn học có thể tổ chức dạy học theo
phương pháp này. Đối với bộ môn lịch sử, phương pháp này phù hợp với các
bài ôn tập, tổng kết hoặc bài nghiên cứu kiến thức mới. Nhiệm vụ bắt buộc
được xây dựng theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học. Nhiệm vụ tự chọn
là những nhiệm vụ mang tính chất củng cố, mở rộng, năng cao hoặc liên hệ
thực tế.
Thời gian học theo hợp đồng tùy thuộc vào nội dung bài học. Học sinh
có thể thực hiện nhiệm vụ bắt buộc ở trên lớp, còn nhiệm vụ tự chọn có thể
thực hiện ngoài giờ học hoặc ở nhà.
+ Thiết kế kế hoạch bài học để tổ chức cho học sinh học theo hợp đồng,
trong đó có hai yếu tố cần xác định là mục tiêu bài học và phương pháp dạy
học chủ yếu. Khi thiết kế kế hoạch bài học cần có sự chuẩn bị của cả giáo
viên và học sinh. Việc xây dựng hợp đồng học tập của giáo viên bao gồm: văn
20
bản hợp đồng; thiết kế các nhiệm vụ hoạt động như phương tiện, tài liệu (tư
liệu nguồn, bản hướng dẫn theo mức độ hỗ trợ, bản hướng dẫn thực hiện các
nhiệm vụ, đáp án…).
Phương pháp dạy học chủ yếu là thực hiện học theo hợp đồng, song cần
phải sử dụng phối hợp với các phương pháp, kĩ thuật khác.
+ Học theo hợp đồng bao gồm các công việc: Tổ chức kí và thực hiện
hợp đồng, tổ chức trau dồi, chia sẻ giữa cá nhân hoặc giữa các nhóm với nhau
vừ những nhiệm vụ đã thực hiện trong bản hợp đồng (công việc này cần thực
hiện một cách linh hoạt); kế thúc hợp đồng. Bước kết thúc hợp đồng có thể
thực hiện ngay trong tiết học nếu là hợp đồng ngắn hạn, hoặc có thể đến hết
tiết sau nếu là hợp đồng dài hạn. Kết thúc hợp đồng học sinh tự đánh giá lẫn

nhau, giáo viên nhận xét, đánh giá việc thực hiện hợp đồng của học sinh.
Thực hiện học theo hợp đồng cho phép nhân hóa nhịp độ và trình độ
của học sinh. Đồng thời vận dụng phương pháp này sẽ tăng cường tính độc
lập của học sinh, tăng cường học tập hợp tác… Mặt khác giáo viên có cơ hội
hướng dẫn cá nhân học sinh, tạo điều kiện chỉ học sinh được nhận và thực
hiện trách nhiệm học tập của mình. Song muốn sử dụng phương pháp học tập
theo hợp đồng, giáo viên phải lựa chọn nội dung phù hợp, luyện tập dần để
học sinh làm quen với phương pháp mới và cần phải đầu tư thời gian khi thiết
kế hợp đồng.
- Dạy học dự án là một hình thức (phương pháp nghĩa rộng) dạy học,
trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp
giữa lí thuyết và thực hành, thực tiễn. Nhiệm vụ này được người học thực
hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ qua trình học tập, từ xác định mục đích,
lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, thu thập thông tin, phân tích dữ liệu,
kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả…làm việc nhóm là dạng tổ
chức hoạt động chủ yếu của dạy học dự án.
Dạy học dự án có các đặc điểm: định hướng thực tiễn, định hướng học
sinh (hối thúc hành động), định hướng sản phẩm.
21
Có thể tổ chức dạy học dự án theo trình tự sau:
+ Lựa chọn đề tài và xác định mục đích của dự án. Đây là công đoạn
đầu tiên rất quan trọng. Trong giai đoạn này, giáo viên và học sinh cùng nhau
đề cuất, xác định đề tài và mục đích của dự án.
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, trong đó cần xác định những công
việc cần làn, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và
phân công công việc trong nhóm.
+ Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện kế hoạch đề ra, trong đó
học sinh cần kết hợp các hoạt động trí tuệ với hoạt động thực tiễn, thực hành
như thu nhập thông tin qua báo chí, Internet, thư viện, thực nghiệm, quan sát;

xử lí thông tin, thảo luận trong nhóm, trao đổi, xin ý kiến giáo viên.
+ Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Học sinh cần tập hợp tất cả
các kết quả thành một sản phẩm cuối cùng. Kết quả dự án có thể trình bày
bằng nhiều hình thức khác nhau như báo cáo, thu hoạch, đóng kịch…
+ Đánh giá dự ỏn
Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả đạt được,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.
Dạy học theo dự án góp phần gắn lí thuyết với thực tiễn, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội, kích thích động cơ và hứng thú của người học.
Đồng thời dạy học theo dự án còn góp phần phát huy tính tích cực, tính trách
nhiệm sáng tạo, bền bỉ kiên nhầm trong công việc của học sinh. Song để vận
dụng dạy học theo dự án trong trường môn lịch sử giáo viên cần lựa chọn nội
dung phù hợp và hướng dẫn học sinh chuẩn bị chu đáo.
22

×