Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bài tiểu luận vấn đề mâu thuẫn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.68 KB, 16 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
  
Tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái
ngược nhau. Chúng vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh lẫn nhau, tác động
qua lại để giúp các sự vật hiện tượng vận động và phát triển.
Với lịch sử lâu đời gắn liền với cây lúa nước thì nông nghiệp là một
ngành kinh tế quan trọng hàng đầu của nước ta từ xưa đến nay. là một trong
những nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, trong thời đại phát triển
và hội nhập với nền kinh tế thế giới đòi hỏi nước ta phải đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp. Mà đường lối phát triển nông nghiệp hiệu quả nhất là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp.
Quá trình phát triển theo đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông
nghiệp có những mặt tích cực và những mặt hạn chế (mâu thuẫn).
Chính vì tầm quan trọng của nó nên tôi chọn đề tài “Vấn đề mâu thuẫn
trong công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay” để trình
bày những quan điểm, hiểu biết của mình.
Bài tiểu luận được bổ sung thông tin từ một số tài liệu như các trang
web: Trang web tìm kiếm: google.com.vn; trang: DakLak.com.vn; trang web
của trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp và nông thôn: agro.gov.vn…
Và đặc biệt là được sự hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên bộ môn triết học:
Thạc sĩ Nguyễn Thị Hải Yến.
Bài tiểu luận “Vấn đề mâu thuẫn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp ở nước ta hiện nay” chắc chắn sẽ còn một số điểm hạn chế và
thiếu sót. Rất mong được sự thông cảm, nhận xét và bổ sung của giáo viên.
Xin chân thành cảm ơn!.
Sinh viên
Nguyễn Thị Lan
1
I. NHẬN THỨC MỚI VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG
DÂN TỪ NHỮNG CHUYỂN BIẾN VÀI THẬP KỶ VỪA QUA TRÊN
THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM


1. Ở Việt Nam:
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn
giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã
hội, nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu (khi ngoại
thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh
lương thực, dân số, môi trường sinh thái, … nông nghiệp được dự báo là vẫn
tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã
có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp
truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông
thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc
biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu
thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức, … nhận thức về
nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có sự thay đổi. Ở Việt Nam chúng ta,
một nước còn nặng về nông nghiệp, những thành tựu của 20 năm đổi mới vừa
qua, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, … đã góp phần làm thay đổi nhận thức về nông nghiệp, nông thôn
và nông dân.
2. Trên thế giới:
Nhìn lại quá trình hiện đại hoá nông nghiệp thế giới trong thế kỷ XX,
có thể thấy nổi lên ba đặc điểm cơ bản: (1) hiện đại hoá công cụ sản xuất
nông nghiệp, có nghĩa là sử dụng một cách rộng rãi thiết bị cơ giới để thay thế
sức nước, gia súc và công cụ sản xuất truyền thống; (2) hiện đại hoá kỹ thuật
sản xuất, có nghĩa là ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông
nghiệp; và (3) hiện đại hoá phương thức sản xuất, có nghĩa là chuyển nông
nghiệp từ sản xuất cá thể tự cung tự cấp sang sản xuất xã hội quy mô lớn, có
tính chuyên nghiệp hoá cao. Những đặc điểm này đã chi phối nhận thức của
con người về phát triển nông nghiệp trong phần lớn thời gian của thế kỷ XX.
2

Tuy nhiên, kể từ cuối những năm 1980, cùng với sự hình thành và tiến triển
nhanh chóng của nhiều xu thế mới trên thế giới, nhận thức của con người về
nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những thay đổi.
Hội nghị nông nghiệp và môi trường của tổ chức nông lương thế giới
(FAO) đã đưa ra khái niệm “phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững”.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là một quá trình đa
chiều, bao gồm: (1) tính bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất
đến người tiêu thụ, liên quan trực tiếp đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị
trường); (2) tính bền vững trong sử dụng tài nguyên đất và nước về không
gian và thời gian; và (3) khả năng tương tác thương mại trong tiến trình phát
triển nông nghiệp và nông thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an ninh lương thực
trong vùng và giữa các vùng. Quan niệm về phát triển nông nghiệp. Các cách
thực hành này phải đảm bảo tính chất bền vững, có ý nghĩa là phải đáp ứng
đồng thời ba mục tiêu: (1) bền vững về sinh thái; (2) lợi ích về kinh tế; và (3)
lợi ích xã hội đối với nông dân và cộng đồng.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững được đặt ở vị trí trọng
tâm trong chiến lược công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
của các quốc gia đang phát triển, giúp các quốc gia sớm đạt được các mục
tiêu phát triển. Cụ thể là xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.
II. CÔNG NGHIỆP HOÁ ,HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP,NÔNG
THÔN.THÀNH TỤư VÀ NHỮNG TỒN TẠI
Ở Việt Nam, đại bộ phận dân cư tập trung sinh sống ở các nông thôn.
Tính đến ngày 01/07/2002 dân số cả nước là 79,93 triệu người. Trong đó: dân
số ở nông thôn là 60,05 triệu người chiếm 75,13% dân số cả nước.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu ôn hoà, sông ngòi chằng chịt
và nhiều phù sa … rất thuận lợi để phát triển ngành sản xuất nông nghiệp,
giúp Việt Nam trở thành một trong ba nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu
lương thực.
Để duy trì và phát triển vị trí của mình trong nền kinh tế chung của thế
giới, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng phát triển. công nghiệp hoá- hiện đại

hoá nông nghiệp là một giải pháp tối ưu và đã phát huy hiệu quả. Thể hiện ở
những thành tựu đạt đạt được trong sản xuất nông nghiệp.
3
1. Thành tựu:
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích
cực theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hoá có nhu cầu thị
trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc
gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha), để chuyển sang
nuôi trồng thuỷ sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng
lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm
2004), trong đó: sản lượng lúa tăng từ 32,5 lên 35,8 triệu tấn, bình quân mỗi
năm lương thực tăng hơn một triệu tấn, vượt mục tiêu do Đại hội lần thức IX
của Đảng đề ra trước ba năm. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3.5- 4 triệu
tấn gạo.
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh theo nhu
cầu thị trường để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số
vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến.
Diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao su
diện tích tăng 9.5%, sản lượng tăng 37.6%; hồ tiêu diện tích tăng 83.2%, sản
lượng tăng 87.8%; điều diện tích tăng 44.3%, sản lượng tăng 205.3%; chè
diện tích tăng 35.3%, sản lượng tăng 54.9%; diện tích cây ăn quả tăng 1.4 lần;
bông vải diện tích tăng 42.5% sản lượng tăng 57.4%; đậu tương diện tích tăng
47.1% sản lượng tăng 62.2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu
hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi phát triển với tốc độ khá cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng về
trứng, thịt trong nước đang tăng nhanh, giá trị chăn nuôi tăng bình quân
10%/năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ 19.3% lên 21.6%.
Rừng tự nhiên được bảo vệ và khôi phục tốt hơn, trồng rừng kinh tế
bước đầu có chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả, độ che phủ của
rừng tăng từ 35% lên 36.7%.

Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và ngành nghề nông thôn có
bước phát triển tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp
và ngành nghề nông thôn có bước phát triển nhanh 15%/năm. Hiện cả nước
có 2.971 làng nghề, khoảng 1.35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với
4
khoảng 1.4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có khoảng 1.5
triệu người làm hàng mỹ nghệ).
Giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản tăng trưởng liên tục và đạt mức
cao(5.4% năm)tổng kim nghạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản năm 2004 đạt
gần 7 tỷ USD. Tăng 1.5 lần so với năm 2000, trong đó nông, lâm sản tăng
gần 1.5 lần, thuỷ sản tăng 1.6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản
lượng và giá trị lớn như: Gạo, cà phê, cao su, hạt điều. Đặc biệt xuất khẩu đồ
gỗ gia dụng và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1.2 tỷ USD, tăng gấp 3.3 lần so
với năm 2000. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản từng
bước được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học,
phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm.
Chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi bước đầu đã đạt kết quả quan
trọng vào việc nâng cao năng suất chất lượng nông sản, thuỷ sản. Đến nay có
hơn 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích
điều trồng mới… được sử dụng giống mới. Nhiều khâu trong sản xuất nông
nghiệp được cơ giới hoá như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận
chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thuỷ sản, tổng công suất tàu thuyền
đánh bắt đạt hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thuỷ sản được trang
bị các máy móc, thiết bị bảo đảm cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
Quan hệ sản xuất được xây dựng ngày càng phù hợp. 5 năm qua đã
xuất hiện ngày càng nhiều hộ sản xuất hàng hoá quy mô lớn và bước đầu khắc
phục được một số yếu kém của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. Cả nước

hiện có 72 nghìn trang trại, tăng bình quân 10%/năm.
Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp đổi mới, thực hiện cổ
phần hoá và sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn. Các nông, lâm trường
quốc doanh đang được sắp xếp lại theo tinh thần nghị quyết số 28/NQ-T. Ư
ngày 16/06/2003 cuả Bộ chính trị. Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm
2004 có 15 nghìn doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trên địa bàn nông
thôn. Bình quân 1 doanh nghiệp thu hút khoảng 20 lao động, đang là nhân tố
quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
5
Nông thôn có bước phát triển khá nhanh, cơ sở hạ tầng tiếp tục được
đầu tư, đời sống nhân dân được cải thiện, xoá đói giảm nghèo đã đạt thành
tựu nổi bật. Giáo dục, y tế, văn hoá có chuyển biến tích cực. Thành tựu nổi
bật là công tác xoá đói giảm nghèo, bình quân mỗi năm giảm 3% tỷ lệ hộ đói
nghèo. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn giảm từ 19% năm 2000 xuống còn
11% năm 2004. Điều kiện về nhà ở, đi lại, học tập, chữa bệnh được cải thiện
tốt hơn. Nhiều làng xã đã trở thành làng văn hoá, có kinh tế phát triển, bảo
đảm môi trường sinh thái, văn hoá truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc
được phục hồi và phát triển, trình độ dân trí được nâng lên.
2. Những vấn đề tồn tại:
Bên cạnh những thành tựu đạt được rất quan trọng nêu trên, chúng ta
cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng trước những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế, nhất là việc tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước, nông nghiệp, nông thôn nước
ta đang còn một số tồn tại, khó khăn và nhiều vấn đề đang đặt ra rất bức xúc
cần tập trung sức giải quyết đó là:
a. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi
chuyển dịch chậm, chăn nuôi, công nghiệp, nông nghiệp, ngành nghề dịch vụ
nông thôn phát triển còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế
nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp (chiếm 65%) trong nông nghiệp nặng về
trồng trọt (chiếm 78%) cây lúa vẫn đóng vai trò chủ yếu trong cơ cấu cây

trồng; tỷ trọng giá trị chăn nuôi chỉ chiếm 23%, giá trị thu được trên 1ha đất
nông nghiệp còn thấp so với tiềm năng và so với nhiều nước trong khu vực.
Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn mang tính tự
phát, thiếu quy hoạch nên kém hiệu quả và chưa bền vững. Chất lượng quy
hoạch nhiều nơi còn thấp, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu thị trường
và tiến bộ khoa học, công nghệ. Quản lý thực hiện quy hoạch còn nhiều bất
cập, cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch, cơ bản vẫn là thuần nông. Mục
tiêu giảm lao động nông nghiệp xuống còn 50% vào năm 2010 vẫn là thách
thức lớn.
b. Năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản
phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản
6
xuất nông nghiệp còn chậm.trong một số cây trồng vật nuôi chưa có đột phá
công nghệ để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Năng suất, chất lượng
một số nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh kém như:chè,mía, đường,rau
quả,sản phẩm chăn nuôi. hệ thống nghiên cúư khoa học nông nghiệp chậm
đựơc sắp xếp lại; chưa có cơ chế gắn kết nghiên cứu khoa học với chuyển
giao, ứng dụng vào sản xuất, gắn kết giữa nhà khoa học với doanh nghiệp và
nông dân.chậm hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản và vật tư
nông nghiệp. tình trạng dư lượng hoá chất,thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng
sinh trong nông sản, thuỷ sản đang là vấn đề lớn phải có biện pjháp khẩn
trương khắc phục.cơ sở công nghiệp chế biến còn nhỏ bé về quy mô, lạc hậu
về công nghệ (52.8% số doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu), đơn điệu về sản
phẩm, chủ yếu là sơ chế, giá trị gia tăng thấp và chưa gắn kết chặt chẽ với
vùng nguyên liệu.
c. Việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh
tế còn chậm. Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Việc sắp
xếp đổi mới các nông, lâm trường quốc doanh còn chậm. Kinh tế tập thể, mà
chủ yếu là các hợp tác xã chưa có chuyển biến rõ nét, chưa thoát khỏi tình
trạng yếu kém. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng trong việc phát

triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, nhưng quy
mô nhỏ bé, chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên quan đến sản xuất)và chỉ phát
triển mạnh ở các ven đô thị,hoặc nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
d. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn vẫn chưa đáp ứng yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu và kinh tế nông thôn, nhiều nơi còn nhiều yếu kém. Hệ
thống thuỷ lợi một số nơi còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu sản xuất và dân sinh, nhất là trong điều kiện hạn hán,lũ lụt
gay gắt. Nhiều công trình đầu tư không đồng bộ, quản lí kém nên xuống cấp,
mới phát huy được 70% công suất thiết kế. Chất lượng đường giao thông
nông thôn còn thấp, thiếu đường tới thôn bản, nhất là vùng núi.việc giải quyết
điện cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nhiều vùng còn khó
khăn; giá bán điện ở nông thôn còn cao. Vấn đề cấp nước sạch vẩn chậm
được giải quyết, nhất là đối với miền núi và dồng bằng sông cửu long.hệ
thống chợ đã được cải thiện đáng kể, nhưng phân bố không đều; vệ sinh an
toàn thực phẩm chưa đảm bảo, văn minh thương mại còn xa lạ đối với hầu hết
7
các chợ nông thôn.hiện nay còn 293 xã của 18 tỉnh chưa có điện thoại đến
trung tâm, hầu hết là những xã đặc biệt khó khăn.
e. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn ở nhiều vùng
còn khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động dư thừa nhiều. Thu
nhập bình quân của cư dân nông thôn tăng chậm, hơn 90% hộ nghèo của cả
nước tập trung ở khu vực nông thôn.chất lượng ăn, ở, khám chữa bệnh của
nông dân vùng sâu, vùng xa vẫn còn thấp, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao,số
nhà tạm cần được cải thiện còn nhiều, tỷ lệ học sinh các bậc học cao còn thấp.
Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo mới chiếm khoảng 12% (bằng 1/2 của
cả nước) số lao động được đào tạo ít trở về nông thôn.
Việc phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị, nhưng chưa kết
hợp chặt với việc giải quyết việc làm, đào tạo và chuyển đổi nghề cho người
dân có đất bị thu hồi cho mục đích này, đã làm tăng thêm tình trạng bức xúc
về việc làm,thu nhập và đời sống ở nhiều vùng nông thôn. Chênh lệch mức

sống giũa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Nếu áp dụng chuẩn
nghèo mới dự kiến tỷ lệ nghèo cả nước là 26 dến 27%, riêng ở nông thôn lên
đến 31%, miền núi hơn 50%, có nơi lên hơn 60% (vùng tây bắc).
Đời sống văn hoá chậm được cải thiện, tệ nạn xã hội và tình trạng ô
nhiễm môi trường ở nhiều vùng nông thôn có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt
là tội phạm lừa gạt, buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và tệ nạn ma tuý ngày càng
diễn biến phức tạp. Do đời sống khó khăn và kém hiểu biết, việc lấy chồng
nước ngoài của một bộ phận không nhỏ chị em phụ nữ ở Nam Bộ đang nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội rất phức tạp.
III. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH
CNH - HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM
Nông thôn Việt Nam hiện đang đối mặt với hàng loạt các vấn đề như
quy mô sản xuất manh mún. Công nghệ lạc hậu. Năng suất, chất lượng sản
phẩm thấp. Khả năng hợp tác, liên kết, cạnh tranh yếu, cơ cấu chậm. Tình
trạng thiếu việc làm, thừa lao động là phổ biến. Chênh lệch về thu nhập và về
điều kiện sống giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Tình trạng ô
nhiễm môi trường sản xuất và sinh hoạt ngày càng trở nên nặng nề. Các hoạt
động sang nhượng sử dụng và bồi hoàn đất đai vẫn chưa diễn ra theo đúng
8
quy luật, còn gặp nhiều cản trở. Khó khăn, vướng mắc chính ở trên là những
thách thức xuất hiện trong giai đoạn mới của quá trình phát triển kinh tế của
quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và toàn cầu hoá. Có tháo gỡ được các
khó khăn trên mới có thể khắc phục tình trạng tăng trưởng nông nghiệp có xu
hướng giảm sút trong thời gian gần đây, từng bước tháo gỡ những mâu thuẫn
về vấn đề môi trường đang nảy sinh trong nông thôn để đảm bảo cho quá
trình phát triển tương lai vững bền và ổn định.
1. Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững:
Theo xu hướng chung trên toàn thế giới, các chủ trương và biện pháp
nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững ở Việt Nam cần phải
đồng thời hướng đền ba mục tiêu chính: (1) bền vững về sinh thái; (2) lợi ích

về kinh tế và (3) lợi ích xã hội đối với nông dân và cộng đồng. Hay nói cách
khác, các chủ trương và biện pháp phải gắn kết được phát triển kinh tế -xã hội
với củng cố và bảo vệ môi trường. Muốn vậy phải có sự điều chỉnh chính
sách cần thiết, nhất là đối với những chính sách sau đây:
a) Chính sách đất đai hướng tới mục tiêu sử dụng đất bền vứng :
Đất đai và xử lý đất đai là đối với mọi nước trên thế giới đều là vấn đề
lớn và vô cùng quan trọng, nhưng rất khó khăn và phức tạp, đối với mọi loại
đất, trong đó đất nông nghiệp và đất ở nông thôn lại càng quan trọng và phức
tạp. Ở Việt Nam, vấn đề căn bản nhất trong chính sách phát triển nông
nghiẹp, nông thôn là sở hữu và quy hoạch đất nông nghiệp, nông thôn vẫn
chưa được giải quyết thoả đáng. Công tác hoạch định phát triển nông thôn cần
dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học liên ngành, đặc biệt cần được thảo luận
rộng rãi để tiếp thu đưcợ nhiều ý kiến khác nhau.
Đổi mới công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, tăng thêm thời
hạn sử dụng đất để người dân yên tâm đầu tư cải tạo đất sản xuất lâu dài, mở
rộng các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng đất.
b) Chính sách khoa học công nghệ:
Nghiên cứu về các mô hình canh tác bền vứng áp dụng với các cùng
sinh thái khác nhau trong cả nước.
9
Nghiên cứu hoàn thiện quy trình phòng trừ dịch hại, đẩy mạnh khuyến
nông tăng cường nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ
trong lĩnh vực giống cây trồng, vật nuôi, tăng cường các nghiên cứu về đa
dạng sinh học.
c) Các chính sách khác hướng đến phát triển nông thôn bền vững:
- Tạo phương kế sinh sống bền vững cho người dân nông thôn: bên
cạnh phát triển nông nghiệp, cần phát triển mạnh các ngành, nghề và doanh
nghiệp phi nông nghiệp ở nông thôn nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập, giảm áp lực di dân từ nông thôn ra thành thị; chủ động quy hoạch và
xây dựng các khu, các cụm công nghiệp làng nghề, tiểu thủ công nghiệp ở

nông thôn để phát triển kinh tế, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Đẩy mạnh thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa, miền núi và vùng các dân tộc thiểu số: tăng cường đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng; trao quyền và mở rộng sự tham gia của người dân nông
thôn vào quá trình phát triển; thực hiện sự bình đẳng về giới,…
2. Phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế trong nông nghiệp và
kinh tế nông thôn.
a) Phát triển các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau trên cơ sở bình đẳng.
Kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta bao gồm các hình thức tổ
chức sản xuất - kinh doanh chủ yếu sau đây: (1) DNNN; (2) nông- lâm trường
quốc doanh; (3) HTX; (4) doanh nghiệp dân doanh; (5) doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài; (6) trang trại; và (7) hộ cá thể. Trong giai đoạn 2006-2010,
các chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của những chủ thể này
cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:
- Đảm bảo sự bình đẳng cho tất cả các chủ thể trong hoạt động, đặc biệt
là trong việc tiếp cận với các yếu tố đầu vào như đất đai, vốn, lao động, khoa
học và công nghệ … và thị trường đầu ra. Cải cách pháp lý liên quan đến tổ
chức và hoạt động của các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh cần hướng
tới một mặt bằng chung, thống nhất. Trong vòng 5 năm tới, cần nghiên cứu,
tổng kết việc thực hiện các đạo luật và các văn bản pháp lý điều chỉnh việc tổ
chức và hoạt động của các loại hình chủ thể nêu trên, trên cơ sở đó ban hành
10
một đạo luật thống nhất điều chỉnh chung tất cả các loại hình tổ chức. Nhờ
vậy sẽ đảm bảo sự bình đẳng về môi trường pháp lý, trên cơ sở đó đảm bảo sự
bình đẳng về chính sách và quản lý Nhà nước.
b) Phát triển các loại thị trường ở nông thôn:
Đồng thời với việc thực hiện các biện pháp phát triển đồng bộ các loại
thị trường trên phạm vi cả nước nói chung, cần có các biện pháp cụ thể để
thúc đẩy sự phát triển của các loại thị trường ở nông thôn, bao gồm thị trường

hàng hoá và dịch vụ thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường lao
động, thị trường khoa học và công nghệ.
- Phát huy vai trò tích cực của chính quyền địa phương trong việc phát
triển các loại thị trường ở nông thôn. Chính quyền địa phương các cấp không
chỉ tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện các chủ trương, chính sách chung
của Nhà nước, mà còn cần chủ động thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho sự
phát triển của các loại thị trường trong khuôn khổ luật pháp và thẩm quyền
của mình. Vấn đề đặt ra là chính quyền các cấp và giữa các địa phương cần có
sự phối hợp tốt với nhau để đảm bảo hiệu quả và hiệu lực cao của các biện
pháp, chính sách.
c) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong nông nghiệp:
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO, phải có những điều
chỉnh và bổ sung về chính sách và biện pháp để nền nông nghiệp hội nhập đạt
hiệu quả cao. Giải pháp tổng thể là phải phát triển một nền nông nghiệp hàng
hoá quy mô lớn có năng suất và hiệu quả cao, đảm bảo sức cạnh tranh cao của
hàng nông sản, chiếm lĩnh thị trường thế giới.
- Về giá cả, cần thực hiện chính sách giá nông sản linh hoạt. Đối với
những mặt hàng xuất khẩu lớn, cần xây dựng chính sách giá xuất khẩu tạo
khả năng cạnh tranh chung cho toàn ngành sản phẩm (giá liên kết giữa các
nhà xuất khẩu).
- Thực hiện các biện pháp nhằm mở rộng và đa dạng hoá thị trường
xuất khẩu nông sản; tăng cường hệ thống thông tin thị trường về giá cả, sản
lượng, tình hình cung- cầu về các mặt hàng nông sản trên thế giới cho người
sản xuất; các bộ chuyên ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
11
Bộ thương mại cần có những nghiên cứu dự báo thị trường, đưa ra các khuyến
nghị hỗ trợ người sản xuất trong việc ra các quyết định sản xuất, kinh doanh;
thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại với vai trò hỗ trợ thiết yếu của
Chính phủ thông qua các bộ chức năng …

3. Phát triển các ngành, nghề phi nông nghiệp trong kinh tế nông thôn.
Trong kinh tế nông thôn, cùng với phát triển nông nghiệp, thì phát triển
các ngành, nghề phi nông nghiệp là nội dung then chốt để đạt được các mục
tiêu CNH, HĐH. Ở nước ta, xu thế hướng tới một cơ cấu kinh tế nông thôn có
hiệu quả là tăng nhanh tỷ trọng các ngành, nghề phi nông nghiệp, đồng thời
tạo ra sự liên kết hữu hiệu giữa nông nghiệp và phần phi nông nghiệp. Những
chủ trương, biện pháp nêu ở các phần trên đây cũng góp phần thúc đẩy phát
triển các ngành, nghề phi nông nghiệp. Bởi vì, việc phát triển các loại hình tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng và phát triển các loại thị trường ở nông
thôn sẽ chi phối cơ cấu ngành, nghề của kinh tế nông thôn, trong đó các
ngành, nghề phi nông nghiệp là mục tiêu hướng tới của nhiều chủ thể sản
xuất, kinh doanh.
4. Xây dựng đời sống văn hoá- xã hội mới, hiện đại, đậm đà bản sắc dân
tộc ở nông thôn.
Trong bối cảnh các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước đang hướng mạnh đến sự phát triển bền vững, việc xây dựng đời
sống văn hoá- xã hội mới, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc ở nông thôn được
coi như một yêu cầu tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn. Để thực hiện được yêu cầu này cần chú ý đến những giải
pháp quan trọng sau đây:
- Thực hiện lồng ghép kết hợp các vấn đề văn hoá, xã hội, môi trường
vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế- xã hội
và các chương trình, dự án đầu tư liên quan đến nông nghiệp, nông thôn.
- Hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách về xây dựng đời
sống văn hoá- xã hội, phát triển con người ở nông thôn. Khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư thành lập các cơ sở y tế, đào tạo ngoài công lập,
đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, đầu tư vào các hoạt động
kinh doanh điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Đồng thời nhà nước cũng cần có
12
những chính sách khuyến khích đặc biệt cho đầu tư vào những lĩnh vực này ở

các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn.
- Một vấn đề đáng quan tâm nữa là các cơ quan chức năng cần xây
dựng phương pháp đánh giá chất lượng các hoạt động văn hoá- xã hội. Tăng
cường điều tra xã hội học để kịp thời nắm bắt đúng nhu cầu, nguyện vọng và
những đánh giá của nhân dân về các vấn đề xã hội, trên cơ sở đó hoạch định
các chính sách phù hợp và có tính khả thi cao trong cuộc sống.
- Thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tăng cường dân chủ ở cơ sở:
+ Củng cố tổ chức và tăng cường hoạt động của các tổ chức hội, đoàn
thể quần chúng, cộng đồng ở nông thôn nhằm nâng cao tính chất đại diện và
tiếng nói của những chủ thể này.
+ Hoàn thiện cơ chế tham gia chủ động của người dân ở cơ sở một cách
trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức hội, đoàn thể vào các quá trình phát triển,
tức là đảm bảo đạt được sự đồng thuận của xã hội về các thể chế, chính sách,
chương trình, hoạt động… phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn nói riêng và
của cả nước nói chung.
+ Thực hiện triệt để nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”, có nghĩa là: (1) chính quyền đảm bảo cho dân biết đầy đủ, chính xác
những thông tin cần thiết để dân tham gia xây dựng và thực hiện các chương
trình phát triển; (2) nhân dân công khai, dân chủ, bàn bạc, quyết định trực tiếp
những việc cần làm để thúc đẩy sự phát triển; (3) nhân dân trực tiếp kiểm tra,
giám sát các hoạt động của chính quyền để thúc đẩy sự phát triển.
13
KẾT LUẬN
Xin nhắc lại quan điểm của Đảng ta “Coi công nghiệp hoá- hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch
vụ phải gắn bó chặt chẽ. Hỗ trợ đắc lực phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”. Trong bối cảnh cả nước đang nỗ
lực đẩy mạnh CNH- HĐH để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành

một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đạt mục tiêu xa hơn là “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì CNH- HĐH nông
nghiệp, nông thôn được đặt ở trung tâm của chương trình nghị sự. Cũng giống
như công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung, CNH-
HĐH nông nghiệp và nông thôn có nhiều thuận lợi nhưng đồng thời cũng
đứng trước nhiều khó khăn. Xét khái quát những thuận lợi và khó khăn thể
hiện ở một số điểm chính sau đây:
- Nước ta có vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi để phát
triển một nền nông nghiệp đa dạng nhưng chưa được khai thác có hiệu quả,
tài nguyên đang bị xuống cấp nhanh.
- Nông thôn có lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ, cần cù nhưng trình
độ chuyên môn kỹ thuật thấp, năng suất thấp, tỷ lệ lao động thất nghiệp và
thiếu việc làm cao.
- Nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư có thể được huy động cho phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn lớn, nhưng còn ít các cơ hội và điều
kiện đầu tư thực sự hấp dẫn để thu hút nguồn vốn này.
- Quy mô thị trường trong nước tương đối lớn và ngày càng tăng,
nhưng mức thu nhập chung của dân cư còn thấp, sự chênh lệch thu nhập tăng.
- Thị trường thế giới đang điều chỉnh trong quá trình toàn cầu hoá, nhu
cầu nông sản ở nhiều nước trong vùng, nhất là Trung Quốc đang tăng nhanh,
nhưng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản nước ta nhìn chung còn yếu
trong bối cảnh cạnh tranh thương mại thế giới gay gắt.
14
- Sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học,
tạo điều kiện cho nước ta tận dụng tốt lợi thế là nước đi sau, tăng cường áp
dụng những tiến bộ và phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhưng năng lực
chuyển giao và hấp thụ công nghệ mới thấp.
- Trong những năm qua, nông nghiệp tuy tăng trưởng khá nhanh và liên
tục nhưng chưa được tận dụng để tăng thu nhập và tăng khả năng tái sản xuất
của nông dân, trong khi đó công nghiệp và dịch vụ chưa hỗ trợ đắc lực cho

phát triển nông nghiệp.
- Nền kinh tế nước ta đang tiến nhanh trên con đường đổi mới ở mọi
lĩnh vực, trong đó đổi mới lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã đạt được
những thành quả tích cực và tiếp tụcb được thúc đẩy mạnh mẽ. Tuy nhiên hệ
quả của cải cách đối với nông nghiệp và nông thôn còn hạn chế tương đối và
đổi mới trong lĩnh vực này còn gặp phải không ít ràng buộc.
- Nông thôn Việt Nam có nhiều nhân tố truyền thống tốt đẹp và xuất
hiện các nhân tố mới, thúc đẩy sự phát triển. Tuy nhiên vẫn còn không ít nhân
tố lạc hậu và những nhân tố mặt trái kìm hãm sự phát triển.
Nhận định khái quát về thuận lợi và khó khăn trên đấy gợi ra những định
hướng giải pháp quan trọng. Từ những phân tích xuyên suốt trong chuyên đề
này, trong số các chủ trương, biện pháp, có thể nêu ra một số khâu đột phá
đóng vai trò như “bí quyết” của sự thành công như sau:
- Đẩy mạnh cải cách chính sách đất đai.
- Đổi mới công tác quy hoạch phát triển, nông nghiệp, nông thôn.
- Đẩy mạnh thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần ở nông thôn.
- Thúc đẩy sự phát triển của các loại thị trường ở nông thôn.
- Đẩy mạnh phát triển văn hoá, xã hội và bảo vệ môi trường ở nông
thôn, mở rộng dân chủ, phát triển con người.
15
Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN


















Buôn ma thuột, ngày……tháng…… năm 2007
Giáo viên
16

×