1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với việc thực hiện chuyển dòch cơ cấu kinh tế, Đảng
và nhà nước vẫn luôn coi trọng vấn đề thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các doanh
nghiệp mà cụ thể là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu lao động
của các doanh nghiệp, nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam chúng ta gia nhập
vào tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn.
Mặc dù số lượng lao động tại TP.HCM ngày càng tăng nhưng chất lượng nguồn nhân
lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp trong các thành phần kinh
tế.
Xuất phát từ tầm quan trọng tính bức xúc của vấn đề đáp ứng nhu cầu lao động cho
các doanh nghiệp và thông qua đó cũng là giải quyết việc làm cho người lao động
trên đòa bàn thành phố đã thôi thúc tác giả luận văn chọn đề tài “ Một số giải pháp
nhằm đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp trên đòa bàn TP.HCM đến
năm 2010” với mong muốn tìm ra những vấn đề cốt lõi của vấn đề lao động việc làm,
và đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp nhằm đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp phù hợp với điều kiện
kinh tế – chính trò xã hội của TP.HCM.
Như vậy đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác đònh là vấn đề lao
động và nhu cầu lao động trên đòa bàn TP.HCM.
Luận văn cũng đặt ra mục tiêu nghiên cứu là :
Đánh giá thực trạng về nhu cầu lao động của các doanh nghiệp và các hoạt
động hỗ trợ đáp ứng nhu cầu này nhằm tìm ra những vấn đề tồn tại, nguyên
nhân đưa đến những khó khăn và hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu lao động
của các doanh nghiệp trên đòa bàn thành phố trong thời gian qua.
2
Đề xuất một số phương hướng, giải pháp đáp ứng nhu cầu lao động cho các
doanh nghiệp cho đến năm 2010 phục vụ cho sự phát triển của hệ thống các
doanh nghiệp trên đòa bàn thành phố nói riêng và phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp nghiên cứu tài liệu có sẵn về lý thuyết và
thực tiễn đáp giải quyết việc làm đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp,
các phương pháp tổng hợp, thống kê phân tích, quy nạp, diễn giải… để làm sáng tỏ và
cụ thể hoá nội dung nghiên cứu. Đặc biệt là phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lòch sử được lấy làm nền tảng, chủ đạo toàn diện các vấn đề
nghiên cứu trong luận văn này.
Về kết cấu, ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương.
− Chương I : Tổng quan về nhu cầu lao động của doanh nghiệp.
− Chương II : Thực trạng về lao động – việc làm và nhu cầu lao động của các
doanh nghiệp trên đòa bàn TP.HCM.
− Chương III : Một số giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh
nghiệp trên đòa bàn TP.HCM đến năm 2010.
3
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NHU CẦU LAO ĐỘNG CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong lónh vực lao động và việc làm
Hiện nay ở nước ta nền kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa đã
hình thành trên đại thể song còn thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt, công cuộc
đổi mới đi vào chiều sâu gắn với hội nhập quốc tế sẽ vấp phải những trở lực do nhận
thức chưa chuyển kòp bởi thói quen và cách làm ăn cũ còn in sâu vào tư duy của mỗi
người. Tình hình và điều kiện thực tế của đất nước cùng với bối cảnh quốc tế tạo khả
năng, đồng thời đòi hỏi trong 10 năm đầu của thế kỷ 21 trên con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế chúng ta phải phát triển nhanh
và bền những chủ động hội nhập quốc tế và đổi mới sâu rộng hơn nữa.
Trong thời kỳ kế hoạch 10 năm ( 2001 – 2010 ) tư tưởng lớn nhất, cái gốc của
tư duy đổi mới trong lónh vực lao động và việc làm là phải đặt con người vào vò trí
trung tâm khơi dậy tiềm năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng dân tộc, kết hợp hài
hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở, là phương tiện và tiền đề để
thưc hiện các chính sách xã hội vừa là động lực, vừa tạo sự ổn đònh về chính trò xã hội,
làm cơ sở cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Điều 13 chương II Bộ luật lao động của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghóa
Việt Nam đã ghi rõ “ Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bò pháp luật
cấm đều được gọi là việc làm”. Tư tưởng này là cơ sở đònh hướng cho cuộc cách
mạng trong lónh vực lao động và việc làm, đã làm thay đổi căn bản tư tưởng bao cấp
và cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây để chuyển sang nhận thức quan niệm mới
về lao động và việc làm. Từ chỗ quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của
nhà nước và chỉ làm việc trong 2 thành phần kinh tế cơ bản : quốc doanh và hợp tác
4
xã mới được coi là có việc làm thì nay cùng với nhà nước mỗi công dân, gia đình, mỗi
tổ chức đều có thể và được phép tạo mở việc làm trong các thành phần kinh tế ( nhà
nước, tập thể, tư bản nhà nước, tư nhân, cá thể, liên doanh nước ngoài ) bao hàm mọi
hình thức tổ chức kinh doanh, từ các doanh nghiệp lớn đến các loại quy mô vừa và
nhỏ, kinh tế hộ gia đình, các hoạt động trong khu vực kinh tế phi kết cấu.
Người lao động đã năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho xã
hội, không thụ động chờ sự bố trí của nhà nước. Người sử dụng lao động được khuyến
khích đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dòch vụ tạo việc làm. Trong xã hội mọi
người tự chòu trách nhiệm về cuộc sống của bản thân mình, từ đó cần phát huy năng
lực sáng tạo trong việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.2 Khái niệm về nhu cầu lao động của doanh nghiệp
1.2.1 Nhu cầu lao động của doanh nghiệp
Nhu cầu lao động hay nhu cầu về nhân lực là số lượng và cơ cấu lao động cần
thiết để hoàn thành số lượng sản phẩm, dòch vụ hoặc khối lượng công việc của tổ
chức trong một thời kỳ nhất đònh.
Khi xác đònh nhu cầu lao động cùa doanh nghiệp phải xem xét và tính đến ảnh
hưởng của các yếu tố như : các nhân tố bên ngoài như cạnh tranh trong nước và ngoài
nước; tình hình kinh tế; luật pháp; thay đổi kỹ thuật công nghệ.
Các nhân tố bên trong tổ chức bao gồm hạn chế về ngân sách chi tiêu; mức sản lượng
sẽ tiến hành sản xuất trong năm kế hoạch; số loại sản phẩm và dòch vụ mới; cơ cấu tổ
chức.
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu lao động trong doanh nghiệp
Các nhân tố bên ngoài và môi trường :
Các bước ngoặc của nền kinh tế có thể ảnh hưởng tới nhu cầu về lao động.
Trong giai đọan phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về lao động của doanh nghiệp có
thể tăng lên và ngược lại, khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái thì nhu cầu về lao
5
động của doanh nghiệp có thể giảm xuống. Ngoài ra, tình hình lạm phát, tình trạng
thất nghiệp và lãi suất ngân hàng đều có ảnh hưởng đến nhu cầu lao động của doanh
nghiệp. Hơn thế nữa, những thay đổi về xã hội ( như có chiến tranh đột xuất ) có thể
ảnh hưởng đến nhu cầu của một tổ chức.
Những thay đổi về chính trò và luật pháp sẽ có ảnh hưởng đến nhu cầu tương lai
của một tổ chức ( chẳng hạn như một bộ luật mới về lao động sẽ có tác dụng động
viên hay hạn chế người lao động cung cấp sức lao động cho các doanh nghiệp ).
Các thay đổi về kỹ thuật và công nghệ ảnh hưởng lớn đến nhu cầu tương lai
của một tổ chức. Một khi công nghệ được cải tiến, bản chất công việc trở nên phức
tạp hơn, một số nghề mới xuất hiện, một số nghề cũ mất đi. Và như thế, nhu cầu về
lao động có sự thay đổi, các doanh nghiệp thường thiếu những công nhân có tay nghề
cao và có nghề mới.
Cuối cùng là sự cạnh tranh của các đối thủ cũng như sự cạnh tranh có tính chất
toàn cầu tăng lên làm cho các doanh nghiệp, một mặt, phải không ngừng nâng cao
trình độ nghề nghiệp của nhân viên của mình, và mặt kia, phải giảm bớt chi phí lao
động, phải tiết kiệm chi phí tiền lương để giảm giá thành sản phẩm và tăng sức cạnh
tranh. Điều đó làm cho các doanh nghiệp có chiến lược sử dụng lao động theo hướng
chọn lọc hơn và tinh nhuệ hơn…
Các quyết đònh về chiến lược của doanh nghiệp :
Các mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu lao động
tương lai của nó. Khi dự báo có sự tăng trưởng, có sự đầu tư mới mở rộng sản xuất
hoặc tiến hành một công việc mới, một sản phẩm mới… thì nhu cầu về nguồn lao động
sẽ tăng lên và ngược lại, khi có sự suy giảm, hay thu hẹp sản xuất – kinh doanh thì tất
yếu dẫn đến nhu cầu về nhân lực sẽ giảm đi.
Một sự đầu tư mới về công nghệ hay một sự thu hẹp về tài chính cũng làm cho
doanh nghiệp xem xét lại nhân lực của mình.
6
Hơn nữa, việc dự báo về bán hàng và sản xuất sản phẩm cũng quyết đònh đến
nhu cầu lao động của doanh nghiệp ( ví dụ như nhu cầu về lao động tương lai của
doanh nghiệp sẽ phát triển lên hay thu hẹp đi sẽ tương ứng với giai đoạn phát triển
hay suy tàn của chu kỳ sống của sản phẩm doanh nghiệp )…
Sự thay đổi tự nhiên lực lượng lao động của doanh nghiệp :
Theo thời gian, lực lượng lao động của doanh nghiệp sẽ tất yếu thay đổi như có
sự nghỉ hưu, có sự ra đi, thay đổi, thuyên chuyển và kết thúc hợp đồng lao động… các
nhà quản lý nhân lực có thể dự báo trước được những thay đổi này. Còn những thay
đổi do sự vắng mặt, sự thiếu năng lực và tai nạn hoặc chết thì khó có thể biết trước
được.
1.2.3 Phương pháp dự báo về nhu cầu lao động
Thực chất việc dự báo việc làm là dự báo nhu cầu lao động. Để dự báo nhu cầu lao
động có thể sử dụng một trong các phương pháp sau :
Phng pháp năng suất lao động :
Để sử dụng phương pháp này trong dự báo ta cần làm 3 công đoạn : 1. D báo giá trò
tăng tính theo giá cố đònh của các ngành như : nông nghiệp, công nghiệp, dòch vụ; 2.
Dự báo năng suất lao động theo ngành. Các mức năng suất lao động tương lai được dự
báo bằng phương pháp ngoại suy từ các số liệu về năng suất lao động trong quá khứ;
3. Tính số việc làm trong mỗi ngành. Sau khi có giá trò dự báo GDP theo ngành và
năng suất lao động theo ngành, số việc làm trong mỗi ngành được tính bằng cách chia
giá trò GDP dự báo theo ngành cho năng suất lao động từng ngành.
Phương pháp co giãn về việc làm và kết quả sản xuất ( giá trò sản lượng, giá trò tăng,
GDP ) :
Phương pháp này cho biết khi tăng GDP ( hay giảm ) 1% thì số việc làm tăng hay
giảm đi bao nhiêu lần. Phương pháp này bao gồm 2 công đoạn : 1. Tính toán hệ số co
giãn của việc làm đối với giá trò GDP theo ngành; 2. Dự báo việc làm theo ngành.
7
Phương pháp dự báo theo đònh mức kinh tế kỹ thuật :
Phương pháp này sử dụng các hàm sản xuất đặc thù của ngành, nghóa là xây dựng các
hàm số toán học mô tả mối quan hệ kỹ thuật giữa một hay nhiều yếu tố đầu vào ( như
đất đai, lao động, vốn ) với kết quả sản xuất ( đầu ra ) với các giả thuyết là các yếu tố
đầu vào được sử dụng có hiệu quả trong quá trình sản xuất.
Cầu về lao động là số lượng chất lượng lao động cần tuyển dụng và thuê mướn để
đáp ứng nhu cầu việc làm cho nền kinh tế quốc dân kỳ kế hoạch. Mô hình dự báo
tổng cầu trên phạm vi vó mô gồm 5 bước :
9 Dự báo khả năng tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ kế hoạch cho toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, hoặc một vùng, một tỉnh nhất đònh.
9 Dự báo sự dòch chuyển cơ cấu kinh tế giữa các khu vực, ngành kinh tế quốc dân,
trong một vùng, một tỉnh.
9 Dự báo mô hình tăng trưởng đối với từng khu vực kinh tế ( tăng trưởng theo chiều
rộng – tăng lao động hay tăng chiều sâu – tăng năng suất lao động ).
9 p dụng công thức thể hiện mối quan hệ ràng buộc giữa tốc độ tăng năng suất lao
động và tăng GDP ( độ co giãn lao động hoặc co giãn về đầu tư ) để ước tính số
cầu về lao động trong tương lai đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, một vùng,
một tỉnh và các khu vực kinh tế.
9 Tính toán số việc làm mới có thể tạo ra từ các chương trình phát triển kinh tế,
trong các ngành kinh tế, trong từng thời kỳ cũng như số người thất nghiệp, thiếu
việc làm hoặc nhu cầu việc làm bổ sung từ các chương trình khác để đạt tỷ lệ thất
nghiệp như mong muốn.
1.3 Phân loại lao động trong doanh nghiệp
Lao động là yếu tố cơ bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Không có lao
động của con người thì hoạt động sản xuất kinh doanh không thể tiến hành được. Cho
nên dù trình độ khoa học kỹ thuật phát triển đến đâu, dù sản xuất hoàn toàn tự động
8
hoá đi nữa, vai trò lao động của con người trong hoạt động sản xuất kinh doanh không
thể thiếu được.
Toàn bộ lao động tham gia vào các hoạt động sản xuất và kinh doanh của
doanh nghiệp, tuỳ theo chế độ tổ chức và quản lý sử dụng lao động của doanh nghiệp
đối với họ có thể được phân thành các loại lao động như sau :
Lao động lãnh đạo : là những người làm công tác lãnh đạo, tổ chức quản lý
sản xuất, kinh doanh, công tác hành chính quản trò, bao gồm : giám đốc, các phó giám
đốc, các trưởng phòng, quản đốc, các phó quản đốc phân xưởng.
Lao động nghiệp vụ : bao gồm các cán bộ nhân viên công tác ở các phòng,
ban, bộ phận kế hoạch, thống kê, kế toán, tài vụ, lao động tiền lương, cung tiêu của
doanh nghiệp, công tác tổ chức nhân sự, hành chính, văn thư, đánh máy, điện thoại,
phát thanh, phiên dòch, lái xe con,…
Lao động kỹ thuật : là những người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công
tác kỹ thuật trong doanh nghiệp. Được gọi là nhân viên kỹ thuật, phải là những người
có đủ hai điều kiện :
Phải được đào tạo ở các trường lớp kỹ thuật và đã được cấp bằng tốt
nghiệp hoặc giấy chứng nhận từ bậc trung học trở lên. Trường hợp những
người qua thực tế công tác, đã có trình độ kỹ thuật tương đương thì phải
được cấp trên có thẩm quyền công nhận ( bằng văn bản ).
Phải thực tế làm công tác tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn kỹ thuật được xếp
và hưởng theo thang lương, bảng lương kỹ thuật.
Lao động kỹ thuật trong doanh nghiệp hường gồm những loại sau đây : giám
đốc hoặc phó giám đốc xí nghiệp phụ trách kỹ thuật, quản đốc hoặc phó quản
đốc phân xưởng phụ trách kỹ thuật, trưởng hoặc phó ngành phụ trách kỹ thuật,
trưởng phó phòng kỹ thuật, các tổng công trình sư, kỹ sư, công trình sư, nhân
viên kỹ thuật làm việc ở các phòng ban kỹ thuật thí nghiệm trực tiếp phục vụ
9
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, những người phụ trách các
chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật ( đối với những việc đòi hỏi phải do nhân viên kỹ
thuật đảm nhiệm ).
Công nhân có tay nghề : là những người lao động có trình độ tay nghề trực tiếp sản
xuất sản phẩm hoặc trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm. Cụ thể là :
Những người trực tiếp điều khiển máy móc, thiết bò ( bao gồm cả máy tự
động ) để tiến hành sản xuất; kể cả những người là cán bộ kỹ thuật trực tiếp
làm công việc đó.
Những người sản xuất sản phẩm bằng phương pháp thủ công hoặc dụng cụ
thô sơ; kể cả những người sản xuất nguyên vật liệu hoặc sơ bộ chế biến
nguyên vật liệu trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất.
Những người sửa chứa máy móc thiết bò, phương tiện vận tải.
Những người làm công tác kiểm tra qui cách, chất lượng sản phẩm, nửa
thành phẩm gắn liền trong dây chuyền sản xuất.
Lao động phổ thông : bao gồm :
Những người vận tải, bóc dỡ nguyên vật liệu, nửa thành phẩm trong nội bộ
doanh nghiệp.
Những người bảo quản thiết bò máy móc; điều khiển máy điều hoà nhiệt độ;
đốt lò; dọn vệ sinh ở các gian máy sản xuất, nơi làm việc của công nhân…
Những người phục vụ xây dựng cơ bản, nhân viên vận tải nhằm phục vụ
vận chuyển vật tư hàng hoá ngoài phạm vi doanh nghiệp, nhân viên thu
mua…
1.4 Nhận dạng thò trường lao động TP.HCM trong giai đoạn hiện nay
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thò trường, ở Việt Nam đã hình
thành các loại thò trường trong đó có thò trường lao động. Tuy nhiên, đối với Việt Nam
10
thò trường lao động vẫn còn là một khái niệm còn mới mẻ và có nhiều tranh luận. Có
thể hiểu khái niệm “ thò trường lao động” là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình
thành trong lónh vực thuê mướn lao động. Đối tượng bao gồm những người đang
tham gia và đang cố gắng tham gia vào quá trình thuê mướn lao động. Như vậy không
phải toàn bộ lực lượng lao động nằm trong thò trường lao động mà chỉ có những người
thuê và những người đi làm thuê mới tham gia vào thò trường lao động.
Thò trường lao động chính là nơi thể hiện quan hệ xã hội giữa người lao
động làm thuê và người thuê mướn lao động thông qua sự điều chỉnh giá cả tiền
công.
TP.HCM không chỉ là đòa phương có số lượng lớn về dân số và lao động mà
còn là nơi đi đầu trong cả nước về phát triển quan hệ thò trường, đặc biệt là các quan
hệ trong thò trường lao động. Việc tìm hiểu thò trường lao động TP.HCM sẽ giúp cho
việc tìm ra giải pháp nào là cần thiết để có thể điều tiết được quan hệ cung cầu sức
lao động, nghóa là góp phần đáp ứng được nhu cầu lao động của các doanh nghiệp
trên gốc độ quản lý.
Thò trường lao động TP.HCM có một số đặc trưng chủ yếu sau :
Thứ nhất : Thò trường lao động thành phố vận hành và phát triển trên một nền
kinh tế hàng hoá và cơ chế thò trường hình thành khá sớm, cho nên mối quan hệ
cung cầu ở đây khá phong phú đa dạng, phong phú cả nguồn cung ứng lao động và
khả năng tạo nhu cầu để thu hút lao động trên thò trường.
Thứ hai : Thò trường lao động chưa hoàn hảo còn bò ức chế và chưa kiểm soát
được. Thò trường lao động thành phố vừa có lực lượng lao động dồi dào, lại đến từ
nhiều nguồn, nhiều đòa phương trong cả nước, nhiều nước trên thế giới, đa phần là lực
lượng trẻ có khả năng thích ứng nhanh trong những ngành nghề mới. Tuy nhiên, một
điều dễ nhận thấy trong thò trường lao động thành phố còn hình thành sự phân biệt
11
gồm :
9 Thò trường lao động có hộ khẩu và không có hộ khẩu.
9 Thò trường lao động có đăng ký và không có đăng ký.
9 Thò trường đăng ký chính thức và phi chính thức… đã tạo ra sự rối loạn, khó kiểm
soát và rất khó quản lý các nguồn cung ứng, luồng di chuyển nhân công, khó điều
tiết trong sự bố trí sử dụng dẫn đến thò trường phát triển tự phát thiếu đònh hướng
ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội nói chung và nguồn nhân lực nói riêng.
Thứ ba : Do nhà nước chưa kiểm soát được thò trường nên sự phát triển tự phát
của thò trường đã gây ra sự mâu thuẫn rất lớn giữa cung và cầu lao động. Những
mâu thuẫn đó thể hiện ở chỗ :
9 Tốc độ phát triển kinh tế ở TP.HCM quá nhanh, kèm theo số lượng doanh nghiệp
mới ra đời liên tục đã tạo thêm nhiều chỗ làm mới.
9 Mặt khác trong xu thế cạnh tranh và hội nhập, các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đều có kế hoạch mở rộng thò phần, tăng quy mô sản xuất, kinh doanh nên
cần tuyển thêm số lượng lớn lao động vào làm việc. Trong khi đó, do thiếu chuẩn
bò và đầu tư đúng hướng từ trước nên nguồn nhân lực của thành phố vừa thiếu về
số lượng vừa yếu về chất lượng. Điều đáng lo ngại là có một bộ phận lao động tuy
thất nghiệp nhưng không chòu tham gia thò trường lao động, một số khác lại có tâm
lý “ kén cá chọn canh”.
9 Thiếu khung pháp lý, tuyển nhân sự ngày một khó, nhiều doanh nghiệp phải đối
mặt với thực tế mất lao động hàng loạt.
9 Lực lượng lao động nhiều nhưng chất lượng lao động thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển của thành phố hiện tại và tương lai nói chung và nhu cầu lao động
của các doanh nghiệp nói riêng.
9 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động còn thấp và cơ cấu các loại
12
trình độ, cơ cấu ngành nghề phân bổ chưa hợp lý, có ngành đào tạo nhiều nhưng
không sử dụng hết, ngành lại quá thiếu, đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ thuật
thiếu hầu hết ở các ngành, các khu vực kinh tế.
9 Hệ số ổn đònh của các nguồn việc làm còn thấp, nhiều người tuy có việc làm
nhưng ở dạng thất nghiệp trá hình, làm việc năng suất thấp. Số người trong biên
chế nhà nước còn quá nhiều so với yêu cầu công việc, việc phát triển các thành
phần kinh tế chưa ổn đònh, tạo tình trạng thất nghiệp thường xuyên.
Thứ tư : Thò trường lao động thành phố đã bước đầu thể hiện tính cạnh tranh của
các loại hàng hoá lao động.
Cạnh tranh giữa nguồn cung ứng lao động tại chỗ với nguồn lao động nhập cư, nhập
khẩu.
Cạnh tranh lao động thông qua đòi hỏi tiêu chuẩn tình độ chuyên môn giữa các dòng
lao động và ngay trong một bộ phận lực lượng lao động.
Cạnh tranh giữa hàng hoá sức lao động và hàng hoá dưới dạng tư liệu sản xuất. Cạnh
tranh này diễn ra trong xu hướng chuyển giao công nghệ ngày càng cao, sử dụng lao
động ngày càng ít, sử dụng chất xám tay nghề ngày một cao.
Tóm lại, việc tìm hiểu các khái niệm về nhu cầu lao động, phân loại lao động, và
nắm vững một số đặc trưng của thò trường lao động TP.HCM chính là những điều kiện
và tiền đề hết sức căn bản cho việc khai thác và sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã
hội nhằm đáp ứng nhu cầu lao động hết sức cấp thiết của các doanh nghiệp hiện nay.
Cung – cầu lao động TP.HCM vẫn có nhiều nghòch lý, diễn biến phức tạp nhưng nếu
có những chủ trương chính sách phù hợp sẽ đưa thò trường lao động vào phát triển ổn
đònh. Thực tế cho thấy, thò trường lao động ổn đònh thì kinh tế mới phát triển bền vững.
Bởi lẽ con người – nguồn nhân lực là yếu tố quyết đònh sự thành công của doanh
nghiệp.
13
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM VÀ
TÌNH HÌNH NHU CẦU LAO ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TP.HCM
2.1 Dân số và nguồn lao động tại TP.HCM
TP.HCM với diện tích 2.095,01 km
2
, dân số 6.062.993 người, mật độ dân số
2.984 người/ km
2
và mức tăng dân số bình quân là 3,6%/năm. Thành phố có 24 quận,
317 phường-xã, gồm 19 quận nội thành, 5 huyện ngoại thành.
Thành phố đạt mức tăng trưởng sản phẩm xã hội nội đòa bình quân 11%/năm, tăng
trưởng năm sau cao hơn năm trước.
- Tăng trưởng trong khu vực công nghiệp và xây dựng luôn có tốc độ tăng
nhanh, bình quân 12,6%/năm
- Tăng trưởng trong khu vực dòch vụ bình quân là 8,9%/năm.
- Nông nghiệp tăng bình quân 6%/năm.
Đây là những thuận lợi cơ bản trong vấn đề thu hút lao động, tạo việc làm.
Cơ cấu kinh tế thành phố hiện nay là dòch vụ, công nghiệp, nông nghiệp với cơ
cấu như sau:
Biểu 1 : Cơ cấu kinh tế TP.HCM
Cơ cấu kinh tế Đơn vò tính Năm 2001 Năm 2005
- Nông nghiệp % 2 1,7
- Công nghiệp % 45,4 48,47
- Dòch vụ % 52,6 50,08
(Trích báo cáo chính trò của Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII)
Cơ cấu lao động có sự chuyển dòch khá nhanh sang các ngành công nghiệp và
dòch vụ, lao động trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp hiện chỉ còn 6,3% tổng số lao
động đang làm việc trên đòa bàn thành phố và chỉ chiếm 25% số lao động đang sinh
14
sống ở nông thôn. Năng suất lao động chung của các ngành kinh tế của thành phố
tăng bình quân 8,5%/năm.
Để đánh giá thực trạng nguồn lao động của thành phố cần phải xét giữa sự phát triển
nguồn lao động và tăng trưởng kinh tế tạo nguồn nhu cầu trong thò trường lao động.
2.1.1 Sự biến động dân số thành phố:
- Tốc độ tăng bình quân dân số thành phố từ năm 1999 đến 2004 cao hơn hẳn
tốc độ tăng dân số các thời kỳ trước.
Đến ngày 1/10/2004 dân số thường trú trên đòa bàn thành phố là 6.117.251
người, bao gồm 5.140.417 người ở nội thành và 976.839 người ở ngoại thành. Mật độ
dân số thành phố là 2.920 người/km
2
, tăng 21,4% so với mật độ dân số thành phố vào
năm 1999 (2.404,4 người/ km
2
). So với tổng điều tra dân số thời điểm 1/4/1999 thì sau
5,5 năm dân số thường trú thành phố tăng trên 1.080.096 người. Mức tăng dân số từ
1999 - 2004 bằng mức tăng trong 10 năm 1989 - 1999 và bằng xấp xỉ 2 lần mức tăng
dân số trong 10 năm 1979 - 1989.
- Tốc độ tăng dân số của thành phố chủ yếu là tăng cơ học 2,33%/năm. Điều này
hoàn toàn phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế trong những năm qua, đó là tốc độ tăng
cơ học của dân số tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của thành phố
GDP tăng liên tục, bình quân 11,2%/năm.
Năm 2001 có 960.018 dân từ các tỉnh, thành phố khác đến TP.HCM chiếm 17,62%
dân số sinh sống thì đến năm 2004 đã có 1.844.548 người diện tạm trú, chiếm 30,1%
dân số, đại bộ phận dân nhập cư là người lao động (trên 70% dân số). Tỉ lệ tăng cơ
học càng lúc càng cao. Năm 2005 dân số tăng cơ học chiếm hơn 63% dân số. Điều
này chứng minh TP.HCM có sức cuốn hút, lôi kéo lực lượng dân cư ở các đòa phương
khác vốn là những người đang thất nghiệp do thiên tai lũ lụt, do quá trình đô thò hoá
hoặc do có thu nhập thấp… di chuyển đến TP.HCM sinh sống. Đây là một nguồn lực
15
quan trọng, bổ sung trực tiếp vào nguồn cung thò trường lao động TP.HCM.
Từ lao động nhập cư cho thấy có sự thay đổi trong vấn đề nguồn lao động, cứ 3
người đang làm việc trong các doanh nghiệp thì có 1 người là lao động ngoại tỉnh. Riêng
trong các KCX-KCN, chủ yếu trong ngành da giày, may mặc, xây dựng số lao động nhập
cư chiếm tỉ lệ rất cao. Cứ 10 lao động làm việc trong ngành này thì có 8 người là lao
động ngoại tỉnh.
- Biến động dân số của Thành phố có xu hướng giảm dân số ở các quận
Trung tâm, quận nội thành, tăng nhiều ở các quận mới, các quận ven ngoại thành và
các huyện.
Khu vực nội thành có xu hướng giảm nhanh trong giai đoạn 2001-2005
nguyên nhân là người dân di dời do các dự án nâng cấp đô thò. Mặc khác do nhu cầu
cho thuê nhà để kinh doanh nên có sự giảm dân ra các quận ven để sinh sống.
- Các quận mới, quận ven dân số tăng cao do phát triển kinh tế thành phố và
đầu tư cho các KCX-KCN đã thu hút một lượng lao động nhập cư từ các tỉnh thành trong
cả nước. Việc gia tăng dân số của Thành phố tác động mạnh đến tổng nguồn cung của
thò trường lao động.
Biểu 2 : Tình hình dân số và nguồn lao động TP.HCM giai đoạn 2001-2005
Thực hiện
Chỉ tiêu Đơn vò
2001 2002 2003 2004 2005
Dân số
1.000
người
5.449,20 5.659,00 5.867,50 6.109,49 6.153,94
Lực lượng lao động
1.000
người
3.604,19 3.723,13 3.816,03 3.953,41 4.164,16
Tỷ lệ lao động so với dân số % 66,14 65,79 65,04 64,71 67,67
Tổng số lao động có việc
làm
1.000
người
2.260,91 2.335,70 2.503,21 2.561,10 2.821,22
- Trong đó Nữ " 1.184,26 1.234,18 1.303,92 1.333,05 1.467,88
16
Lao động cần giải quyết
việc làm
1.000
người
244,36 250,19 251,10 242,34 245,69
Tỷ lệ lao động cần giải
quyết việc làm so với người
trong tuổi lao động
% 6,78 6,72 6,58 6,13 5,90
Nguồn : Sở LĐ – TBXH TP.HCM
2.1.2 Chất lượng lao động Thành phố:
Lực lượng lao động Thành phố tăng dần qua các năm, năm 2001 lao động trong
độ tuổi là 3.604 triệu người, chiếm tỉ trọng 66,14%, đến năm 2005 lao động trong độ
tuổi chiếm 67,67% dân số. Điều này cho thấy lao động có tốc độ tăng cao hơn dân số
do đại bộ phận dân nhập cư là người trong độ tuổi lao động. Lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật tăng dần qua các năm: năm 2001 là 33,17%; năm 2002 là
45,48% đến năm 2005 chiếm 48,31% trong tổng số lao động đang làm việc.
Số người làm việc của thành phố tăng qua các năm và đạt 2.821.219 lao động
vào năm 2005, chiếm 45,84% dân số và 67,75% nguồn lao động. Cơ cấu lao động
chuyển dòch rõ nét theo hướng tăng lao động trong lónh vực dòch vụ là 58,77%; khu vực
công nghiệp - xây dựng : 34,92%, cơ cấu lao động trong khu vực nông nghiệp giảm còn
6,31%.
Người lao động làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước tăng bình
quân 2,4%/năm, chiếm tỷ trọng 25,08%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng bình quân 9% chiếm tỷ trọng 59,49%, các doanh nghiệp tư nhân tăng bình quân
2,3% chiếm tỷ trọng 15,43% trong tổng số lao động đang làm việc.
Nguồn lao động của thành phố năm 2005 được phân bổ như sau :
- Số lao động đang làm việc là 2.821.219 người chiếm 67,75% nguồn lao động
thành phố.
17
- Số lao động dự trữ là 1.025.634 người chiếm tỷ trọng 24,63%, bao gồm lao
động đang đi học, nội trợ gia đình chiếm tỉ trọng cao.
- Số lao động không có việc làm là 245.685 người chiếm tỷ trọng 5,9% tổng số
người trong độ tuổi lao động. Trong tổng số người không có việc làm, có 191.220 người
có nhu cầu tìm việc làm chiếm 77,87%; số lao động còn lại có việc làm không ổn đònh
hoặc có thu nhập nên không có nguyện vọng đăng ký tìm việc làm là 22,17%.
- Số người trong độ tuổi mất sức lao động là 71.623, chiếm tỷ lệ 1,72% người
trong độ tuổi lao động.
Về tình trạng làm việc của những lao động trong độ tuổi cho thấy số lao động đang
làm việc kể cả đã đào tạo và chưa qua đào tạo tăng cả về lượng và kết cấu
2.2 Tình hình lao động thất nghiệp trên đòa bàn thành phố
Biểu 4 : Tỷ lệ thất nghiệp TP. HCM giai đoạn 2001-2005
Nguồn : Sở LĐ – TBXH TP.HCM
Qua số liệu về tỷ lệ thất nghiệp trên đòa bàn thành phố chúng ta có thể rút ra
những nhận xét sau :
- Bức tranh về thò trường lao động TP. HCM có vẻ sáng sủa hơn khi tình hình về
tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm.
- Số lao động thất nghiệp đã qua đào tạo vẫn còn khá cao , ngay cả đối với
những người được gọi là có trình độ cao, những sinh viên tốt nghiệp trung cấp,
cao đẳng, đại học. Theo số liệu điều tra tính toán từ số liệu sinh viên học sinh
đăng ký tìm việc tại Trung tâm dòch vụ việc làm SV – HS, số sinh viên, học
sinh ra trường tìm việc làm sau 3 tháng mà vẫn chưa tìm được việc làm đối
với trình độ cao đẳng, đại học lên tới 42%; đối với trình độ trung cấp là 28%
trong tổng số sinh viên ra trường có đi tìm việc.
18
Phân bố thất nghiệp theo đòa bàn quận huyện ( xem phụ lục 1)
Số lao động thất nghiệp cao nhất là ở Quận Bình Thạnh ( 24.166 người ) kế đến là
quận Gò Vấp.
Nơi có số lao động thất nghiệp thấp nhất là : Quận 11 ( 1.904 người ), kế đến là Quận
10.
Nhìn chung tình hình thất nghiệp năm 2005 của thành phố có những đặc điểm cơ bản
sau :
9 Tỷ lệ thất nghiệp ở ngoại thành còn tương đối cao. Điều này cũng phù hợp với
thực tế do quá trình đô thò hoá cùng với sự hình thành của các chế xuất, khu công
nghiệp và khu dân cư mới làm cho dân vùng ven tăng. Ngoài ra còn do sự di cư tự
phát của dân từ các tỉnh thành phố khác đến.
9 Số lao động thất nghiệp của thành phố biến động khá lớn, khoảng trên dưới 30%
không có việc làm ổn đònh. Một bộ phận khoảng 20% do có thu nhập thấp nên
không muốn tìm việc làm ( thất nghiệp tự nguyện ).
2.3 Tác động của lao động nhập cư trong lónh vực lao động và việc làm trên đòa
bàn TP.HCM
Tình hình lao động nhập cư ( xem phụ lục 2 )
Trong những năm qua số người nhập cư đến TP.HCM ngày càng cao, bình quân
163.000 người/năm, điều này tác động rất lớn đến sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
của thành phố.
Theo số liệu của CATP, lực lượng lao động nhập cư vào thành phố có đủ cả 63 tỉnh
thành trong cả nước, trong số đó chỉ 25% được nhập hộ khẩu thành phố là số lao động
mà thành phố cần thu hút và có việc làm. Chính vì vậy, trong số người di cư đến
thành phố chỉ 50% có nhà ở ổn đònh, còn lại phải thuê. Từ năm 2000 đến năm 2005,
số người từ các tỉnh, thành phố khác đến cư trú tăng 825.517 người (bình quân tăng
19
163.000 người/năm); trong đó năm 2004 tăng 236.745 người, năm 2005 tăng 139.393
người.
Hiện nay TP.HCM có khoảng 1,84 triệu người đến từ các tỉnh, thành phố trong cả
nước, chiếm trên 30% dân số thành phố. So với người thành phố, lao động nhập cư
thường linh hoạt và tích cực hơn trong việc làm, chấp nhận các công việc nặng nhọc,
độc hại, công việc có thu nhập thấp mà người thành phố không muốn làm. Lao động
nhập cư chiếm 70% lao động trong các khu công nghiệp, 44% lao động hoạt động
phương tiện xe 2 – 3 bánh công cộng, 43% hoạt động vỉa hè và 55% người buôn bán
lưu động.
Đặc điểm lao động nhập cư là :
9 Giá lao động của họ luôn rẻ hơn nhiều so với lao động thành phố vốn có tính kén
chọn công việc có thu nhập cao. Chính vì thế đã làm gia tăng mức độ cạnh tranh
về chỗ làm việc với lao động thành phố.
9 Hiện nay lượng lao động nhập cư đến thành phố đảm trách một phần các công
việc giản đơn, các ngành nghề có thu nhập thấp mà lao động thành phố không
làm, từ đó đã làm cho thò trường lao động thực hiện linh hoạt hơn các hoạt động
việc làm của thành phố.
9 Trong quá trình phát triển, TP.HCM dựa vào một số ngành chủ lực như dòch vụ,
công nghiệp và xây dựng, thương mại, nhà hàng, khách sạn, công nghiệp chế biến.
Nhu cầu bổ sung lao động ở các ngành này rất lớn. Nếu chỉ dựa vào nguồn nhân
lực tại chỗ của TP.HCM sẽ không bảo đảm được nguồn nhân lực cho các doanh
nghiệp nói riêng và cho sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố nói chung.
2.4 Nhu cầu lao động của các doanh nghiệp trên đòa bàn TP.HCM
Với nguồn cung của thò trường lao động TP.HCM hết sức đa dạng và phong phú, tổng
nguồn cầu của thò trường lao động thành phố trong những năm vừa qua cũng hết sức
20
phong phú và đa dạng, với sự cho phép tồn tại, phát triển kinh tế háng hoá nhiều
thành phần và hàng loạt các chính sách kinh tế đúng đắn. Chủ trương đổi mới chính
sách kinh tế đã được thể chế hoá bằng các Nghò đònh, Luật của Chính phủ. Cụ thể là
năm 1988, Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ đã ban hành các nghò đònh số 27, 28,
29 ban hành quy đònh đối với chính sách kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh, kinh tế tập
thể và kinh tế gia đình. Cùng với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm
1987, năm 1990 Quốc Hội đã thông qua 2 Luật về doanh nghiệp tư nhân và Luật công
ty, theo đó các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( liên doanh, 100% vốn nước
ngoài ) các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được
hình thành và hoạt động tại Việt Nam. Hơn thế nữa với sự ra đời của Luật doanh
nghiệp mới đã khuyến khích sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp trong thời gian
gần đây. Như vậy, song song với thành phần kinh tế nhà nước ( doanh nghiệp nhà
nước ) ở Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng đã hình thành các loại hình tổ
chức kinh tế thuộc khu vực kinh tế cá thể, tư bản tư nhân trong và ngoài nước.
Các loại hình tổ chức doanh nghiệp theo các thành phần kinh tế trên đòa bàn TP.HCM
hiện nay bao gồm :
9 Hình thức kinh tế nhà nước hay kinh tế quốc doanh được thành lập và tổ chức
hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước được gọi là
doanh nghiệp nhà nước.
9 Hình thức kinh tế cá thể gồm hộ cá thể và hộ tiểu chủ trong tiểu thủ công
nghiệp, hộ kinh doanh cá thể trong kinh doanh thương mại dòch vụ đăng ký
theo NĐ 66/HĐBT.
9 Hình thức kinh tế tập thể bao gồm Hợp tác xã, tổ hợp ( tổ sản xuất ), nhóm kinh
doanh, theo NĐ 66/HĐBT và Luật hợp tác xã ( HTX )
9 Hình thức kinh tế tư doanh bao gồm xí nghiệp, công ty tư doanh ( trước đây),
21
sau khi có Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty là xí nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
9 Hình thức xí nghiệp liên doanh là các công ty, xí nghiệp liên doanh giữa vốn
nhà nước với vốn tư nhân ( trước đây còn là xí nghiệp hợp doanh ) theo NĐ
28/HĐBT, xí nghiệp liên doanh vốn của tư nhân trong nước, công ty tư bản tư
nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam 100% vốn ( theo luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam )
Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp ( xem phụ lục 3 và 4 )
Trong các năm 2001-2005 các doanh nghiệp trên đòa bàn thành phố tiếp tục phát
triển thu hút lao động, bình quân mỗi năm thu hút trên 215.000 người lao động. Trong
vòng 5 năm qua nhu cầu lao động tại TP.HCM tăng lên rất nhanh. Tổng số nhu cầu
lao động từ 2001 – 2005 là 1.005.415 người. Đặc biệt là các doanh nghiệp trong
ngành dòch vụ như : Thương nghiệp, khách sạn nhà hàng; vận tải, kho bãi, bưu điện;
tài chính, tín dụng; khoa học công nghệ, kinh doanh tài sản… nhu cầu lao động lên tới
535.195 người, kế đến là các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến, khai
thác và xây dựng…369.837 người, các doanh nghiệp trong ngành nông lâm thủy sản là
100.393 người.
Biểu 5 : Nhu cầu lao động TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2001 – 2005
Đơn vò : Người
Ngành nghề Nhu cầu lao động
Nông lâm sản 82.006
Thủy sản 18.387
Công nghiệp khai thác 31.878
Công nghiệp chế biến 255.591
CNSX và phân phối điện nước 46.722
Xây dựng 35.646
Dòch vụ 535.195
Thương nghiệp 124.367
22
Khách sạn & nhà hàng 68.994
Vận tải, kho bãi, bưu điện 29.146
Tài chính, tín dụng 12.237
Khoa học công nghệ 15.551
Kinh doanh tài sản & tư vấn 23.478
Các họat động dòch vụ khác 261.422
Tổng cộng 1.005.415
Nguồn : Sở LĐ – TBXH TP.HCM
Biểu 6 : Nhu cầu lao động TP.HCM theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ giai
đoạn 2001 – 2005
Đơn vò : Người
2001 – 2005
Ngành
CNKT, NVNV TCCN CĐ, ĐH Sau ĐH Tổng cộng
Nông, lâm, thủy
CN và XD
Các ngành dòch vụ
51.123
181.615
319.686
4.005
30.145
45.294
3.895
45.344
22.249
214
5.014
5.018
59.237
262.118
392.247
Tổng cộng 552.424 79.444 71.488 10.246 713.602
Nguồn : Sở LĐ – TBXH TP.HCM
Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng của TP.HCM trong vòng 5 năm qua là
khá cao, tốc độ tăng GDP hằng năm đạt trên dưới 10,5%. Cơ cấu GDP có xu hướng
dòch chuyển dần sang các ngành công nghệ cao và các ngành thương mại dòch vụ.
Đặc biệt, TP.HCM là một trung tâm kinh tế của cả nước nên phát triển mạnh loại
hình hoạt động kinh doanh, dòch vụ cá thể, kinh tế hộ gia đình, bình quân hàng năm
có thêm 50.000 người có việc làm trong lónh vực này. Trong khu vực nông thôn ngoại
thành, nhiều ngành nghề được khôi phục và phát triển đã tạo việc làm ổn đònh cho lao
động ngoại thành.
Tình hình biến động lao động của các doanh nghiệp trên đòa bàn thành phố : Trong
năm 2005 số lao động trong các doanh nghiệp tăng 166.518 người chiếm tỷ lệ 33,7%
so với tổng số lao động làm việc năm 2004; số lao động giảm 123.890 người chiếm tỷ
lệ 25,07%. Như vậy, số lao động trong các doanh nghiệp tăng thực tế so số lao động
23
đang làm việc năm 2004 là 8,63%; thực tế biến động lao động trong các doanh nghiệp
rất lớn nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bình quân tuyển mới 03 lao động
thì có 02 lao động đang làm việc trước đó di chuyển đến nơi khác, tỷ lệ biến động lao
động bình quân 40-50%. Đặc biệt, biến động lao động tại các đơn vò sản xuất thuộc
ngành may rất cao, bình quân 20%/năm (di chuyển qua lại trong các đơn vò sản xuất
may khoảng 40.000 người/năm), đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong
nước có những đơn vò biến động lao động 50-60%/năm. Từ đó tỉ lệ lao động thôi việc,
bỏ việc, chuyển chỗ làm việc và tỉ lệ tuyển dụng lao động mới cũng rất cao bình quân
18-20%/năm/doanh nghiệp. Sự chuyển dòch lao động cao giữa các ngành kinh tế hoặc
giữa các khu vực là do có sự chênh lệch về tiền lương thu nhập, nhất là đối với lao
động nhập cư.
Tình hình tuyển dụng lao động : Trong giai đoạn 2001- 2005, lao động tại các doanh
nghiệp được tuyển dụng thông qua hệ thống giới thiệu việc làm của nhà nước và một
số ít các doanh nghiệp dòch vụ việc làm chiếm 25% trong tổng số lao động tìm được
việc làm hàng năm trên đòa bàn thành phố, đại bộ phận là do doanh nghiệp tự tuyển
hoặc các kênh thông tin riêng (qua mạng internet, báo chí, người quen….).
Do đòi hỏi của nền kinh tế, các doanh nghiệp có nhu cầu về lao động qua đào tạo là
khá cao. Tổng số nhu cầu lao động qua đào tạo là 713.602 người. Điều đáng chú ý là
nhu cầu về lao động được đào tạo sau đại học chiếm số lượng đáng kể lên đến 10.246
người. Nhu cầu về công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ vẫn chiếm chủ yếu,
trong vòng 5 năm qua là 552.424 người; nhu cầu lao động về trung cấp chuyên nghiệp
là 79.444 người, nhu cầu về lao động có trình độ cao đẳng đại học là 71.488 người.
Trong tổng số lao động tuyển cho năm 2005, tỉ lệ về trình độ chuyên môn kỹ thuật từ
cao đẳng, đại học trở lên chiếm 17,27%; trung học chuyên nghiệp: 6,99%; công nhân
kỹ thuật : 21,69% trong đó công nhân kỹ thuật từ bậc 3 trở lên chiếm 16,33%. (Nguồn
24
số liệu: Báo cáo tình hình sử dụng lao động năm 2005 của các doanh nghiệp trên đòa
bàn thành phố)
Các ngành nghề có nhu cầu tuyển nhiều lao động là dệt - may - giày da :
37,37%; xây dựng : 15,86%; cơ khí: 4,17%; công nghệ thông tin: 4,32%; điện - điện
tử: 2,12%; kế toán - tín dụng - kinh doanh : 9,12%...(Nguồn số liệu: Báo cáo nhu cầu
tuyển mới lao động năm 2005 của các doanh nghiệp trên đòa bàn thành phố).
Khảo sát của Sở LĐ – TBXH thành phố về tình hình sử dụng lao động và nhu cầu
tuyển dụng của các doanh nghiệp cho thấy 40% số doanh nghiệp hài lòng về lao động
qua đào tạo 60% chưa hài lòng. Lý do chưa hài lòng bao gồm : thiếu kinh nghiệm
chuyên môn : 38%, thiếu hiểu biết về các khía cạnh kinh tế vào điều kiện sản xuất
kinh doanh : 15%, kiến thức ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu : 20%, kiến thức
phổ thông hạn chế : 20%, kiến thức kỹ thuật hạn chế : 8%, lý do khác ( ít động lực
làm việc, năng suất lao động thấp, không có tinh thần trách nhiệm…) : 14%.
Các doanh nghiệp ở TP.HCM đã hết sức khó khăn trong việc tuyển dụng đối với
một số chưc danh vò trí như giám đốc nhân sự; giám đốc tài chính; các chức danh tổng
quản lý, điều hành các chương trình, các dự án; giáo viên dạy nghề…Các nghề, nghiệp
vụ như: thiết kế quảng cáo, nghiên cứu thò trường, thiết kế mẫu, đầu bếp… Dường như
việc tìm kiếm cử nhân kinh tế , quản trò kinh doanh hiểu biết về luật pháp kinh tế,
soạn thảo được các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại… cử nhân luật hiểu cặn kẽ
cách tính thuế của các luật thuế, cách tính tiền lương, phụ cấp trong luật lao động… kỹ
sư kỹ thuật, công nghệ hiểu biết rõ ràng các quy đònh về môi trường, đọc được các tài
liệu kỹ thuật nước ngoài… ngày trở nên hiếm hoi, khó khăn vô cùng. Đó lại là một
bằng chứng khác về sự nghòch lý của thò trường lao động TP.HCM.
Kết quả điều tra của người viết về nhu cầu lao động của các doanh nghiệp ( xem phụ
lục 5 – 11 ) :
25
Kết quả điều tra nhu cầu lao động tại 50 doanh nghiệp mới đây của người viết cho
thấy hiện nay tình trạng sử dụng lao động của các doanh nghiệp có những đặc điểm
như sau :
9 Thiếu lao động kỹ thuật và thừa lao động phổ thông. Chẳng hạn, loại lao động
chuyên gia kỹ thuật thiếu trên 21%, trong đó doanh nghiệp nhà nước thiếu đến
44,98%, khu vực ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài thiếu trên 21%. Công
nhân kỹ thuật thiếu trên 25%, trong đó doanh nghiệp nhà nước thiếu trên 42,56%,
khu vực ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài thiếu trên 25%… trong đó lao
động phổ thông không có tay nghề ở các doanh nghiệp nhà nước thừa đến 1,67%.
9 Về phân loại lao động thì kết quả điều tra lao động cho thấy lao động nhập cư từ
nơi khác vào thành phố chiếm đến 55% và lao động có nguồn gốc tại chỗ
TP.HCM chỉ chiếm có khoảng 45%. Cụ thể như sau :
Biểu 7 : Phân loại nguồn gốc lao động
Khu vực quốc
doanh
Ngoài quốc doanh Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài
LĐNC LĐTC LĐNC LĐTC LĐNC LĐTC
Tỷ lệ lao động (%) 54,5 45,5 56,88 43,12 48,87 51,13
9 Hầu hết các doanh nghiệp đều nhận đònh là có khó khăn trong việc tuyển dụng
lao động có trình độ chuyên môn, mà chủ yếu là lao động có trình độ chuyên môn
cao. Cụ thể khó khăn nhất là ở khối các doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 58,04%
9 Tỷ lệ đào tạo lại lao động của các doanh nghiệp cũng thể hiện sự bất cân xứng
giữa đào tạo và nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp
đều phải đào tạo lại cho người lao động mà tập trung chủ yếu các doanh nghiệp
nhà nước. Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chủ yếu chỉ đào tạo lại cho cán bộ nghiệp vụ và công nhân trực tiếp
sản xuất là chiếm tỷ trọng cao.