Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

chuỗi cung ứng xe máy hon da

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.67 KB, 23 trang )

Lời nói đầu:
Để cạnh tranh thành công trong môi trường kinh doanh đầy biến động như hiện
nay, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tham gia vào công việc kinh doanh của nhà cung
cấp cũng như khách hàng của họ bằng việc xây dựng riêng cho mình một chuỗi cũng
ứng hoàn chỉnh. Phát triển chuỗi cung ứng hoàn chỉnh sẽ tạo nền tảng cho doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí không cần thiết; nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, tăng
sức cạnh tranh của các sản phẩm với đối thủ. Ngoài ra, nó còn giúp cho nền công
nghiệp trong nước gia nhập chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, phát triển thị trường tiêu
thụ ra toàn thế giới. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm sâu sắc đến toàn
bộ dòng dịch chuyển nguyên vật liệu, cách thức thiết kế và đóng gói sản phẩm và
dịch vụ của nhà cung cấp, cách thức vận chuyển, bảo quản sản phẩm hoàn thiện và
những điều mà người tiêu dùng yêu cầu. Đặc biệt với ngành công nghiệp xe máy đang rất
phát triển ở nước ta hiện nay.
Vậy các doanh nghiệp trong ngành xe máy phải làm gì để xây dựng được chuỗi
cung ứng đáp ứng được những yêu cầu của thị trường. Xin mời cô và các bạn đồng
hành cũng nhóm 8 nghiên cứu đề tài: “Chuỗi cung ứng xe máy của Honda Việt nam”.
Từ đó xác định mô hình chuỗi cung ứng của Honda, những thành công và thách thức của
chuỗi qua đó đề ra các giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng xe máy của Honda Việt Nam.
Phần A: Cơ Sở Lý Luận
I. Khái niệm chuỗi cung ứng
• Khái niệm chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng là tập hợp gồm ba hay nhiều doanh nghiệp như đơn vị sản xuất ,cung
ứng,khách hàng kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau,kết cấu với nhau qua ba dòng :
vật chất,thông tin và tài chính
- Dòng vật chất: con đường lưu thông và chuyển hóa về dòng vật chất đi từ nhà cung cấp
đến khách hàng,đúng và đủ về chất lượng,số lượng.Dòng vật chất có 3 dạng vật chất lưu
chuyển là : vật liệu thô,bán thành phẩm,sản phẩm cuối cùng.
- Dòng thông tin : dịch chuyển dữ liệu cung cầu ,chứng từ ,thể hiện sự tương tác 2 chiều
và đa chiều.Dòng thông tin có 2 dạng :dòng hoạch định và dòng tác nghiệp.Dòng này tạo
sự liên kết và phối hợp nhịp nhàng giữa các quy trình hoạt động với tất cả các thành viên
trong chuỗi.


- Dòng tài chính :có 3 dạng thanh toán ,tín dụng ủy thác và sở hữu.
• Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng
Quản trị chuỗi cung ứng là việc thiết kế,lập kế hoạch ,triển khai quản lý các quy trình tích
hợp các thành viên trong chuỗi nhằm tối đa hóa giá trị cho toàn chuỗi.
Quản lý chuỗi cung ứng là công việc không chỉ dành riêng cho các nhà quản lý về chuỗi
cung ứng.Tất cả những bộ phận khác của một tổ chức cũng cần tìm hiểu về SCM bởi họ
cũng trực tiếp ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của chuỗi cung ứng
II: Mục tiêu, phạm vi chuỗi cung ứng
• Mục tiêu của quản trị chuỗi cung ứng
Quản trị chuỗi cung ứng nhằm tối đa hóa giá trị tạo ra cho hệ thống
Giá trị của chuỗi cung ứng
- sự khác biệt giữa giá trị của sản phẩm cuối cùng với nỗ lực mà chuỗi cần dùng vào
việc đáp ứng nhu cầu khách hàng.
- Giá trị có liên quan mật thiết với lợi nhuận của chuỗi
- Sự thành công của chuỗi được đo lường bằng tổng lợi nhuận(so với các chuỗi cạnh
tranh khác)
- Khách hàng cuối cùng bằng nguồn thu duy nhất của chuỗi trên thẩm định giá trị
của toàn chuỗi
• Phạm vi chuỗi cung ứng
Chuổi cung ứng trực tiếp
Nhà cung cấp
Công ty sản xuất
Khách hàng
Chuổi cung ứng mở rộng
Nhà c.cấp đầu tiên
Nhà cung cấp
Công ty sản xuất
Khách hàng
KH
Cuối cùng

Chuỗi cung ứng hoàn chỉnh
Nhà c.cấp đầu tiên
Nhà cung cấp
Công ty sản xuất
Khách hàng
KH
Cuối cùng
Thầu phụ
ĐV dịch vụ tài chính
Nhà t.kế sản phẩm
ĐV dịch vụ logistics
Công ty n.cứu thị trường
Thượng nguồn
Bậc 2 Bậc 1
Hạ nguồn
Bậc 1 Bậc 2
DN trọng tâm
Phần B: Thực trạng chuỗi cung ứng tại công ty HonDa Việt Nam.
I. Tình hình sản xuất và tiêu thụ xe máy tại Việt Nam
1.1. Tình hình sản xuất và nguồn cung xe máy
Hiện nay, tình hình sản xuất và nguồn cung xe máy tại Việt Nam cụ thể, với 3 nhà máy
sản lượng sản xuất của Honda vào khoảng hơn 2,5 triệu xe/năm, con số này của Yamaha
là 1,5 triệu xe. Cộng thêm của Piaggio hơn 300.000 chiếc, SYM 300.000 chiếc, Suzuki
200.000 chiếc và một số doanh nghiệp khác khoảng hơn 100.000 chiếc, tổng sản lượng
xe máy sản xuất trong nước hiện xấp xỉ 5 triệu chiếc/năm.
Ít có năm nào thị trường xe máy lại có tần suất ra sản phẩm mới nhiều như năm 2013.
Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm, chỉ riêng 4 doanh nghiệp FDI là Honda, Piaggio,
Yamaha và Suzuki đã tung ra thị trường gần 20 mẫu xe mới và các phiên bản nâng cấp
của những dòng xe hiện tại.
Các công nghệ mới như phun xăng điện tử, hệ thống tự ngắt động cơ hay động cơ 3V

được “bình dân hóa” và phổ cập trên nhiều dòng xe. Ra nhiều sản phẩm nhất là Honda
Việt Nam với tổng cộng 6 dòng xe trong đó có một sản phẩm lần đầu có mặt trên thị
trường. Nếu các mẫu xe số như Future hay Wave chỉ là phiên bản cải tiến với những thay
đổi nhỏ về ngoại thất như tem xe thì Lead và Super Dream được làm mới cả trong lẫn
ngoài. Không ra nhiều xe bằng Honda nhưng Piaggio Việt Nam cũng còn tần suất ra xe
mới lớn hơn trước với tổng cộng 3 mẫu xe gồm Liberty, LXV và LT. Không kém cạnh so
với Honda hay Piaggio, Suzuki và Yamaha cũng đua nhau ra xe mới. Suzuki tung mẫu xe
côn tay mới có tên Axelo và hồi sinh lại dòng xe một thời Viva 115 Fi với những thay đổi
lớn về thiết kế và động cơ. Về độ phủ, Honda hiện có tới 640 đại lý uỷ quyền trên toàn
quốc. Trong khi Yamaha tính cả các cơ sở sửa chữa là 540. SYM có khoảng 320, Suzuki
gần 120 và Piaggio là 90.
Năm 2012, dòng xe ga (cả cao cấp và bình dân) tăng trưởng mạnh, chiếm tới hơn 40%,
và người dân hiện cũng chuộng dòng xe ga này hơn là xe số. Cùng với đó là việc các
hãng xe đã bắt đầu tập trung phát triển phân khúc này. Cụ thể, Yamaha có 4 mẫu, còn
Honda có tới 5 trong tổng số 6 sản phẩm ra mắt trong năm 2012 là xe ga.
Hiện nay trên thị trường Việt Nam, các hãng xe máy có vốn FDI thì Honda chiếm khoảng
65% thị phần xe máy. Ngay phía sau là Yamaha với 25%, và 10% còn lại là các thương
hiệu khác như SYM, Piaggio.

Theo quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030 đã được điều chỉnh, xe máy sẽ bị khống chế số lượng ở mức 36
triệu xe vào năm 2020. Tuy vậy, theo số liệu thống kê của Bộ Giao thông Vận tải, tính
đến quý 1-2013, số xe máy đăng ký lưu hành trên thực tế đã hơn 37 triệu chiếc. Có thể dự
đoán trong những năm sắp tới đây sẽ có các biện pháp mạnh nhằm hạn chế xe máy. Bên
cạnh đó, việc các nhà sản xuất xe máy liên tục mở rộng quy mô sản xuất trong mấy năm
trở lại đây khiến lượng xe sản xuất ra hàng năm vượt xa doanh số bán thực tế. Vậy nên,
các DN sản xuất xe máy cũng thừa nhận, tình hình kinh doanh xe máy tại Việt Nam đang
gặp khó khăn và sẽ còn tiếp tục khó khăn trong thời gian tới. Thị trường trong nước suy
giảm khiến các hãng xe đẩy mạnh hơn quá trình xuất khẩu xe ra nước ngoài. Tuy nhiên,
cho tới nay mới chỉ có Honda và Piaggio tỏ ra có lợi thế khi đã xuất khẩu khá nhiều dòng

xe ra thị trường Đông Nam Á, Châu Âu hoặc Nhật.
1.2. Tình hình tiêu thụ xe máy trên thi trường Việt Nam.
Với dân số lên đến 87 triệu người, thu nhập bình quân mới đạt khoảng
1200 USD/người/năm, hiện nay xe máy vẫn là phương tiện giao thông chủ đạo,
không thể thiếu ở Việt Nam. Sức tiêu thụ xe máy ở nước ta vẫn có tốc độ gia
tăng cao, năm 2011 sức tiêu thụ sản phẩm xe máy đã tăng tới 18%, đạt 3,3 triệu
xe. Nếu không tính số xe do các công ty nhỏ lẻ nhập khẩu không chính thức thì trong
năm 2012 , 5 nhà sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã giao đến tay người
tiêu dùng 3,11 triệu chiếc xe máy. Trong tổng số hơn 3,11 triệu xe này, Honda Việt Nam
đóng góp 1,95 triệu xe, cao gấp đôi số lượng của thương hiệu đứng thứ 2 là Yamaha -
khoảng 800.000 xe. Ngoài ra, số liệu thống kê cho thấy, SYM - thương hiệu xe ga của
Đài Loan - cũng khá được lòng khách hàng Việt Nam, khi đứng trên cả Piaggio và
Suzuki.
Rõ ràng, thị trường xe máy nội địa là mảnh đất “màu mỡ” cho các hãng. Theo dự báo
của Viện Chiến lược – Chính sách Công ,đến năm 2010 cả
nước có khoảng 25 triệu xe máy, 2015 khoảng 31 triệu xe, và 2020 khoảng 35
triệu chiếc. Tuy vậy ngành xe máy hiện nay đang đứng trước nguy cơ bão hòa
sớm. Bộ Công Thương từng tính toán vào năm 2020 số xe máy lưu hành trên cả
nước sẽ đạt khoảng 33,5 triệu chiếc, dân số đạt khoảng 99,6 triệu người, đưa tỷ
lệ sử dụng xe máy ở Việt Nam lên tới 2,97 người/xe. Tại Thái Lan, tỷ lệ này
hiện là 2,9 và đã đạt mức bão hòa. Hay như dự báo của GS. Kenichi Ohno, Viện Nghiên c
ứu chính sách Quốc gia Nhật Bản, khi lượng xe máy tại Việt Nam đạt
tới con số 30 triệu chiếc, thị trường sẽ bão hòa. thời điểm này dự tính rơi vào những năm
2017- 2020.
Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Giao thông Vận tải,tính đến tháng 8/2011,
lượng xe máy đăng ký lưu hành đã đạt mức 33,4 triệu chiếc.tính toán sơ bộ đến cuối nă
m 2012 tổng sản lượng xe máy sản xuất lên mức khoảng 5 triệu
chiếc/năm,trong khi đó nhu cầu thị trường đang ở mức thấp hơn nhiều năm
2009 cả nước tiêu thụ khoảng 2,75 triệu chiếc,sang năm 2010 đạt mức gần 3
triệu chiếc và năm 2011 đạt xấp xỉ 3,3 triệu chiếc. Như vậy bối cảnh thị trường xe máy tr

ong thời gian tới là sẽ dư thừa nguồn cung, qua đó đòi hỏi Honda Việt Nam cũng như các
hãng xe khác phải có chiến lược kinh doanh hợp lí để cạnhtranh, đặc biệt cần hướng đế
n chiến lược xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường tiềm năng như
Châu Phi, Đông Nam Á, Nam Á…
Sau một thời gian phát triển nóng, từ hai năm trở lại đây, thị trường xe máy Việt
Nam bắt đầu có dấu hiệu suy thoái mạnh. Lượng cung thường xuyên vượt cầu, sức mua
thực tế của người dân liên tục giảm, ngay cả trong những thời điểm vốn rất sôi động như
dịp cuối năm. Nếu trước đây, trong 3 tháng cuối năm, những người kinh doanh các dòng
xe máy phổ thông cả nội lẫn nhập chỉ lo không đủ nguồn hàng để bán và giá các dòng xe
ăn khách thường xuyên loạn thì nay xe sẵn.
Nhiều năm qua, không chỉ thành phố mà kể cả địa bàn nông thôn, số hộ gia đình sử dụng
xe máy được "phủ sóng” gần như đạt tỷ lệ tuyệt đối. Tại nhiều nơi, nhất là khu vực đô thị,
tỷ lệ người lao động với xe máy đạt hệ số 1:1. Giá giảm mà khách vắng vẫn hoàn vắng
đặc biệt là tại hai thị trường lớn là Hà Nội và TP HCM. Không ít đại lý cửa hàng bán xe
tại Hà Nội và TP HCM rơi vào tình trạng thua lỗ, phải thu hẹp quy mô kinh doanh, san
nhượng thậm chí đóng cửa.
Kinh tế khó khăn là nguyên nhân được phần lớn người kinh doanh xe đưa ra để lý giải
cho tình trạng ế ẩm hiện nay. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia bên cạnh
nguyên nhân liên quan tới tình trạng kinh tế, thực trạng gần như bão hòa của thị trường
xe máy cũng như sự xuất hiện của của những lựa chọn khác như xe đạp điện cũng là tác
nhân quan trọng không kém khiến xe máy ế.
Bên cạnh đó, nhiều người dân hiện bỏ xe máy chuyển sang dùng xe đạp hoặc xe đạp điện
để tiết kiệm chi phí xăng dầu trong khi một số khác có điều kiện lại chuyển sang chơi
môtô, nhất là khi các quy định về thi bằng A2 được nới lỏng.
Thực tế cũng cho thấy thị trường Hà Nội và TP HCM đang là một miếng bánh rất khó
nhằn với người kinh doanh xe máy bởi sức mua thực tế thấp mà sự cạnh tranh lại quá
nhiều. Ngoài hàng trăm mẫu xe đến từ 5 doanh nghiệp FDI lớn là Honda, Yamaha,
Piaggio, SYM và Suzuki, khách hàng tại các thành phố lớn còn nhiều lựa chọn đến từ các
thương hiệu khác như Lambretta, Sachs bike
Giới kinh doanh xe dự đoán với tình hình buôn bán như hiện nay sang năm 2014 sẽ có

thêm nhiều những đại lý, cửa hàng tại Hà Nội và TP HCM phải ngừng hoạt động. . Thị
trường xe máy được nhận định sẽ tiếp tục suy giảm trong năm 2014 và cuộc chiến giữa
các nhà sản xuất sẽ thêm khốc liệt.
Tuy Việt Nam là nước sản xuất xe máy lớn thứ 2 trên thế giới, hàng năm xuất xưởng
hàng triệu chiếc xe máy nhưng người Việt Nam vẫn phải mua những chiếc xe máy
với giá đắt hơn ở các thị trường nước khác. Giá xe máy ở Việt Nam đắt gấp đôi so
với các nước khác trên thế giới. Từ 12-24 triệu đồng, người dân Indonesia hay Ấn
Độ có thể sở hữu những chiếc xe số, xe tay ga, xe côn dáng thể thao đủ chủng loại
trong khi đó với mức tiền này, người Việt Nam chỉ mua được Honda Dream, Honda
Wave hay một số mẫu xe của Suzuki, SYM với không nhiều trang bị hiện đại.
Ở Việt Nam, hiếm có loại xe tay ga nào được bán với giá 20 triệu đồng, trong khi chỉ từ
14-16 triệu là có thể sở hữu một mẫu xe tay ga TVS Jupiter, Honda Activa-iscooter.
Với dòng xe cao cấp như Vespa, có 270 triệu đồng tại Indonesia là có thể sở hữu một
Vespa 946 thuộc dòng cao cấp nhât, nhưng ở Việt Nam, giá thị trường của loại xe máy
này khoảng 340 triệu, đắt hơn so với thị trường Indonesia 70 triệu.
Nguyên nhân của hiện tượng này 1 phần là do hiện tại trong nước nguồn cung ứng linh
kiện, phụ tùng chưa ổn định và săn có, 1 số đơn vị cung ứng lại không đảm bảo đủ
tiêu chuẩn mà các công ty đặt ra. Nên các doanh nghiệp sản xuất phải nhập khẩu
những linh kiện này từ nươc ngoài. Việc nhập khẩu này dẫn đến chi phí nguồn đầu
vào cao từ đó nâng cao giá thành sản phẩm. Mặt khác, chính phủ cũng có các quy
định nghiêm ngặt về việc tiêu thụ xe máy gồm các loại thuế tiêu thụ, lệ phí…

II. Mô hình chuỗi cung ứng của công ty Honda Việt Nam
• Giới thiệu về công ty Honda Việt Nam.
Công ty Honda Việt Nam là công ty công ty liên doanh giữa Công ty Honda Motor (Nhật
Bản) (42%), Công ty Asian Honda Motor (Thái Lan) (28%) và Tổng Công ty Máy Động
Lực và Máy Nông nghiệp Việt Nam (30%).
Giấy phép đầu tư: Số 1521/ GP ngày 22 tháng 3 năm 1996: Sản xuất lắp ráp xe máy.
Đến ngày 15 tháng 3 năm 2005, Công ty Honda Việt Nam nhận được Giấy phép đầu tư
điều chỉnh số 1521/GPĐC, bổ sung chức năng sản xuất lắp ráp ô tô.

Ngành nghề kinh doanh: Sản xuất và lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy nhãn hiệu
Honda; Sản xuất và lắp ráp ô tô dưới 9 chỗ ngồi.
Vốn pháp định: 62.900.000 USD (theo Giấy phép Đầu tư)
Vốn đầu tư: 209.252.000 USD (theo Giấy phép Đầu tư)
Kể từ khi bước chân vào thị trường Việt Nam, công ty đã lien tục đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng săn xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của thị trường. Honda đang
có 2 nhà máy lắp ráp và sản xuất xe máy đang hoạt động với công suất 1,5 triệu xe/năm.
Nhà máy xe máy thứ nhất:
Thành lập: Tháng 3 năm 1998
Trụ sở: Vĩnh Phúc
Vốn đầu tư: 290,427,084 USD
Lao động: 3.560 người
Công suất: 1 triệu xe/ năm
Nhà máy xe máy thứ hai: Chuyên sản xuất xe tay ga và xe số cao cấp.
Thành lập: Tháng 8 năm 2008
TRụ sở: Vĩnh Phúc
Vốn đầu tư: 64 triệu USD
Lao động: 1.375 người
Công suất: 500.000 xe/ năm
Hiện nay, Honda đang cho khởi công xây dựng nhà máy thứ 3 tại tỉnh Hà Nam, với vốn
đầu tư ước tính 120 triệu USD, công suất 500.000 xe / năm.
Từ ngày thành lập đến nay công ty Honda Việt Nam đã khẳng định được vị thế và uy tín
của mình trên thị trường xe gắn máy tại Việt Nam. Điều này có được là do công ty đã
luôn đạt được hiệu quả kinh doanh ở mức cao trong thời gian dài, tổ chức tốt các biện
pháp quản lý và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả nhằm không ngừng bảo toàn và phát
triển nguồn vốn.
Mặt khác tận dụng năng lực sẵn có của mình trong sản xuất kinh doanh công ty đã tiết
kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành, đặc biệt là hoạt động đẩy mạnh chiến lược nội
địa hóa đã nâng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm xe máy lên 70%.
Năm 2013, thị phần của Honda Việt Nam đạt 67% (riêng xa tay ga là 87% thị phần).

Doanh số đạt 1,9 triệu xe, với những mẫu xe bán chạy nhất là Wave và Air Blade.
Mô hình chuỗi cung ứng xe máy của công ty Honda Việt Nam
2.1. Nguồn cung cấp nguyên vật liệu.
Công ty Honda Việt Nam hiện chiếm trên 60% thị phần xe máy ở thị trường nội địa -
một trong những thị trường xe máy lớn của thế giới. Có được thành công như ngày hôm
nay là do HonDa đã xây dựng được hệ thống cung ứng linh kiện, phụ tùng với khoảng
110 doanh nghiệp với 23 doanh nghiệp 100% vốn của Việt Nam tham gia vào chuỗi
cung ứng linh kiện, phụ tùng cho Công ty Honda. Số còn lại do các công ty có vốn đầu tư
nước ngoài đến từ Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan… đảm nhiệm. Lý giải cho
việc phần lớn các nhà cung ứng của HonDa phần lớn đến từ nước ngoài là do mặc dù
ngành công nghiệp sản xuất xe máy của Việt Nam đã có bước tiến rất mạnh mẽ trong gần
2 thập kỷ vừa qua. Tuy nhiên, doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng trong nước lại
chưa phát triển tương xứng khiến thị phần linh kiện, phụ tùng chủ yếu vẫn rơi vào tay nhà
đầu tư nước ngoài. Có rất nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp nội địa phải chịu lép vế
trước doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong đó có nguyên nhân quan trọng là rất
nhiều doanh nghiệp nội địa chưa đáp ứng được tiêu chuẩn nhà cung cấp phụ tùng theo
yêu cầu của nhà sản xuất. Để “chen chân” vào chuỗi cung ứng, mỗi doanh nghiệp phải tự
nâng cao kỹ năng quản lý sản xuất, chất lượng sản phẩm; không chỉ đáp ứng được các
tiêu chuẩn chung trong việc sản xuất phụ tùng theo tiêu chuẩn kỹ thuật chính xác, mà còn
phải đáp ứng được tiêu chuẩn, tiêu chí riêng của mỗi nhà sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy,
như tiêu chí về trình độ quản lý sản xuất, chất lượng nhân sự; khả năng đáp ứng thời gian
giao hàng, chất lượng sản phẩm, số lượng sản phẩm; hệ thống sản xuất phải ổn định…
Công ty Honda mỗi năm sản xuất khoảng 2 triệu xe máy, số lượng chi tiết phụ tùng rất
lớn, nên HonDa không thể kiểm tra từng chi tiết, từng linh kiện, từng phụ tùng mà chỉ
kiểm tra xác suất trên cơ sở kiểm tra, đánh giá hệ thống quản lý của nhà cung cấp. Doanh
nghiệp cung cấp phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về chất lượng sản phẩm do mình cung
cấp cho Honda Việt Nam. Ngoài ra, doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy thường
đánh giá rất cao nhân sự cấp cao, người đứng đầu của nhà cung cấp sản phẩm về quan
điểm đổi mới doanh nghiệp để phù hợp với yêu cầu chất lượng và quản lý của họ. Ý thức
và nhận thức của nhân sự quản lý cấp cao của nhà cung cấp rất quan trọng. Doanh nghiệp

sản xuất có thể chưa cần doanh nghiệp cung ứng linh kiện, phụ tùng có ngay hệ thống
chuẩn 100%, nhưng người đứng đầu phải sẵn sàng chấp nhận các yêu cầu của họ về đổi
mới cho phù hợp với hệ thống quản lý. Doanh nghiệp Việt Nam thường bị trượt khỏi hệ
thống cung ứng linh kiện, phụ tùng là do nhân sự cao cấp không đáp ứng được yêu cầu
của doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy. Thêm vào đó, để trở thành nhà cung cấp
thì doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng
cũng như cải tiến sản phẩm. Hàng năm, các tập đoàn lớn luôn thay đổi thiết kế sản phẩm
mới, thay đổi công nghệ… nếu doanh nghiệp cung cấp không đáp ứng được thì rất khó
tham gia vào chuỗi cung ứng, thậm chí đã tham gia vào chuỗi cung ứng nhưng nguy cơ
“bị loại khỏi cuộc chơi” rất cao.
Hiện nay, liên quan đến những khó khăn mà Honda đang gặp phải khi lạm phát và GDP
xụt giảm, các doanh nghiệp cung ứng đều yêu cầu điều chỉnh giá bán phụ tùng, linh kiện.
Trước tình thế khó khăn như vậy, việc tăng giá sản phẩm là một điều tối kị với thị trường
xe máy cạnh tranh gay gắt như hiện nay, họ đã có chiến lược là Honda hợp tác win - win
với hệ thống nhà cung cấp của mình, thường đặt hàng với nhà sản xuất trước 3 tháng,
thỏa thuận với nhà cung cấp khi giá nguyên vật liệu chung của thị trường tăng trên 5% thì
hai bên ngồi lại thảo luận giá và đưa ra biện pháp để khắc phục khó khăn.
Từ những gì phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rằng HonDa quản lý nguồn cung với
bậc chiến lược như sau:
- Xây dựng gắn bó và tích hợp với nhà cung cấp
- Xây dựng, duy trì quan hệ, đặt quan hệ trước để mua hàng
- Tham gia năng động vào quá trình hoạch định chiến lược phối hợp.
Ngoài ra, chến lược nguồn cung mà HonDa sử dụng là chiến lược ít nhà cung cấp,
sử dụng vài nguồn cho một loại linh kiện, qua hệ hợp tác, dài hạn, ổn định, hợp đồng
cung ứng dài hạn, cung ứng đúng thời điểm. Việc sử dụng chiến lược trên tạo ra mối
quan hệ hợp tác lâu dài nhưng cúng giúp HonDa có thể ra sức ép cạnh tranh giữa các
nhà cung câp.
Không chỉ dựa vào các nguồn cung ứng nguyên vật liệu, các linh kiện thì ngày 20
tháng 03 năm 2014, Honda Việt Nam khánh thành phân xưởng Piston đầu tiên tại Việt
Nam. Không ngừng nâng cao tỉ lệ nội địa hóa nhằm tạo ra các sản phẩm với giá cả cạnh

tranh. Tiếp sau phân xưởng đúc chi tiết động cơ và phân xưởng sản xuất bánh răng, việc
đưa phân xưởng sản xuất Piston đi vào hoạt động sẽ giúp Honda Việt Nam nâng cao hơn
nữa tỉ lệ nội địa hóa của các sản phẩm và góp phần tạo nền tảng cho hoạt động xuất khẩu.
Phân xưởng Piston của Honda Việt Nam được xây dựng trên diện tích hơn 3.000 m2,
nằm trong khuôn viên nhà máy của Honda Việt Nam tại Phúc Thắng – Phúc Yên – Vĩnh
Phúc.
Với số vốn đầu tư gần 230 tỷ đồng, phân xưởng sản xuất Piston được thiết kế với sản
lượng tối đa là 2,4 triệu chi tiết/năm và được đưa vào hoạt động chính thức từ ngày 01
tháng 4 năm 2014.
Cùng với phân xưởng đúc chi tiết động cơ công suất 2 triệu bộ sản phẩm/năm,phân
xưởng sản xuất bánh răng với sản lượng lên tới 2,3 triệu sản phẩm/năm và trung tâm phụ
tùng với tổng diện tích và vốn đầu tư lớn sắp đưa vào hoạt động, việc đưa phân xưởng
Piston vào hoạt động sẽ là bước đi tiếp theo trong việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng,
tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động sản xuất trong nước và mở rộng xuất khẩu.
Một số nhà cung ứng của HonDa tại Việt Nam như:
+ Nittan Việt Nam
- liên doanh giữa Thái Lan và Nhật Bản. Đặt cơ sở sản xuất tại Bắc Ninh. - =
- Nittan Việt Nam chuyên cung cấp cho Honda các van động cơ xe máy và xe hơi.
- Đặc điểm sản phẩm: kích cỡ nhỏ, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi
trường,
+ Công ty Cổ phần Innotek
- chuyên sản xuất các linh kiện phụ tùng cho ô tô, xe máy và các ngành công
nghiệp phụ trợ, các dây chuyền sản xuất của nhà máy gồm: Dập, Hàn, Uốn, Tiện
và chế tạo khuôn gá.
+ Công ty sản xuất phanh Nissin
- Là công ty 100% vốn của Nhật Bản, thuộc tập đoàn Nissin Kygyo Nhật Bản, nằm
trên địa bàn xã Quất Lưu, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc.
- Công ty là nhà cung cấp các linh kiện phanh xe máy và ôtô cho thị trường Việt
Nam và xuất khẩu, trong đó thị phần hàng nội địa chiếm tới 70%, 30% số lượng
hàng còn lại xuất sang tập đoàn Nissin Kygyo Nhật Bản. Khách hàng nội địa chủ

yếu của Nissin chủ yếu là các công ty của Nhật Bản như Honda, Yamaha, Suzuki,
Vietnam Arai, trong đó hàng xuất cho Honda chiếm 50% tổng số hàng hóa cung
cấp cho thị trường nội địa. Hàng năm, công ty đạt sản lượng là 5 triệu sản phẩm,
trong đócung cấp linh kiện cho 1,7 triệu xe máy của Honda và khoảng 730.000 xe
của Yamaha. Sản phẩm của Nissin luôn giữ vững và chiếm lĩnh thị trường trong
nước và xuất khẩu.
- Để phục vụ việc sản xuất sản phẩm, Honda Việt Nam có sử dụng vật tư được cung
ứng từ 10 công ty tại Nhật Bản và 2 công ty liên doanh có nhà
máy tại Việt Nam (là VAP và MAP).Với nhiều nhà cung cấp như vậy có thể c
ho thấy mức độ tập trung của các nhà cung cấp là thấp và sức ép của các nhà
cung cấp cho HonDa cũng không cao. Lý giải cho lý do trên là do các nhà cung
cấp Nhật và các doanh nghiệp cung cấp như Map và Vap cũng đã cung cấp vật tư
cho HonDa khá lâu nên có thể nói HonDa là
một bạn hàng trung thành của các công ty trên. Từ đó có thể khẳng định mức độ g
ắn bó giữa công ty và các nhà cung cấp là chặt chẽ và chi phí chuyển đổi
nhà cung cấp là lớn. Điều tiếp theo phải nói tới là khả năng hội nhập dọc xuôi
chiều của các nhà cung cấp này khó xảy
- Mặc dù việc sản xuất và kinh doanh xe máy có mang lại lợi nhuận và thị trường
tiêu thụ xe máy còn rộng khắp nhưng do không có công nghệ chế tạo xe máy đặc
thù và do xe máy mang thương hiệu HonDa đã có mặt và chiếm lĩnh thị trường từ
khá lâu nên khả năng sản xuất xe máy ở các nhà cung cấp là khá thấp.
- Tuy có dự phòng các phương án về lượng cung như mua nguyên vật liệu cho cả
năm và dự trữ trong kho nhưng việc sản xuất của HonDa cũng đôi khi gặp khó
khăn do các nhà cung ứng từ Nhật Bản chịu ảnh hưởng do song thần, nhà cung
ứng Thái Lan ảnh hưởng do lụt lội cũng khiến sản xuất của HonDa bị ảnh hưởng .
2.2. Năng lực sản xuất
Từ khi bắt đầu đi vào sản xuất năm 1997, Công ty Honda Việt Nam đã nâng công suất
hàng năm lên đến 1,5 triệu xe đến tính đến thời điểm năm 2008. Hiện tại, với đợt mở
rộng năng lực sản xuất , Công ty TNHH Honda Việt Nam đang có kế hoạch mở rộng
năng lực sản xuất xe máy thêm 500.000 xe/ năm Honda Việt Nam như vậy công ty sẽ có

công suất 2 triệu xe máy/ năm với tổng số vốn đầu tư dự kiến lớn khoảng 70 triệu USD
(khoảng 6,3 tỷ yên) nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường xe máy Việt Nam đang ngày
càng tăng cao.
Ngày 24/7/1997, công ty chính thức sản xuất mẫu xe “Super Dream” và tháng 2/1998
mẫu xe này được tung ra thị trường nhanh chóng chiếm được niềm tin của người tiêu
dùng, đây là hiện tượng của ngành xe máy nói riêng và của ngành tiêu dùng nói chung.
Honda Việt Nam nhanh chóng có được vị thế trên thị trường Việt Nam, dựa vào đó, hãng
đã tăng năng lực sản xuất của mình, cho ra đầu vô số những mẫu xe mới hoàn toàn hoặc
cải tiến từ những mẫu xe cũ, nhưng nhìn chung các mẫu xe của Honda Việt Nam luôn tạo
được hiện tượng mỗi khi xuất hiện.Mẫu xe tay ga đầu tiên Click được giới thiệu ra thị
vào năm 2006, sau đó Honda Việt Nam lần lượt ra mắt các dòng xe ga khác như Air
Blade, LEAD. Những đợt mở rộng năng lực sản xuất xe máy về sau công ty luôn chú
trọng phát triển dòng xe tay ga, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường.
Như vậy 2/1998, Honda Việt Nam sản xuất những chiếc xe đầu tiên, 10 năm sau, tháng
7/2008, sản lượng của hãng xe đạt mốc 5 triệu chiếc, và tháng 9/2011 là 10 triệu chiếc.
Honda Việt Nam đã đạt sản lượng sản xuất lũy kế 7 triệu xe trong vòng 14 năm qua.
Trong đó, sản lượng bán hàng của công ty tăng mạnh vào năm 2009, đạt mức cao nhất từ
trước đến nay, nâng thị phần lên 63%.
Ngày 21/3/2014, chiếc xe thứ 15 triệu đã được xuất xưởng tại nhà máy Honda ở Vĩnh
Phúc
Nhìn vào biểu đồ trên, từ năm 2008 đến năm 2011 sản lượng xe của Honda Việt Nam
tăng 5 triệu xe nhưng với việc năng lực sản xuất bằng việc mở rộng quy mô chỉ chưa đầy
3 năm sản lượng xe máy của Honda cũng đã tăng 5 triệu xe.
Công ty Honda Việt Nam hiện tính đến năm 2014 có 3 cơ sở sản xuất xe máy và ngày 20
tháng 3 năm 2014 vừa qua Honda Việt Nam mở 1 phân xưởng Piston để sản xuất các linh
kiện nhằm không phải mua ngoài hoặc nhập khẩu các linh kiện xe máy.
Các cơ sở sản xuất của Honda Việt Nam
Nhà máy thứ nhất Nhà máy thứ hai Nhà máy thứ ba Nhà máy thứ tư
Địa điểm Tỉnh Vĩnh Phúc Tỉnh Hà Nam Hồ Chí Minh
Bắt đầu sản

xuất
Tháng 12/1997 Tháng 7/2008 Tháng 3/ 2014 1/4/2014
Năng lực sản
xuất
1 triệu xe/năm 1 triệu xe/năm 500.000xe/năm
đồng thời đang
sản xuất phụ
tùng
2,4 triệu chi
tiết/năm
Biểu đồ sản lượng xe máy cảu Honda trong 3 năm
Mẫu xe
chính
Future, Wave 110,
Wave Alpha,
Super Dream
SH, Sh mode,
Air Blade,
LEAD, Vision
Xe tay ga Các linh kiện
xe máy
Các nhà máy sản xuất xe máy trên đều có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường,
do HVN đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại vào sản xuất; lắp đặt động cơ phun xăng điện
từ, giúp giảm thiểu lượng khí thải ra môi trường và tiết kiệm nhiên liệu.
Kể từ năm 2011, Honda Việt Nam bắt đầu có kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu nhằm tiến tới
mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm xuất khẩu xe máy của Honda. Để thực hiện
được mục tiêu này, Honda Việt Nam đã và đang xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo nền
tảng vững chắc thực hiện mục tiêu.
Thứ nhất, sản xuất phục vụ cho thị trường trong nước được củng cố với việc hoạt động
của 2 nhà máy xe máy với công suất khoảng 2,1 triệu xe/năm nhằm tạo nền tảng vững

chắc cho mục tiêu xuất khẩu và nhà máy xe máy thứ 3 cũng đã bắt đầu đi vào hoạt động
từ tháng 3 năm 2014 bắt đầu bằng việc sản xuất phụ tùng và dự kiến sẽ sản xuất xe thành
phẩm từ tháng 10 năm 2014.
Thứ 2, trong năm 2013, Honda Việt Nam đã xuất khẩu đi các nước 40.000 xe và mục tiêu
xuất khẩu trong năm 2014 là 100.000 xe.
Tuy nhiên kinh tế khó khăn, tiêu thụ chậm cùng với các loại thuế và phí tăng cao khiến
doanh nghiệp trong năm qua phải cắt giảm sản lượng. Cụ thể, Honda Việt Nam đã phải
điều chỉnh kế hoạch sản xuất từ giữa năm 2012. Năng lực sản xuất của Honda Việt Nam
với 2 nhà máy ở tỉnh Vĩnh Phúc là 2 triệu xe/năm (năm 2011 đã sản xuất được 2,15 triệu
xe) nhưng năm 2012 chỉ sản xuất 1,93 triệu xe thay vì 2,3 triệu xe như dự báo. Nếu tính
cả 3 nhà máy, tổng công suất của Honda Việt Nam có thể đạt 2,5 triệu xe/năm, bằng 50%
của toàn bộ các nhà sản xuất xe máy ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Mạng lưới phân phối và thị trường tiêu thụ
• Mạng lưới phân phối.
Việc thiết kế và quản lý mạng lưới bán hàng là nội dung cơ bản của doanh nghiệp
trong giai đoạn đầu khi tung sản phẩm ra thị trường:
Mạng lưới bán hàng của Honda là tập hợp các kênh với sự tham gia của các chủ thể
khác nhau có sức mạnh và uy tín khác nhau để đưa sản phẩm từ cơ sở sản xuất của
Honda đến các khách hàng một cách thành công. Việc thiết kế và quản lý các kênh bán
các loại xe mới của Honda phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây:
- Phù hợp với tính chất của sản phẩm khi Honda tung ra thị trường.
- Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong việc tiếp cận và tìm mua sản
phẩm của Honda một cách dễ dàng nhất.
- Xem xét kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh với Honda và các đối thủ tiềm
tàng.
- Các kênh phân phối cần đảm bảo tăng doanh số bán của công ty và thiết lập mối
quan hệ bền vững với các trung gian.
Ngay từ khi bước chân vào thị trường Việt Nam, Honda đã chú tâm tới việc xây dựng
các cơ sở phân phối và bán hàng của hãng tại các trung tâm thành phố lớn rồi từ từ len lỏi
tới các cơ sở cấp huyện, thị trấn. Honda chủ yếu sử dụng kênh phân phối truyền thống.

Công ty Honda phân phối các sản phẩm thông qua mạng lưới cửa hàng Honda uỷ nhiệm.
Đó chính là các cửa hàng Bán xe và Dịch vụ do Honda uỷ nhiệm(gọi tắt là HEAD), được
xây dựng trên khắp đất nước nhằm cung cấp các sản phẩm chính hiệu của Honda Việt
Nam, để khách hàng có thể dễ dàng mua được các sản phẩm chính hiệu của Honda Việt
Nam cũng như các dịch vụ sau bán tới tận tay người tiêu dùng.
Hiện nay, hệ thống HEAD đã phát triển khắp trên 63 tỉnh thành với hơn 640 đại lý uỷ
quyền và hàng trăm các điểm bán lẻ, các cửa hàng dịch vụ do Honda uỷ nhiệm(HASS)
trên toàn quốc.
Để trở thành cửa hàng bán xe và dịch vụ do Honda Việt Nam ủy nhiệm (HEAD), các
doanh nghiệp cần đáp ứng một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, HEAD phải có một vị trí kinh doanh thích hợp, nghĩa là có mặt tiền và diện
tích đạt được tiêu chuẩn nhất định và ở những khu vực thuận lợi cho việc mua bán.
Thứ hai, HEAD phải có khả năng tài chính thực sự chắc chắn để có thể ứng trước một
khoản tiền thường là rất lớn cho việc trả tiền mua xe, đặt cọc tiền phụ tùng cũng như đầu
tư vào tài sản cố định ban đầu.
Thứ ba, các HEAD phải có một đội ngũ cán bộ công nhân viên lành nghề, đủ để bảo hành
và giải quyết trục trặc nếu có cho khách hàng
Công ty Honda cũng đưa ra các yêu cầu về xây dựng cửa hàng tiêu chuẩn đối với các
HEAD bao gồm Logo Honda, tiêu chuẩn nội thất, tiêu chuẩn ngoại thất.
Honda có những chiến lược phân phối rộng khắp với mức độ bao phủ cao của hệ thống
các cửa hàng HEAD tại các thành phố lớn hay các trung tâm đô thị và các hệ thống cửa
hàng uỷ nhiệm(HASS) và các đại lý bản lẻ khác tại các khu vực nông thôn.
Honda cũng có những chiến lược phân phối nhất định đối với các loại xe máy:
- Đối với các sản phẩm xe máy cao cấp như SH, Dylan thì Honda sử dụng chiến lược
phân phối đặc quyền. Đây là phương thức phân phối sản phẩm mà trong đó các dòng sản
phẩm cao cấp, thì được phân phối cho các cơ sở lớn của Honda quản lý, thường thì là ở
các thành phố lớn như thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các sản phẩm này
không được phân phối cho các đại lý bán lẻ của hãng. Và Honda không tốn nhiều chi phí
để kiểm soát các địa điểm bán hàng.
- Đối với các loại xe máy bậc trung hoặc bình dân thì Honda sử dụng chiến lược phân

phối rộng rãi, đảm bảo mức độ bao phủ rộng khắp các tỉnh thành trên cả nước.
Ví dụ về hệ thống HEAD tại quận cầu giấy.
Tuy nhiên, trên thực tế không giống như như chiến lược mà công ty Honda Việt Nam
đề ra nói ở trên. Đối với một số dòng sản phẩm có nhu cầu sử dụng quá cao,tình trạng
khan hiếm hàng luôn xảy ra, một trong những nguyên nhân gây nên là do các hệ thống
HEAD đã đưa hàng ra các cửa hàng tư nhân bên ngoài để nhận được các khoản hoa hồng
mà các cửa hàng tư nhân mang lại. Như thế đã hình thành thêm kênh phân phối không
chính thức. Các cửa hàng tư nhân này là kênh phân phối cấp 1 của hệ thống HEAD
nhưng so với Honda thì nó là kênh phân phối cấp 2.
Mối quan hệ của Honda Việt Nam với HEAD: Ban đầu, Honda quy hoạch mạng lưới
bán lẻ và tìm kiếm đối tác có thể cùng họ kinh doanh với tên gọi là HEAD của Honda
VN. Các HEAD này phải đảm bảo các tiêu chuẩn mà Honda VN đưa ra. Điều mà các
HEAD được hưởng là được treo biển hiệu với logo và thương hiệu của Honda cùng với
vieech Honda VN huấn luyện cho các HEAD đội ngũ công nhân lắp ráp, bảo
dưỡng. Honda VN không bán sản phẩm trực tiếp đến tận tay người tiêu dùng mà thông
qua các HEAD. Các HEAD không được nhận hàng kí gửi từ HVN mà phải trả tiền khi
mua hàng, tức là quan hệ đối tác kinh doanh độc lập chứ các HEAD không thuộc quyền
quản lí của HVN .
Hiện tại Honda vẫn đang áp dụng hệ thống đẩy( chuỗi cung ứng truyền thống) đó là
các quyết định sản xuất, phân phối dựa trên dự báo dài hạn. Dựa trên việc dự báo nhu
cầu tiêu thụ, các HEAD sẽ lập ra các kế hoạch đặt hàng và gửi về Honda. Tuy nhiên,
không phải cứ HEAD nào nhiều vốn là có thể mua số lượng lớn, găm hàng để tăng giá.
HVN sẽ đánh giá năng lực tiêu thụ để cung cấp sản phẩm cho các HEAD.
• Thị trường tiêu thụ.
Xe máy là phương tiện đi lại chủ yếu và quan trọng tại Việt Nam. Kể từ khi Honda
chính thức bước chân vào thị trường Việt Nam hơn 10 năm trước đây, công ty đã liên tục
mở rộng thị trường và đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng cao của thị trường xe máy
Việt Nam.
Tấn công vào thị trường Việt Nam, Honda luôn phấn đấu trở thành công ty được xã
hội mong đợi, ước mơ tạo động lực để sáng tạo ra những sản phẩm mang tính đột phá,

thúc đẩy sự chuyển động cũng như mang lại lợi ích cho xã hôi. Honda đã nghiên cứu và
cho ra đời những sản phẩm xe máy phù hợp với thị trường Việt Nam về đặc điểm nhân
khẩu học, truyền thống, văn hóa và các đặc điểm khác của người tiêu dùng Việt Nam.
Honda cung cấp sản phẩm cho tất cả các phân khúc, từ phân khúc cao cấp đến phân khúc
bình dân. Trong đó, phân khúc cao cấp gồm những sản phẩm như : xe máy Honda Spacy,
Dylan, SH. Phân khúc trung cấp gồm: Honda future, Airblade, Lead, Vision. Phân khúc
bình dân gồm: Honda Wave, Dream
Sản lượng hiện tại của Honda Việt Nam là khoảng 1.5tr xe mỗi năm(gồm 1tr xe số
và 0.5tr xe ga). Đặc biệt, thị trường xe tay ga đã có bước tăng trưởng rõ rệt đạt mức
750.000 xe(tăng 70% so với năm 2008). Với tiềm năng phát triển của thị trường xe tay
ga, ước tính trong thời gian tới, sản lượng xe tay ga sẽ liên tục tăng và đạt 1tr xe mỗi
năm, tăng gấp đôi hiện tại. Bên cạnh đó, HOnda đã quyết định mở rộng năng lực sản xuất
xe gắn máy lần này với mục đích chú trọng phát triển dòng xe tay ga nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của thị trường trong tương lai.
Hiện nay, Honda Việt Nam có nhiều dòng xe khác nhau phục vụ nhu cầu của các
khách hàng ở các mức thu nhập khác nhau như từ Wave Alpha 16.990.00đ đến SH 150cc
79.990.000đ. Trong đó, nổi bật nhất là dòng xe ga với sản phẩm được biết đến như: Air
Blade và Click luôn liên tục gây sốt trên thị trường khiến giá bán thực tế luôn cao hơn so
với giá bán mà Honda Việt Nam đề xuất. Từ 1996 lượng xe bán ra của công ty đã tăng
nhanh và tăng mạnh nhất là vào năm 2009 nâng thị phần lên đến 63%.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển rõ rệt, thu nhập của người dân ngày càng cao,
vì thế người tiêu dùng muốn được sử dụng những sản phẩm cao cấp, sang trọng, tiện lợi
và có chất lượng tốt. Để đáp ứng được nhu cầu này, công ty Honda Việt Nam đã sản xuất
các dòng sản phẩm xe tay ga để đưa ra thị trường. Điều này đã tạo được hiệu ứng rõ rệt
khi người dân đổ xô nhau đi mua các dòng sản phẩm này làm doanh thu của các hãng
khác giảm đi đáng kể. Theo các DN, năm 2013 dù doanh số bán xe máy giảm, nhưng xe
tay ga bán ra vẫn đạt gần 1,2 triệu chiếc, trong tổng số 2,8 triệu xe máy, chiếm khoảng
40% thị phần. Trong đó, công ty Honda Việt Nam sản xuất hơn 900.000 xe, chiếm tới
80% thị phần cả nước.
Bảo hành và kiểm tra định kỳ (KTĐK) là một yếu tố rất quan trọng trong hoạt động

sản xuất, kinh doanh xe gắn máy. Thời hạn bảo hành đối với các loại xe máy của Honda
Việt Nam là 20.000km hoặc 24 tháng tính theo trường hợp nào đến trước. Kiểm tra định
kỳ được thực hiện tại các HEAD hoàn toàn miễn phí cho khách hàng trong 6 lần.
Phần C: Giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng của công ty Honda Việt Nam.
I. Thành công của chuỗi cung ứng
Ngày nay nhu cầu về xe máy ở Việt Nam vẫn tiếp tục tăng cao bởi ngày càng có nhiều
người làm việc tại thành phố, cả sinh viên và công nhân, viên chức. thị trường xe máy
vẫn rất sôi động với mức tăng trưởng cao. Các chuyên gia Nhật Bản cho rằng trong 10
năm tới xe máy vẫn là phương tiện giao thông chủ yếu ở VN. Toàn quốc sẽ có 30 triệu xe
máy và dân số là 100 triệu người.
Luôn giữ vững vị trí dẫn đầu thị trường xe máy Việt Nam kể từ khi bắt đầu hoạt động,
Công ty Honda Việt Nam (HVN) không chỉ liên tục “làm mới” hình ảnh của mình bằng
các sản phẩm có chất lượng cao, công nghệ tiên tiến cùng dịch vụ chăm sóc khách hàng
chuyên nghiệp, mà còn góp phần quan trọng trong việc hình thành ngành công nghiệp xe
máy tại Việt Nam.
Kể từ chiếc Super Dream xuất xưởng vào năm 1998, bước sang năm 2014, HVN đã chia
sẻ niềm vui với ngành công nghiệp xe máy và người tiêu dùng trong nước khi chào mừng
chiếc xe thứ 15 triệu vào ngày 21/3 vừa qua. 15 triệu xe cho chặng đường 18 năm hoạt
động tại Việt Nam là một cố gắng lớn của công ty. Hiện nay Honda đang dẫn đầu về thị
phần xe máy Việt Nam với trên 60%, là thương hiệu luôn được người tiêu dùng an tâm
lựa chọn. Có được những thành công như vậy có sự đóng góp của chuỗi cung ứng
• Xây dựng 1 hệ thống các nhà cung ứng trên toàn thế giới giúp cho chuỗi cung ứng
linh kiện của Honda luôn đều đặn, chất lượng, đáp ứng được nhu cầu ngày càng
thay đổi . công ty đang cố gắng có NCC ổn định, để có mạng lưới phân phối rộng
khắp. vì các linh kiện có đảm bảo, tốt và bền chắc thì mới tạo ra được những chiếc
xe đạt chất lượng trước khi cho ra sử dụng Honda chú trọng trong việc kiểm tra,
kiểm soát chặt chẽ trong việc thu mua linh kiện, lựa chọn nhà cung ứng uy tín,
chất lượng.
• Các quy trình lắp ráp, lắp đặt được thực hiện nghiêm ngặt, kiểm soát từ khâu chọn
linh kiện, kiểm tra chất lượng, vận chuyển vào kho, quy trình lắp ráp…và phân

phối đến tay người tiêu dùng. Vì sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn của
người sử dụng nên công ty luôn được sản xuất và các linh kiện phụ tùng xe máy
đều mang bí quyết công nghệ Nhật Bản- là những chiếc xe và phụ tùng xe có chất
lượng toàn cầu.các phụ tùng của xe Honda được sản xuất tại những nhà máy có
công nghệ tiên tiến nhất, vượt qua những kiểm định khắt khe của Honda về các
tiêu chuẩn về tính năng, độ bền, tính tiện dụng, an toan với môi trường.
• Honda lựa chọn được nhà cung cấp tốt, vận hành nhịp nhàng, từ đó Honda có thể
đáp ứng nhu cầu khách hàng ở mức cao nhất với chi phí thấp nhất. giúp DN thu
hút them nhiều khách hàng, gia tăng thị phần, tiết kiệm chi phí từ đó gia tăng lợi
nhuận và doanh thu. Honda là nhà sản xuất động cơ lớn nhất thế giới với số lượng
hơn 14 triệu chiếc mỗi năm. Từ năm 2004 hãng bắt đầu chế tạo động cơ chạy
diezen vừa êm vừa không cần bộ lọc nhằm đáp ứng tiêu chuẩn ô nhiễm.
• Chính sách phân phối rộng rãi: tạo thuận lợi cho khách hàng dễ dang tìm được sản
phẩm chính Honda, thu hút khách hàng tiềm năng nhờ giới thiệu tại các hội chợ sx
nhưng khả năng kiểm soát hệ thống bán khó khăn vì ở xa đại lí chính, như công ty
TNHH sx phụ tùng oto xe máy VN VAP là DN cung cấp phụ tùng cho Honda tại
hưng yên giúp cung cấp, đáp ứng nhanh chóng nguyên vật liệu cho Honda, với
chất lượng và số lượng đáp ứng nhu cầu sx, Tạo được chỗ đứng vững chắc trong
lòng người tiêu dùng luôn được tín nhiệm cao với chất lượng sản phẩm và sự đa
dạng trong sản phẩm, đảm bảo mức giá phù hợp với giá HONDA quy định
• Phân phối đặc quyền là phương thức phân phối sản phẩm mà trong đó có sản
phẩm cao cấp SH thì được phân phối cho các cơ sở lớn của Honda quản lí,
thương thì ở HN và TPHCM  Để quản lí và không tốn nhiều chi phí để kiểm
soát địa điểm bán, dễ dang kiểm tra kiểm soát chất lượng
• Xây dựng mạng lưới rộng lớn các cửa hàng ủy nhiệm( HEAD). Với việc đưa ra
các tiêu chuẩn cao đối với các HEAD về địa điểm, cơ sở vật chất, đội ngũ nhân
viên và huấn luyện các quy trình, nghiệp vụ cho từng HEAD, Honda đã đảm bảo
mang đến cho khách hàng các sản phẩm chính hãng và dịch vụ bảo hành, sau bán
đến mọi khách hàng.
• Honda luôn chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng của các dich vụ chăm sóc

khách hàng, các dịch vụ bảo hành, sửa chữa. Mạng lưới các trung tâm dịch vụ
rộng khắp tạo nên sự khác biệt cho Honda. Mỗi cửa hàng Bán xe và Dịch vụ do
Honda ủy nhiệm (HEAD) trên toàn quốc đều là một trung tâm bảo hành, bảo
dưỡng sản phẩm theo đúng tiêu chuẩn của Honda với trang thiết bị hiện đại và đội
ngũ kỹ thuật viên được đào tạo chính quy và giàu kinh nghiệm. Tại các HEAD và
HASS (Cửa hàng Dịch vụ do Honda Ủy nhiệm) , kỹ thuật viên là những người
trực tiếp thực hiện các công việc bảo dưỡng, sửa chữa xe của khách hàng. Là
những kỹ sư có chất lượng tay nghề cao, đã được qua đào tạo bài bản bởi hệ
thống đào tạo Honda toàn cầu, cộng với kinh nghiệm thực tế mục đích cao nhất
của các kỹ thuật viên là làm cho khách hàng hài lòng với chất lượng sửa chữa.
• Honda cũng mới đầu tư hơn 120 tiệu USD xây dựng nhà máy thứ 3 ở Hà Nam với
mong muốn nâng tổng công suất lắp ráp lên 2,5 triệu xe/ năm. Honda mở rộng
sản xuất, nâng cao sản lượng tại thị phần VN để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của người dân, tạo kênh phân phối rộng khắp, để sp đến với toàn người dân từ thu
nhập cao đến những người thu nhập bình dân, và nông thôn và điều thu hút nhất
là tạo ra dòng xe máy với yếu tố “ thân thiện với môi trường và con người”. nhà
máy được xây dựng dựa trên sự kết hợp hài hòa và hợp lý nhất các nguồn năng
lượng tự nhiên: gió, ánh sáng, nước .  Từ đó nâng cao sức cạnh tranh, thiết lâp
chuỗi cung ứng giữa các đối tác truyền thống với nhau, đáp ứng nhanh chóng với
sự thay đổi của thị trường và giảm yếu tố các loại tác động đến khách hàng. Các
kênh phân phối rộng sẽ giảm chi phí lưu kho sản phẩm, giảm tồn kho tối đa, nâng
cao hiệu suất của các dòng sản phẩm thông qua kết hợp giữa các NCC với nhau.
Phát triển CCU ngày càng linh hoạt giúp cho tỉ trọng của ngành xe máy tăng lên
từ đó giúp cho kinh tế VN ngày càng phát triển và hội nhập với các nước trên thế
giới.
 Dù doanh số năm 2012 giảm khoảng 4,1%, nhưng Honda lại tăng được thị phần từ
mức 61% của năm 2011 lên 62,6%.Trong tổng số hơn 3,1 triệu xe này, Honda Việt Nam
đóng góp 1,95 triệu xe, cao gấp đôi số lượng của thương hiệu đứng thứ 2 là Yamaha.
Honda Việt Nam trong năm qua tiêu thụ 2,03 triệu xe, tăng hơn 310.000 xe, chiếm 61%
tổng thị phần của 5 doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI sản xuất kinh doanh xe máy tại Việt

Nam
II. Thách thức của chuỗi cung ứng.
• Dây chuyền sản xuất đơn thuần là lắp ráp. Dây chuyền sản xuất chủ yếu gồm 3
công đoạn chính là hàn, tẩy rửa sơn, lắp ráp. Trong khi đó Indonesia, thái lan,
Malaysia đang phát triển sản xuất linh kiện rất mạnh mẽ nhờ ưu đãi của chính phủ.
Nên giá xe máy tại VN vẫn cao hơn so với các nước trong khu vực vì vẫn phải
nhập khẩu linh kiện. Trong khi đó chính phủ VN đang xem xét quyết định chính
sách mang tính hạn chế số lượng xe máy như giảm số lượng đăng kí mới, phụ cấp
biển số xe để giảm tải áp lực giao thông tại các đô thị. Nên Honda phải xem xét
chuyển hướng sang thị trường ở nông thôn, giảm sản xuất mới áp dụng công nghệ
tiên tiến
• Ngành công nghiệp phụ trợ không phát triển: ngành phụ tùng, phụ trợ đã hình
thành nhưng chủ yếu tập trung sản xuất phụ tùng có giá trị thấp như gương kính,
ắc quy, sản phẩm nhựa… các phụ tùng chất lượng cao như hộp số, động cơ chưa
sản xuất được. sự hợp tác và mạng lưới liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất phụ
tùng và DN lắp ráp là chưa có.
• Công ty Honda Việt Nam hiện chiếm trên 60% thị phần xe máy ở thị trường nội
địa - một trong những thị trường xe máy lớn của thế giới. Có được thành công như
ngày hôm nay là công ty đã xây dựng được hệ thống cung ứng linh kiện, phụ tùng
với khoảng 110 doanh nghiệp. Chỉ có điều, hiện mới có 23 doanh nghiệp 100%
vốn của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng linh kiện, phụ tùng cho Công ty
Honda. Số còn lại do các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đến từ Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc… đảm nhiệm. Ngành công nghiệp sản xuất xe máy của Việt Nam
đã có bước tiến rất mạnh mẽ trong gần 2 thập kỷ vừa qua. Tuy nhiên, doanh
nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng trong nước lại chưa phát triển tương xứng
khiến thị phần linh kiện, phụ tùng chủ yếu vẫn rơi vào tay nhà đầu tư nước ngoài.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp nội địa phải chịu lép vế trước doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong đó có nguyên nhân quan trọng là rất nhiều
doanh nghiệp nội địa chưa đáp ứng được tiêu chuẩn nhà cung cấp phụ tùng theo
yêu cầu của nhà sản xuất.

• Kinh tế luôn biến đổi và DN lo ngại về bất ổn trong moi trường kinh doanh, sụt
giảm về cầu tiêu dùng trên thị trường giá, nguyên vật liệu tăng. Lạm phát gia tăng,
sức mua của người tiêu dùng giảm và đặc biệt là tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn
kế hoạch và thấp hơn năm trước, giai đoạn trước. Trước đây, tốc độ tăng trưởng
GDP trung bình của Việt Nam đạt 7%/năm thì nay chỉ đạt khoảng trên 5%/năm đã
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của Honda nói riêng và
ngành công nghiệp sản xuất xe máy nói chung. Theo tính toán của Honda, nếu
GDP của Việt Nam chỉ tăng khoảng 5% thì sản xuất, kinh doanh không tăng,
không có lãi, doanh số bán hàng tụt giảm… Cụ thể, số lượng xe máy bán ra trong
năm 2012 chỉ bằng 96% so với năm 2011.
• Khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng và an toàn của linh kiện điện tử: vấn đề
xe máy đột nhiên cháy, hay rỉ sét phụ kiện, gây khó khăn trong sự quản lí và lựa
chọn nhà cung ứng tốt nhất.
• Thay đổi nhanh và khá bất ngờ nhiều chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính
sách liên quan đến điều hành giá, thuế nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất như
xăng dầu, sắt thép, điện… đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất,
kinh doanh toàn thể doanh nghiệp chứ không riêng gì doanh nghiệp sản xuất, lắp
ráp ô tô, xe máy hay doanh nghiệp cung ứng linh kiện, phụ tùng. Honda có 110
nhà cung ứng phụ tùng tại Việt Nam, khi đầu vào tăng, các doanh nghiệp đều yêu
cầu điều chỉnh giá bán phụ tùng, linh kiện. Honda hợp tác win - win với hệ thống
nhà cung cấp của mình. Honda thường đặt hàng với nhà sản xuất trước 3 tháng.
Honda thỏa thuận với nhà cung cấp khi giá nguyên vật liệu chung của thị trường
tăng trên 5% thì hai bên sẽ thảo luận giá và đưa ra biện pháp để khắc phục khó
khăn.
• Mối quan hệ giữa Honda Việt Nam và hệ thống các HEAD chưa rõ ràng, lằng
nhằng đã tạo nên sự việc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của hãng. Thời
gian vừa qua xảy ra tình trạng các head đẩy giá xe máy cao hơn giá công ty niêm
yết. Sự mập mờ trong giá cả và mối quan hệ của công ty với các head khiến uy tín
thương hiệu giảm sút rất nhiều.
III. Giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng.’

• Mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để đảm bảo nguồn
đầu vào, linh kiện, phụ tùng đủ tiêu chuẩn, ổn định, chi phí thấp. Nâng cao tỷ lệ
nội địa hóa để hạ thấp chia phí sản xuất.
• Kiểm soát chặt chẽ chất lương, an toàn các linh kiện, phụ tùng, đảm bảo nguyên
liệu đầu vào được ổn định, đạt chất lượng.
• Liên tục cải tiến sản phẩm, đội ngũ nhân lực để hoàn thiện hơn việc sản xuất, lắp
ráp, đảm bảo các mục tiêu đặt ra.
• Xác định rõ ràng mối quan hệ giữa Honda Việt nam với hệ thống các HEAD đồng
thời có biện pháp quản lý chắt chẽ các HEAD. Khách hàng thường nhầm lẫn mối
quan hệ của HVN và HEAD. Các HEAD thuộc quyền quản lý của HVN hay đây
chỉ là mối quan hệ đối tác kinh doanh “ mua đứt bán đoạn” HVN cần công bố cho
khách hàng biết chính xác mối quan hệ với các HEAD. Nếu là hợp đồng uỷ thác
bán hàng thì Honda VN có toàn quyền kiểm soát giá bán xe của các HEAD.
Honda VN có quyền tạm đình chỉ hoặc ngưng hợp đồng thậm chí có chính sách xử
phạt, đòi các HEAD bồi thường thiệt hại do việc tự ý nâng giá bán xe làm mất uy
tín thương hiệu Honda VN tại thị trường. từ đó HVN phải có biện pháp quản lý
chặt chẽ hơn với các HEAD để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
• Nên có những chính sách hỗ trợ bán hàng phù hợp hơn, giảm tải áp lực bán hàng
cho các HEAD, không nên tiếp tục để ở tình trạng” mua đứt bán đoạn”. Làm được
như vậy, HEAD sẽ không phải bán những mẫu xe với giá đội lên quá cao, thương
hiệu Honda không bị ảnh hưởng nghiêm trọng
- Về các dịch vụ hậu mãi và chăm sóc khách hàng như hướng dẫn sử dụng, bảo hành,
đích thân honda phải đứng ra chịu 1 phần trách nhiệm việc này, không nên giao hết trách
nhiệm cho HEAD. Honda Việt Nam nên cử những chuyên gia kỹ thuật có tay nghề cao,
kinh nghiệm làm việc lâu năm đến làm việc tại các HEAD để có thể dễ dàng xử ký khi có
tình huống khó khăn xảy ra.

×