Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

tính khả thi của Luật chứng khoán trước yêu cầu bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.16 KB, 63 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, luật về chứng khoán của các quốc gia có những cách thức
điều chỉnh và tên gọi khác nhau. Nhưng bao giờ cũng thống nhất ở quan điểm
lấy người đầu tư là trọng tâm của thị trường và đặt mục đích bảo vệ quyền lợi
nhà đầu tư lên hàng đầu. Điều đó xuất phát từ nhận thức: không có nhà đầu tư-
không có thị trường, muốn duy trì, ổn định, phát triển thị trường, phải bảo vệ
được quyền lợi nhà đầu tư. Đối với những thị trường non trẻ như Việt Nam, đảm
bảo được nguyên lý này có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển
của thị trường.
Sau hơn 6 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được
một số kết quả nhất định. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian
vừa qua, cùng với xu hướng đầu tư tăng nhanh do kết quả của hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực đã đặt ra yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý cho lĩnh vực này.
Ra đời lần đầu tiên với tư cách là văn bản pháp lý cao nhất trong lĩnh vực chứng
khoán, Luật chứng khoán Việt Nam (2006) được kỳ vọng sẽ giải quyết những
vướng mắc còn tồn tại trong những quy định cũ, và phù hợp với tình hình phát
triển mới của thị trường. Trong đó vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư được
khẳng định như một nguyên tắc điều chỉnh của luật, được ghi nhận ngay tại điều
4. Với nhiều nhiệm vụ đặt ra như vậy, luật chứng khoán Việt Nam có tác động gì
tới các nhà đầu tư và đưa ra những quy định ảnh hưởng tới quyền lợi của họ như
thế nào đang là một câu hỏi được quan tâm hiện nay. Vì vậy, phân tích hiệu ứng
của Luật chứng khoán đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư sẽ đưa ra
những nhìn nhận khách quan về những điểm tiến bộ cũng như còn hạn chế của
Luật thông qua những phản ánh từ thực tế của thị trường. Sự thành công của luật
pháp bao giờ cũng thể hiện trên hai khía cạnh là đảm bảo được chức năng quản
lý của nhà nước và phù hợp với thực tế quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài này được thực hiện nhằm mục đích làm rõ bản chất của hoạt động
11


Website: Email : Tel : 0918.775.368
đầu tư chứng khoán, những cơ chế bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư bằng Luật chứng
khoán và đặc biệt là nghiên cứu các hiệu ứng của Luật chứng khoán trong việc
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Bằng cách tiếp cận từ góc độ thực tiễn là chủ
yếu, đề tài được triển khai nghiên cứu với mong muốn đưa ra những phản ánh
thực tế mà nhà đầu tư quan tâm sau khi Luật chứng khoán ra đời. Kết quả
nghiên cứu đề tài sẽ tập trung phân tích những phản ánh đó dưới góc độ khoa
học pháp lý để đưa ra những đánh giá và kiến nghị cho việc hoàn thiện và thực
thi pháp luật chứng khoán.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với yêu cầu và mục đích như trên, việc thực hiện đề tài được giới hạn
trong một số hoạt động sau đây:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư chứng khoán và cơ chế
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư bằng Luật chứng khoán;
- Đánh giá những hiệu ứng, tác động của Luật chứng khoán đối với vấn đề
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của Luật chứng
khoán trước yêu cầu bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài
được triển khai nghiên cứu với cấu trúc gồm 3 chương như sau:
Chương I: Đầu tư chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư
bằng Luật chứng khoán.
Chương II: Những hiệu ứng của Luật chứng khoán đối với vấn đề bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của Luật chứng
khoán trước yêu cầu bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
CHƯƠNG I
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ BẰNG LUẬT CHỨNG KHOÁN
1. Bản chất của đầu tư chứng khoàn và quyền lợi của nhà đầu tư trên thị

trường chứng khoán
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1. Bản chất của đầu tư chứng khoán
1.1.1. Khái niệm đầu tư chứng khoán
Trong kinh tế học, đầu tư được hiểu là hoạt động của con người với việc
sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết
quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được những kết quả
đó [1,tr.16]. Còn trong khoa học pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài
sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt
động nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội khác [2, tr.6]. Như
vậy, dù tiếp cận ở góc độ nào thì hình ảnh của đầu tư cũng được thể hiện rõ nét
nhất qua lăng kính của lợi ích. Nói đến đầu tư là phải thấy trong tương lai một
giá trị mới lớn hơn những giá trị bỏ ra ban đầu. Suy cho cùng, lợi nhuận chính là
cái đích chủ yếu mà nhà đầu tư hướng tới khi đưa ra các quyết định đầu tư.
Trong quá trình này, các nhà đầu tư sẽ tìm cách tối ưu hóa quyền lợi của mình và
bảo vệ nó theo cách thức riêng của họ. Trong số các lĩnh vực đầu tư, đầu tư vào
chứng khoán được xem là lĩnh vực nhạy cảm nhất, rủi ro nhất và cũng có nhiều
điểm đặc thù nhất, xét cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện pháp lý.
Trong lịch sử phát triển thăng trầm của thị trường chứng khoán, đầu tư
chứng khoán không phải là một khái niệm xa lạ đối với thế giới. Hoạt động này
đã manh nha hình thành từ khoảng giữa thế kỷ 15, cùng với sự ra đời của thị
trường chứng khoán. Tuy vậy, đối với phần lớn người dân Việt Nam hiện nay,
đầu tư chứng khoán vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ, đầy bí ẩn và hấp dẫn.
Xét theo nghĩa chung nhất, đầu tư chứng khoán là khái niệm dùng để chỉ
“việc bỏ vốn tiền tệ ra mua bán các chứng khoán để kiếm lời”. [3, tr159]. Hoạt
động đầu tư chứng khoán tuy có thể đem lại những khoản lợi nhuận nhất định
cho các nhà đầu tư nhưng bản thân hoạt động đầu tư chứng khoán không phải là
một nghề thương mại. Vấn đề này không chỉ gắn với bản chất của việc đầu tư
chứng khoán mà còn liên quan đến sự phân biệt giữa hoạt động đầu tư chứng

khoán và hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Vậy, có thể hiểu đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán khác
nhau như thế nào?
33
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh hai thuật ngữ này.
Nếu tiếp cận từ khái niệm “kinh doanh” theo quy định của Luật doanh
nghiệp 2005 thì kết quả là không thể tách bạch rõ ràng giữa khái niệm kinh
doanh và khái niệm đầu tư, và điều đó cũng đồng nghĩa với việc khó tách bạch
rõ ràng giữa khái niệm kinh doanh chứng khoán và đầu tư chứng khoán, bởi lẽ
“kinh doanh là thực hiện một hoặc một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu dùng, kể cả dịch vụ nhằm mục đích sinh lời”.
Tuy nhiên, nếu đối chiếu định nghĩa về kinh doanh chứng khoán đã được
quy định tại Khoản 19, Điều 6 của Luật chứng khoán 2007 với cách hiểu thông
thường về đầu tư chứng khoán như đã phân tích ở đoạn trên (theo đó đầu tư
chứng khoán “là việc mua bán chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời”) thì có thể
khẳng định rằng khái niệm đầu tư chứng khoán không bao hàm các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán, bởi lẽ, “kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện
nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh chứng khoán,
tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”.
Như vậy, khái niệm kinh doanh chứng khoán có nội hàm rộng hơn khái
niệm đầu tư chứng khoán. Thậm chí, nếu căn cứ vào quy định cụ thể từ các
khoản 20 đến 26 của Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì hoạt động kinh
doanh chứng khoán do các chủ thể chuyên nghiệp như công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ tiến hành, trong khi hoạt động đầu tư chứng khoán vốn dĩ là
hoạt động của các nhà đầu tư chứng khoán. Thực tế cho thấy, xung quanh vấn đề
này, quy định của một số nước có sự khác nhau. Chẳng hạn, theo Khoản 8, Điều
2 Luật chứng khoán Hàn Quốc thì “ kinh doanh chứng khoán là bất kỳ việc kinh
doanh nào nằm trong các loại hình: Mua và bán chứng khoán, mua và bán chứng

khoán theo uỷ thác; hoạt động như một trung gian hoặc đại lý liên quan đến việc
mua hoặc bán chứng khoán; hoạt động như một trung gian hoặc đại lý liên quan
đến tín thác các giao dịch được thực hiện trên thị trường chứng khoán; bảo lãnh
phát hành chứng khoán…”. Với quy định này, hoạt động đầu tư chứng khoán ở
Hàn Quốc cũng được xem là một dạng của kinh doanh chứng khoán. Còn theo
44
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điều 4 Luật chứng khoán Thái Lan thì “kinh doanh chứng khoán là các hoạt
động kinh doanh sau đây: môi giới chứng khoán, giao dịch ngoài sở chứng
khoán, dịch vụ tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành chứng khoán…”. Với quy định
này, ở Thái Lan không phải mọi hoạt động đầu tư chứng khoán đều có bản chất
là hoạt động kinh doanh chứng khoán mà chỉ những hoạt động đầu tư hay giao
dịch mua bán ngoài sở chứng khoán mới coi là hoạt động kinh doanh chứng
khoán. Việc xem xét phạm vi và bản chất của hoạt động đầu tư chứng khoán có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định chủ thể đầu tư (hay nhà đầu tư) để từ
đó có những biện pháp quản lý và bảo vệ quyền lợi của họ một cách hợp lý và
thỏa đáng.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư chứng khoán
Một cách khái quát nhất, có thể hình dung hoạt động đầu tư chứng khoán
bao hàm các đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của hoạt động đầu tư chứng khoán luôn luôn là các nhà
đầu tư chứng khoán. Nhà đầu tư chứng khoán được phân chia thành hai loại, bao
gồm các nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Đối với
các nhà đầu tư chuyên nghiệp, hoạt động đầu tư chứng khoán tuy được xem là
chuyên nghiệp nhưng tính chuyên nghiệp này không bao hàm ý nghĩa là một
nghề thương mại, với tính cách là một hành vi thương mại để phải làm thủ tục
đăng ký kinh doanh với chính quyền. Còn đối với các nhà đầu tư chứng khoán
không chuyên nghiệp, hoạt động đầu tư chứng khoán chỉ được xem như là một
“trò chơi” đầy may rủi hay một “thú tiêu khiển” có khả năng giúp họ kiếm tiền
một cách dễ dàng trên thị trường chứng khoán. Dù không được tuyên bố chính

thức nhưng hoạt động đầu tư chứng khoán luôn được các nhà đầu tư thực hiện
với mục tiêu cơ bản là hướng tới việc tìm kiếm lợi nhuận cho chính họ.
Thứ hai, hoạt động đầu tư chứng khoán luôn gắn liền với đối tượng đặc
biệt là chứng khoán. Với tư cách là một loại hàng hóa - động sản đặc biệt, chứng
khoán luôn mang trong mình nó những thuộc tính căn bản như tính thanh khoản,
tính sinh lợi, tính rủi ro và tính tư bản giả. Trên thực tế, các thuộc tính này của
chứng khoán có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư chứng khoán và gắn
55
Website: Email : Tel : 0918.775.368
liền với lợi ích của các nhà đầu tư. Vì lẽ đó, việc đưa ra quyết định đầu tư vào
loại chứng khoán nào để đảm bảo an toàn và có khả năng sinh lợi cao, luôn là
nỗi băn khoăn, trăn trở của mọi nhà đầu tư khi quyết định tham gia vào sân chơi
thị trường chứng khoán.
Thứ ba, đầu tư chứng khoán là hoạt động luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro và
bất trắc cho quyền lợi của các nhà đầu tư. Tính rủi ro tiềm ẩn của hoạt động đầu
tư chứng khoán bắt nguồn từ nguyên nhân sâu sa là sự nhạy cảm đặc biệt và sự
biến thiên khó lường của thị trường chứng khoán, cũng như tính chất rủi ro cao
của các loại chứng khoán được phát hành và lưu thông trên thị trường chứng
khoán. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán là khả năng bị mất hoặc tổn thất về tài
sản mà nhà đầu tư có thể phải gánh chịu khi đầu tư vào chứng khoán. Có rất
nhiều loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán như: rủi ro thanh toán là khả năng
không thu hồi được vốn đầu tư bỏ ra, rủi ro thị trường, rủi ro pháp luật, rủi ro về
lãi suất, rủi ro về lạm phát… Đây là đặc tính thể hiện bản chất rủi ro tiềm tàng
của hoạt động đầu tư chứng khoán và là một trong những căn cứ quan trọng để
đặt ra yêu cầu bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, hoạt động đầu tư chứng khoán chưa bao giờ được xem là an
toàn và chắc chắn. Vì những rủi ro luôn luôn tiềm ẩn trong hoạt động này nên
đòi hỏi người đầu tư phải có những sách lược cụ thể và sự theo dõi sát sao với
thị trường cũng như với những “địa chỉ” mà mình đã tin tưởng đầu tư vào.
Thứ tư, đầu tư chứng khoán được thực hiện theo nguyên tắc trung gian,

theo đó việc mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư đòi hỏi phải thực hiện
thông qua tổ chức trung gian là nhà môi giới chứng khoán. Nguyên tắc này đặt
ra nhằm đảm bảo cho hoạt động lành mạnh của thị trường, đồng thời cũng bảo
vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này được áp
dụng triệt để trên thị trường giao dịch tập trung và thị trường OTC (thị trường
giao dịch qua quầy), nhưng hầu như không được thực hiện trên thị trường chứng
khoán trao tay – thị trường chợ đen hay thị trường tự do, thị trường ngầm. Điều
này có thể tạo ra những cơ hội cho các hành vi gian lận, lừa đảo trong quá trình
mua bán chứng khoán, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Sự tồn tại
66
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của thị trường ngầm cùng với những giao dịch chứng khoán không có kiểm soát
của Nhà nước luôn là vấn đề thực tế và rất nan giải đối với các nhà quản lý thị
trường chứng khoán.
Ngoài các đặc trưng cơ bản nêu trên, để làm rõ hơn bản chất của đầu tư
chứng khoán, thiết nghĩ cũng nên đề cập đến vấn đề: đầu tư chứng khoán là đầu
tư trực tiếp hay gián tiếp? Thực tế cho thấy, đây là vấn đề hiện còn tranh luận
nhưng cho dù tiếp cận từ góc độ nào và theo quan điểm khoa học nào thì cũng
cần phải thừa nhận rằng việc xác định đầu tư chứng khoán là trực tiếp hay gián
tiếp có có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, bởi theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định thống nhất trong luật
đầu tư, còn Luật chứng khoán quy định về đầu tư gián tiếp. Hơn nữa, các thủ tục
hành chính và điều kiện đầu tư cũng như cách thức bảo vệ quyền lợi của nhà đầu
tư trong hai trường hợp này là rất khác nhau. Trong tương lai, nếu Nhà nước tiếp
tục mở rộng tỷ lệ sở hữu tối đa cho nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng
khoán và giả thiết là khi tỷ lệ này đủ để nhà đầu tư có thể trực tiếp quản lý
doanh nghiệp thì các quy định của luật đầu tư hay luật chứng khoán sẽ được áp
dụng, hoặc áp dụng Luật nào sẽ có lợi hơn cho nhà đầu tư, liệu quyền lợi nhà
đầu tư có bị ảnh hưởng không, chắc chắn là vấn đề còn cần phải bàn đến. Tuy
nhiên, đó vẫn là câu chuyện của tương lai. Còn trong phạm vi khuôn khổ chật

hẹp của khóa luận này - nghiên cứu về những hiệu ứng của luật chứng khoán,
chúng tôi không thể và không có điều kiện phân tích sâu hơn, ngoài việc đề cập
đến như một đặc điểm cần lưu ý của đầu tư chứng khoán.
1.1.3. Mối quan hệ giữa nhà đầu tư với tổ chức phát hành chứng khoán
Không thể phủ nhận rằng việc xác định bản chất của đầu tư chứng khoán
luôn gắn liền với việc làm rõ mối quan hệ giữa nhà đầu tư và tổ chức phát hành
chứng khoán. Làm rõ bản chất của mối quan hệ giữa nhà đầu tư với tổ chức phát
hành chính là làm rõ bản chất của đầu tư chứng khoán, bao gồm việc xác định
các chủ thể tham gia vào quan hệ đầu tư và xác định nội dung cơ bản của quan
hệ đầu tư chứng khoán.
1.1.3.1. Các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư chứng khoán
77
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quan hệ đầu tư chứng khoán có thể phát sinh giữa các nhà đầu tư với
nhau hoặc giữa các nhà đầu tư với các tổ chức phát hành chứng khoán.
Nhà đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào thị
trường chứng khoán bằng cách mua các chứng khoán đã hoặc đang được phát
hành trên thị trường chứng khoán nhằm thu lãi và hưởng các quyền lợi khác
phát sinh từ việc sở hữu chứng khoán. Nhà đầu tư có hai loại, bao gồm nhà đầu
tư cá nhân và các tổ chức đầu tư.
Nhà đầu tư cá nhân được hiểu là công dân Việt Nam hoặc công dân nước
ngoài sử dụng thu nhập của mình để mua chứng khoán cho chính mình sở hữu.
Đây là chủ thể có khả năng cung ứng một khối lượng tiền tệ rất lớn cho thị
trường chứng khoán. Khi có vốn nhàn rỗi tạm thời, họ mua chứng khoán với
mục đích đầu tư kiếm lời, còn khi có nhu cầu thu hồi vốn hoặc khi nhận thấy
chứng khoán tăng, giảm giá họ đem bán lại các chứng khoán đó để tránh rủi ro
hoặc để hưởng chênh lệnh giá. Thực tế cho thấy, các nhà đầu tư cá nhân thường
có những quyết định nhanh chóng trong đầu tư chứng khoán và ít khi theo đuổi
những chính sách đầu tư dài hạn. Theo quy định của Luật chứng khoán Việt
Nam hiện hành, do không có quy định cụ thể nào về điều kiện của nhà đầu tư cá

nhân nên về nguyên tắc, nhà đầu tư cá nhân chỉ cần thỏa mãn các điều kiện tiến
hành giao dịch dân sự theo quy định của bộ luật dân sự là đủ. Việc xác định tư
cách chủ thể của nhà đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền
lợi của nhà đầu tư trước pháp luật. Ngoài ra phải kể đến một số trường hợp các
cá nhân không được tự do đầu tư trên thị trường chứng khoán, như trường hợp
quy định của pháp luật về cổ đông sáng lập, trong vòng 3 năm đầu, không được
bán cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán; trường hợp không được
đồng thời góp vốn vào 2 hoặc nhiều công ty chứng khoán với tỷ lệ nắm giữ trên
5% cổ phần; trường hợp các cá nhân có liên quan đến tổ chức phát hành, có thể
tiếp cận những thông tin nội bộ…
Các tổ chức đầu tư là những pháp nhân Việt Nam hoặc nước ngoài thường
xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường, với tư cách là
những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Các chủ thể này có vai trò quan trọng trong
88
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điều tiết mức độ hoạt động của thị trường vì chính họ là những nhà đầu tư lớn
nhất và hành vi của họ có ảnh hưởng lớn nhất đến giá cả chứng khoán được giao
dịch hàng ngày trên thị trường. Theo quy định hiện hành, các tổ chức đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp bao gồm công ty bảo hiểm, ngân hàng thương mại,
các công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán…
Các công ty bảo hiểm sử dụng nguồn phí bảo hiểm thu được từ người
tham gia bảo hiểm theo các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản tài
chính có khả năng sinh lợi và có tính thanh khoản cao như chứng khoán cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư…Thông thường, các công ty bảo hiểm
đầu tư vào chứng khoán khoảng 35% đến 40% tổng số vốn nhàn rỗi từ dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm.
Các ngân hàng thương mại tham gia đầu tư chứng khoán trên thị trường
chứng khoán ít hay nhiều phụ thuộc vào mô hình ngân hàng đa năng hay ngân
hàng chuyên doanh ở mỗi nước. Ở Việt Nam, các ngân hàng có mô hình đa năng
một phần, muốn tham gia đầu tư chứng khoán phải thành lập công ty chứng

khoán độc lập để tiến hành các hoạt động đầu tư chứng khoán.
Các công ty chứng khoán hoạt động chủ yếu dưới loại hình công ty cổ
phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Trên thị trường chứng khoán, công ty
chứng khoán thực hiện rất nhiều nghiệp vụ khác nhau như môi giới, bảo lãnh
phát hành, tư vấn đầu tư, trong đó có vai trò là nhà đầu tư trong hoạt động tự
doanh chứng khoán. Tuy nhiên, với phạm vi hoạt động rộng như vậy, có nhiều
trường hợp lợi ích của công ty có mâu thuẫn với lợi ích của khách hàng, vì thế
việc đưa ra những điều kiện pháp lý và kiểm soát hoạt động của công ty chứng
khoán có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với thị trường nói chung và với các
nhà đầu tư khác nói riêng.
Các quỹ đầu tư chứng khoán được thành lập nhằm thu hút vốn của nhà
đầu tư cá nhân để đầu tư chứng khoán, hoặc một số dạng tài sản khác. Có cùng
bản chất với nó là các công ty đầu tư chứng khoán, với cách thức và mục đích
hoạt động tương đối giống nhau, chỉ khác nhau về mô hình quản lý và điều
hành.
99
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các tổ chức khác như các tổ chức tín dụng, các quỹ hưu trí, quỹ trợ cấp…
cũng được xem là những chủ thể có tiềm lực tài chính mạnh, có khả năng tham
gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư.
Trên thị trường chứng khoán, mức độ tham gia của các chủ thể đầu tư là
khác nhau và mối quan hệ giữa họ với các thành phần chủ thể khác của thị
trường cũng không giống nhau. Vì thế, việc quy định tư cách pháp lý của từng
loại chủ thể để kiểm soát khả năng tham gia đầu tư của họ trên thị trường là điều
cần thiết.
Tổ chức phát hành chứng khoán là những pháp nhân huy động vốn cho
mình bằng cách phát hành chứng khoán cho các nhà đầu tư trên thị trường sơ
cấp. Theo thông lệ, tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm Chính phủ, cơ quan
chính quyền địa phương, các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp.
Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương phát hành chứng khoán

là trái phiếu Nhà nước để huy động vốn nhằm cân đối thu chi hoặc bù đắp các
thâm hụt ngân sách nhà nước hàng năm. Các loại trái phiếu Nhà nước hiện nay
đã và đang trở thành nguồn hàng hoá quan trọng và có chất lượng cao được giao
dịch trên thị trường chứng khoán.
Các doanh nghiệp hiện là chủ thể phát hành quan trọng nhất và chiếm tỷ
lệ lớn nhất trên thị trường chứng khoán. Những loại chứng khoán do các doanh
nghiệp phát hành thường rất đa dạng, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu và các chứng
khoán khác, nhằm đáp ứng các nhu cầu thường xuyên và đa dạng của doanh
nghiệp trong kinh doanh. Trong số các doanh nghiệp phát hành chứng khoán thì
công ty cổ phần là loại doanh nghiệp phát hành chứng khoán thường xuyên và
đa dạng nhất. Để huy động vốn, công ty cổ phần có nhiều cách thức như: phát
hành cổ phiếu mới, chuyển quỹ dự trữ vào vốn, chuyển trái phiếu thành cổ phiếu
để tăng vốn điều lệ, vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trong tiến trình cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, tuy thực tế quá trình này
đang gặp phải một số khó khăn và vướng mắc nhưng dự báo triển vọng sẽ cho ra
đời hàng loạt công ty cổ phần với sự đa dạng về chủng loại cổ phiếu do các công
ty này phát hành trên thị trường chứng khoán. Đây sẽ là nguồn cung ứng dồi dào
1010
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các hàng hóa cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.
1.1.3.2. Bản chất pháp lý của mối quan hệ giữa nhà đầu tư và tổ chức phát
hành chứng khoán
Khi đầu tư chứng khoán, thực chất nhà đầu tư đã thiết lập một mối quan
hệ pháp luật với tổ chức phát hành chứng khoán. Tùy thuộc vào cách thức phát
hành và loại chứng khoán được phát hành, mối quan hệ giữa nhà đầu tư và tổ
chức phát hành chứng khoán sẽ có bản chất pháp lý khác nhau.
Đối với trường hợp phát hành chứng khoán vốn (ví dụ cổ phiếu…), mối
quan hệ giữa nhà đầu tư với tổ chức phát hành (công ty) có bản chất là hợp đồng
góp vốn, theo đó nhà đầu tư cổ phiếu có tư cách là cổ đông và có quyền tham
gia quản lý đối với tổ chức phát hành cổ phiếu tương ứng với phần vốn góp của

họ trong tổ chức phát hành.
Đối với trường hợp phát hành chứng khoán nợ (ví dụ trái phiếu Nhà nước
hoặc trái phiếu doanh nghiệp…), mối quan hệ giữa nhà đầu tư với tổ chức phát
hành có bản chất là hợp đồng cho vay, theo đó nhà đầu tư có tư cách là chủ nợ
đối với tổ chức phát hành và có quyền yêu cầu tổ chức phát hành thanh toán cho
mình cả gốc và lãi trái phiếu khi đến hạn thanh toán của trái phiếu.
Riêng đối với việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán, mối
quan hệ giữa nhà đầu tư với tổ chức phát hành chứng chỉ quỹ có sự khác biệt
nhất định so với trường hợp phát hành hai loại chứng khoán phổ biến và điển
hình là cổ phiếu và trái phiếu. Sự khác biệt này được thể hiện ở chỗ, các nhà đầu
tư tuy cũng là người góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán nhưng bản thân quỹ
này không phải là một chủ thể phát hành chứng khoán nên việc phát hành chứng
chỉ quỹ đầu tư phải thực hiện thông qua tổ chức được ủy quyền là công ty quản
lý quỹ. Như vậy, tuy cũng được xem là chứng khoán vốn nhưng việc phát hành
chứng chỉ quỹ đầu tư không tạo ra mối quan hệ sở hữu giữa nhà đầu tư với tổ
chức phát hành chứng chỉ quỹ (công ty quản lý quỹ) và nhà đầu tư cũng không
có quyền tham gia quản lý trực tiếp đối với tổ chức phát hành. Thực chất, đây là
quan hệ ủy quyền theo đó tập thể các nhà đầu tư ủy quyền cho công ty quản lý
quỹ trực tiếp thành lập, quản lý và điều hành quỹ đầu tư chứng khoán, vì quyền
1111
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lợi của các nhà đầu tư.
Có thể nói, việc xác định bản chất của mối quan hệ giữa nhà đầu tư với tổ
chức phát hành chứng khoán có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, đặc biệt là trong
việc xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trước các biến động của
thị trường. Mối quan hệ này có ảnh hưởng rất lớn đối với nhà đầu tư cũng như
đối với các tổ chức phát hành. Lịch sử thị trường chứng khoán đã chứng minh
rằng, chính các nhà đầu tư mới là người tạo ra thị trường và thị trường có phát
triển hay không phụ thuộc rất lớn vào nhận thức và thái độ của các nhà đầu tư.
Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam cũng vậy. Dù được ra đời dưới bàn

tay “bà đỡ” của Nhà nước, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng
kiến vai trò của các nhà đầu tư quan trọng như thế nào trong việc tạo ra sự đổi
thay của thị trường chứng khoán. Mới cách đây không lâu, các giao dịch trên thị
trường chứng khoán còn diễn ra hết sức chậm chạp do sự hờ hững của nhà đầu
tư trước chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, hôm nay
mọi việc dường như đã thay đổi theo chiều hướng hoàn toàn ngược lại. Sự thay
đổi này không chỉ bắt nguồn từ nhận thức của nhà đầu tư, từ sự tham gia tích
cực của Nhà nước vào quá trình cải cách kinh tế mà còn do xu hướng làm ăn
ngày càng hiệu quả của các doanh nghiệp. Tất cả những yếu tố này cùng tác
động đến chất lượng của chứng khoán và tạo ra sự sôi động chưa từng có của thị
trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian gần đây.
1.2. Các quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
1.2.1.Khái niệm và đặc điểm của quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán
Quyền lợi, theo từ điển Tiếng Việt là “quyền được hưởng những lợi ích từ
chính trị, kinh tế, xã hội…” trong đó quyền được hiểu là sự cho phép của Nhà
nước hoặc xã hội được công nhận, được thực hiện hoặc duy trì một việc gì đó.
Với khái niệm này, có thể hiểu quyền lợi là một phạm trù gắn với Nhà nước và
xã hội, được phát sinh và gắn liền với một chủ thể nhất định, gọi là chủ thể của
quyền lợi.
Xuất phát từ định nghĩa trên đây về quyền lợi, khái niệm “quyền lợi của
1212
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhà đầu tư” có thể được hiểu theo nghĩa là quyền lợi của một nhóm chủ thể đặc
biệt trong xã hội có tên gọi là nhà đầu tư, phát sinh trong quá trình đầu tư vào
chứng khoán, được Nhà nước công nhận và bảo đảm thực hiện bằng công cụ
pháp luật. Ở chừng mực nhất định, những nội dung cụ thể trong khái niệm
quyền lợi của nhà đầu tư tuy có thể được quy định tương đối khác nhau trong
pháp luật ở mỗi quốc gia nhưng suy cho cùng, các quy định này đều nhằm
hướng tới sự thừa nhận những nội dung cơ bản sau đây:

- Quyền được tiếp cận và biết đầy đủ, trung thực các thông tin về chứng
khoán được phát hành và tổ chức phát hành chứng khoán;
- Quyền được hỗ trợ về dịch vụ đầu tư, phương hướng đầu tư và tự mình
ra quyết định đầu tư vào chứng khoán;
- Quyền được hưởng các lợi ích hợp pháp phát sinh từ việc đầu tư vào
chứng khoán;
- Quyền được bảo vệ các lợi ích hợp pháp phát sinh trong quá trình đầu tư
chứng khoán;
- Quyền được chuyển nhượng, định đoạt chứng khoán theo nhu cầu của
mình với tư cách là chủ sở hữu chứng khoán…
Xét về khía cạnh lý luận, quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán luôn luôn
gắn liền với chủ thể đặc biệt là nhà đầu tư chứng khoán. Chủ thể này tham gia
vào thị trường chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư, bằng cách bỏ vốn ra cho
người khác sử dụng để được nhận về mình quyền sở hữu chứng khoán. Tuy có
được quyền sở hữu chứng khoán và gắn với quyền sở hữu đó là những lợi ích
nhất định (bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần) nhưng trên thực tế, các
nhà đầu tư luôn ở vào vị thế bất lợi hơn so với các chủ thể khác cùng tham gia
thị trường chứng khoán, chẳng hạn như các tổ chức phát hành hay tổ chức trung
gian trên thị trường chứng khoán. Do vị thế này, việc bảo vệ quyền lợi của các
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán đã được đặt ra và được pháp luật các
nước ghi nhận như là một nguyên tắc căn bản trong tổ chức và hoạt động của thị
1313
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường chứng khoán.
Thứ hai, quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán chủ yếu
phát sinh trong quá trình đầu tư vào chứng khoán và gắn liền, phụ thuộc vào các
chứng khoán do nhà đầu tư sở hữu. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt với
các quyền lợi khác của nhà đầu tư, nhưng không phát sinh trong quá trình đầu tư

vào chứng khoán. Thực tế cho thấy, hầu hết các quyền, lợi ích hợp pháp mà nhà
đầu tư có được từ việc đầu tư vào chứng khoán, đều phụ thuộc rất lớn vào các
loại chứng khoán mà họ đang sở hữu, trong đó có những quyền lợi giống nhau
đối với mọi chứng khoán, đồng thời cũng có những quyền lợi khác nhau gắn với
từng loại chứng khoán đặc thù, ví dụ cổ phiếu, trái phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu
tư…
Thứ ba, các quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán tuy đã được pháp luật
công nhận và cam kết bảo đảm thực hiện nhưng trên thực tế chúng luôn rất
mỏng manh và rất dễ bị xâm phạm bởi các chủ thể khác. Do nguy cơ bị vi phạm
và bị tổn hại là rất lớn nên pháp luật các nước thường có những quy định riêng
mang tính đặc thù để bảo đảm thực hiện và bảo vệ sự an toàn cho các quyền lợi
này của nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán, chẳng hạn quy định về
việc cấp giấy phép phát hành chứng khoán, quy định về nghĩa vụ công bố thông
tin; quy định về nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch trong các giao dịch
trên thị trường chứng khoán.
1.2.2. Các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
Như đã phân tích ở trên, khi tham gia vào thị trường chứng khoán, nhà
đầu tư có khả năng có được nhiều quyền lợi khác nhau theo quy định của pháp
luật. Các quyền lợi này được Nhà nước thừa nhận và bảo đảm thực hiện bằng
nhiều phương thức khác nhau, thông qua công cụ chủ yếu là pháp luật.
Trên thị trường chứng khoán, các quyền lợi của nhà đầu tư là rất đa dạng,
theo đó mỗi nhóm quyền lợi của nhà đầu tư thường phát sinh và được thực hiện
trong mối tương quan với quyền lợi của các chủ thể khác tham gia vào thị
trường chứng khoán. Vì vậy, việc chỉ ra những nhóm quyền lợi cơ bản của nhà
đầu tư, đặt trong mối tương quan với quyền lợi của các chủ thể khác để từ đó có
1414
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cơ chế bảo vệ hợp lý là điều cần thiết.
Một cách khái quát, có thể hình dung các quyền lợi của nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán bao gồm các nhóm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, nhóm quyền lợi của nhà đầu tư phát sinh trong mối quan hệ
giữa các nhà đầu tư với tổ chức phát hành chứng khoán.
Đây là một trong số các nhóm quyền lợi rất cơ bản của nhà đầu tư, gắn
với giai đoạn họ bắt đầu tham gia vào sân chơi thị trường chứng khoán bằng
hành vi mua chứng khoán từ các tổ chức phát hành chứng khoán (có thể mua
trực tiếp từ tổ chức phát hành hoặc đặt mua thông qua các tổ chức trung gian
môi giới trên thị trường chứng khoán). Trong khuôn khổ mối quan hệ pháp lý
giữa nhà đầu tư và chủ thể phát hành, dù chứng khoán được phân phối đến tay
nhà đầu tư bằng cơ chế nào thì một số quyền lợi của nhà đầu tư chỉ có thể phát
sinh kể từ thời điểm họ quyết định tham gia đầu tư vào chứng khoán (ví dụ,
quyền được biết các thông tin về tổ chức phát hành và thông tin về đợt phát hành
chứng khoán), đồng thời, một số quyền lợi khác lại chỉ có thể phát sinh kể từ
thời điểm nhà đầu tư đã thiết lập được quyền sở hữu chứng khoán cho mình (ví
dụ, quyền sở hữu chứng khoán, quyền tham gia quản lý đối với công ty là tổ
chức phát hành cổ phiếu, quyền được chia lãi cổ phần theo kết quả kinh doanh
hoặc nhận lãi cố định phát sinh từ trái phiếu). Trong số các quyền lợi này, quyền
sở hữu chứng khoán được xem là quan trọng nhất và từ đó phái sinh ra các
quyền lợi khác cho nhà đầu tư, tùy thuộc vào loại chứng khoán mà họ sở hữu.
Thực tiễn cho thấy, các quyền lợi này tuy luôn gắn với chủ thể là các nhà đầu tư
chứng khoán nhưng chúng chỉ có thể trở thành hiện thực và có ý nghĩa khi tổ
chức phát hành tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm và bảo vệ các
quyền lợi của nhà đầu tư. Chẳng hạn, để bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư
khi chọn mua chứng khoán từ tổ chức phát hành, những công ty phát hành
chứng khoán phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định về quy mô vốn, tình hình
tài chính, khả năng hoạt động và tiến hành các thủ tục công bố thông tin theo
quy định của pháp luật. Hoặc, sau khi nhà đầu tư đã mua được chứng khoán từ
tổ chức phát hành, chính tổ chức phát hành phải tuân thủ các quy định về việc
1515
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiến hành đại hội cổ đông nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư thực hiện được

quyền tham gia quản lý công ty theo tỷ lệ vốn góp của họ. Mặt khác, tổ chức
phát hành cũng có nghĩa vụ tiếp tục công bố thông tin và minh bạch hóa thông
tin về tình hình hoạt động của mình để giúp các nhà đầu tư có thể kiểm soát khả
năng tăng, giảm giá của các chứng khoán họ đang sở hữu, từ đó có thể đưa ra
các quyết định hợp lý trong quá trình đầu tư chứng khoán.
Thứ hai, nhóm quyền lợi của nhà đầu tư phát sinh trong mối quan hệ giữa
các nhà đầu tư với tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán (ví dụ, công
ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán…).
Không giống như bản chất mối quan hệ giữa nhà đầu tư với tổ chức phát
hành (vốn dĩ thường là quan hệ góp vốn hoặc quan hệ cho vay), các tổ chức
trung gian trên thị trường chứng khoán thường chỉ đóng vai trò là những người
cung cấp dịch vụ về chứng khoán nhằm hỗ trợ cho các nhà đầu tư trong quá
trình đầu tư chứng khoán. Các dịch vụ này thông thường bao gồm: dịch vụ môi
giới chứng khoán, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, dịch vụ quản lý danh mục
đầu tư hay dịch vụ quản lý quỹ đầu tư, dịch vụ lưu ký chứng khoán. Trên thực
tế, các dịch vụ này đều hướng tới việc thỏa mãn nhu cầu và quyền lợi hợp pháp
của các nhà đầu tư trong thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, để giúp nhà đầu tư
có được kiến thức, sự hiểu biết cần thiết và khả năng đưa ra quyết định đầu tư
đúng đắn, họ cần tới việc sử dụng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán từ các
công ty chứng khoán. Để mua được chứng khoán theo ý mình với chi phí rẻ nhất
và nhanh nhất, nhà đầu tư cần tới dịch vụ môi giới chứng khoán của công ty
chứng khoán. Hoặc, nếu cần quản lý các hạng mục đầu tư một cách hiệu quả và
chuyên nghiệp, nhà đầu tư phải sử dụng đến dịch vụ quản lý danh mục đầu tư
hoặc dịch vụ quản lý quỹ đầu tư do công ty quản lý quỹ cung ứng.
Như vậy, mặc dù việc mô tả và sự hình dung về nhóm quyền lợi này của
nhà đầu tư là không thật sự rõ ràng nhưng có thể nói, để đảm bảo quyền lợi hợp
pháp và chính đáng của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán thì không
thể không nhắc đến vai trò hỗ trợ đắc lực của các tổ chức trung gian trên thị
trường, bằng phương thức cung cấp các dịch vụ thị trường đa dạng.
1616

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ ba, nhóm quyền lợi của nhà đầu tư phát sinh trong mối quan hệ giữa
các nhà đầu tư với các tổ chức quản lý và cung ứng các dịch vụ hỗ trợ thị
trường. Theo thông lệ quốc tế, các tổ chức quản lý thị trường và cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ thị trường thường được biết đến với tên gọi là Sở GDCK hoặc
Trung tâm GDCK, Trung tâm lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
Xét từ cả góc độ lý luận và thực tiễn, những quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư
cũng được hình thành và bảo đảm rất hiệu quả bằng cơ chế hoạt động của các tổ
chức quản lý, giám sát thị trường. Chẳng hạn, nhờ có việc tổ chức các phiên
giao dịch tại sàn mà các nhà đầu tư mới có được cơ hội tìm kiếm các chứng
khoán tốt đã niêm yết để quyết định đầu tư. Hoặc, nhờ có cơ chế quản lý và
giám sát thị trường của Sở giao dịch chứng khoán hay Trung tâm giao dịch
chứng khoán mà các nhà đầu tư mới có cơ hội biết được các thông tin đầy đủ,
chính xác về tổ chức phát hành chứng khoán và các loại chứng khoán đã phát
hành để có thể tự mình lựa chọn phương hướng đầu tư hợp lý. Mặt khác, việc
giải quyết các tranh chấp trên thị trường chứng khoán giữa nhà đầu tư với các
chủ thể khác bằng cơ chế hòa giải qua trung gian là các tổ chức quản lý, giám
sát thị trường đôi khi rất hiệu quả và đỡ tốn chi phí. Nói cách khác, trên thực tế
các nhà đầu tư đã và đang tiếp tục được hưởng lợi khá nhiều từ cơ chế hoạt động
chuyên nghiệp của các tổ chức quản lý giám sát thị trường chứng khoán và
những quyền lợi này là không thể thiếu trong quá trình đầu tư chứng khoán.
Thứ tư, nhóm quyền lợi của nhà đầu tư phát sinh trong mối quan hệ giữa
các nhà đầu tư với nhau trên thị trường chứng khoán. Nhóm quyền lợi này bao
gồm, quyền được bảo vệ trước các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc
các hành vi bị cấm khác như tung tin đồn nhảm, thao túng thị trường, mua bán
nội gián… Ngoài ra, nhóm lợi ích này còn liên quan đến việc đảm bảo quyền
được đối xử công bằng và bình đẳng giữa các nhà đầu tư với nhau, quyền được
cạnh tranh công bằng và bình đẳng trong việc tiếp cận và khai thác các cơ hội
đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Ngoài các nhóm lợi ích cơ bản nêu trên, thiết nghĩ cũng cần nhắc đến vai

trò không thể thiếu của Nhà nước trong việc tạo lập và vận hành cơ chế bảo vệ
1717
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán bằng các biện pháp chủ yếu
như: công nhận bằng pháp luật đối với các quyền lợi của nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán; thiết lập cơ chế thực thi và bảo vệ hữu hiệu các quyền lợi
đó thông qua phương thức quản lý nhà nước đối với thị trường và cung cấp
những cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp và có hiệu quả.
2. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư bằng luật chứng khoán
2.1. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán
Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt, bảo vệ được hiểu là “chống lại mọi sự xâm phạm
để giữ cho nguyên vẹn”. Như vậy, một cách khái quát, có thể quan niệm rằng
bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư là việc Nhà nước công nhận những quyền lợi của
nhà đầu tư, giúp nó được thực thi trên thực tế và chống lại mọi hành vi xâm
phạm đến các quyền lợi đó. Trong ý nghĩa của từ bảo vệ có hàm nghĩa bảo đảm.
Cũng theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm là làm cho chắc chắn được thực hiện,
duy trì”. Như vậy, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư đồng nghĩa với sự bảo đảm
nhưng cao hơn một mức, thể hiện ở chỗ Nhà nước thực hiện sự bảo đảm này
một cách chủ động, nghĩa là Nhà nước không chỉ công nhận và duy trì những
quyền lợi đó mà còn tác động bằng các quy định pháp luật để cho nó được phát
triển và được thực thi một cách có hiệu quả trên thực tế.
Tại sao phải bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư?
Trước hết, việc bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư bắt nguồn từ chức
năng và vai trò xã hội của Nhà nước. Các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán, dù là cá nhân hay tổ chức đều cần được nhận sự trợ giúp hiệu quả từ phía
Nhà nước, bằng các công cụ và phương tiện chỉ Nhà nước mới có và mới làm
được, đó là pháp luật. Nói cách khác, khả năng được pháp luật bảo vệ trên thị
trường chứng khoán là một trong những quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư, đó

cũng là nguồn gốc, căn cứ cho những quy định cụ thể về vấn đề bảo vệ quyền
lợi nhà đầu tư trong lĩnh vực này.
Thứ hai, việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư chính là nhằm tạo ra một thị
1818
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường chứng khoán lành mạnh, vận hành trôi chảy, ổn định và hiệu quả. Chính
điều đó góp phần đảm bảo sự an toàn cho nền kinh tế và ổn định xã hội. Như đã
đề cập ở trên, do mối quan hệ mật thiết giữa quyền lợi nhà đầu tư và thị trường
chứng khoán mà vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư luôn được đặt ra như là một
yếu tố quan trọng của việc vận hành thị trường chứng khoán. Điều này cũng cho
thấy tính nhạy cảm cao và tính ảnh hưởng dây chuyền của thị trường chứng
khoán luôn gắn liền với yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt quyền lợi của nhà đầu tư.
Thực tế cho thấy rằng sự tăng trưởng hay suy thoái của thị trường chứng khoán
trong từng thời điểm, từng giai đoạn nhất định, chủ yếu phụ thuộc vào việc thỏa
mãn nhu cầu của nhà đầu tư và những biến thiên của thị trường này thường bị
chi phối bởi ý chí của các nhà đầu tư, thông qua các quyết định đầu tư của họ.
Thứ ba, việc đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư là phương thức hiệu quả
nhất để khuyến khích hoạt động đầu tư và thu hút các nhà đầu tư tham gia thị
trường chứng khoán. Không thể phủ nhận một thực tế là các nhà đầu tư chỉ
tham gia thị trường chứng khoán khi các quyền lợi cơ bản của họ được bảo đảm
tối đa. Việc bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư một mặt là cách thức quản lý
thị trường, mặt khác lại là biện pháp khuyến khích đầu tư có nhanh chóng và có
hiệu quả. Mặt khác, chính việc bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư trên nguyên
tắc không phân biệt đối xử, sẽ là cơ hội tốt để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
cho các nhà đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế, địa vị xã hội và quốc
tịch. Hiện tại ở Việt Nam, quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài hầu như được
bảo đảm giống như nhà đầu tư trong nước, ngoại trừ các quy định về tỉ lệ nắm
giữ tối đa cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, với việc gia nhập
WTO và sự tham gia vào các hiệp định về đầu tư khu vực, trong tương lai gần
khoảng cách và sự phân biệt này sẽ được xoá nhoà.

2.2. Khái quát về cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư bằng Luật chứng
khoán
Những phân tích ở trên cho thấy, việc chỉ ra và phân loại quyền lợi của
nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư chứng khoán là rất cần thiết. Sự phân loại này
suy cho cùng chỉ mang tính tương đối, bởi lẽ trong quá trình phát triển của thị
1919
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường chứng khoán, các quyền lợi của nhà đầu tư ngày càng trở nên phong phú,
đa dạng, cùng với sự đa dạng của các hình thức vi phạm, ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền lợi của nhà đầu tư.
Xét từ góc độ lý luận, vấn đề bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư có thể
được giải quyết bằng nhiều phương thức, dựa trên những cách tiếp cận khác
nhau. Để giúp cho việc hình dung một cách dễ dàng về cơ chế bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư, chúng tôi chủ trương giải quyết vấn đề này theo phương pháp
tiếp cận từ bản thân các mối quan hệ - môi trường hình thành và nảy sinh vấn đề
quyền lợi và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Theo cách tiếp cận này, nếu coi
các quy định về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư là một chế định riêng biệt của pháp
luật về chứng khoán thì chế định này sẽ bao gồm ba nội dung chính sau đây:
- Nhà nước xác lập cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán
bằng cách ban hành các quy định mang tính công nhận quyền, lợi ích hợp pháp
phát sinh trong quá trình đầu tư chứng khoán. Việc công nhận bằng pháp luật đối
với những quyền, lợi ích của chủ thể này sẽ tạo cơ sở pháp lý để các nhà đầu tư
có thể tự thực hiện các quyền của họ và khi cần thiết, có thể tự mình bảo vệ các
quyền lợi đó trước sự xâm hại bởi những hành vi vi phạm pháp luật của các chủ
thể khác trên thị trường chứng khoán. Phương thức bảo vệ này xuất phát từ từ lí
thuyết chung về quyền lợi, theo đó, trong một quan hệ phát luật quyền lợi của
chủ thể này chỉ được thực hiện được thông qua việc thi hành các nghĩa vụ tương
ứng của chủ thể kia trong quan hệ pháp luật đó. Ví dụ, quyền của nhà đầu tư
được mua chứng khoán với chất lượng tốt nhất từ tổ chức phát hành chỉ có thể
được thực hiện được khi tổ chức phát hành tuânt thủ các nghĩa vụ do luật định

như nghĩa vụ về công bố thông tin, nghĩa vụ chào bán chứng khoán ra công
chúng, nghĩa vụ phân phối chứng khoán một cách công bằng, công khai và minh
bạch cho các nhà đầu tư theo quy định chung của pháp luật…Nói cách khác, nhà
nước công nhận quyền lợi của các nhà đầu tư bằng cách quy định các nghĩa vụ
cụ thể cho các chủ thể khác có quan hệ trực tiếp với nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán.
Bằng các quy định công nhận quyền, Nhà nước có đã thừa nhận các nhóm
2020
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư phát sinh từ các mối quan hệ cơ bản như: (i)
Nhóm quyền lợi của nhà đầu tư phát sinh từ mối quan hệ giữa nhà đầu tư và chủ
thể phát hành; (ii) Nhóm quyền lợi của nhà đầu tư phát sinh từ mối quan hệ giữa
nhà đầu tư và chủ thể trung gian; (iii) Nhóm quyền lợi của nhà đầu tư phát sinh
từ mối quan hệ giữa các nhà đầu tư với nhau; (iv) Nhóm quyền lợi của nhà đầu
tư phát sinh từ mối quan hệ giữa nhà đầu tư và chủ thể khác trên thị trường
chứng khoán.
- Nhà nước thực hiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư bằng cách
ban hành các quy định về đảm bảo thực hiện quyền của các nhà đầu tư, thông
qua hoạt động quản lý nhà nước đối với các chủ thể và đối với thị trường. Đây là
các quy định tạo ra căn cứ pháp lý cho hoạt động quản lý, giám sát thị trường;
thể hiện sự chủ động từ phía Nhà nước trong vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu
tư. Các quy định này bao gồm các vấn đề về hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh
tra của Nhà nước, từ đó đưa ra những giải pháp để duy trì, ổn định thị trường,
bảo vệ nhà đầu tư. Việc bảo vệ không chỉ trực tiếp hướng tới từng quyền lợi của
nhà đầu tư khi xảy ra sự cố hoặc những hành vi có nghi vấn gây tổn hại cho nhà
đầu tư mà còn là biện pháp thanh lọc, tạo ra sự an toàn và lành mạnh cho thị
trường. Nói một cách khác, các quy định về bảo đảm thực hiện quyền của các
nhà đầu tư có tác dụng bảo vệ lần thứ hai, tức là duy trì và đảm bảo cho khả
năng thực hiện trên thực tế của các quy định về công nhận quyền, từ đó, bảo vệ
cho quyền lợi nhà đầu tư. Những quy định này cùng với hệ thống các quy định

về công nhận quyền, tạo ra một cấu trúc bảo vệ hợp lý và toàn diện, từ việc đưa
ra các hành lang pháp lý đến việc kiểm soát và bảo vệ hành lang đó.
- Nhà nước thực hiện trách nhiệm bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư thông qua
việc quy định phương thức xử lý các vi phạm và giải quyết các tranh chấp phát
sinh trên thị trường chứng khoán. Bằng cách này, Nhà nước không chỉ thiết lập
được trật tự kỷ cương trong quản lý thị trường chứng khoán và trừng phạt
nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm quyền lợi của nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán, mà còn góp phần đảm bảo cho nhà đầu tư bảo vệ được các
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình trước hành vi xâm hại của các chủ thể
2121
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khác.
Tóm lại, việc giới thiệu khái quát các cơ chế trên đây trong việc bảo vệ
quyền lợi nhà đầu tư là rất cần thiết. Sự giới thiệu khái quát này sẽ tạo tiền đề
cho việc phân tích, đánh giá tác động, hiệu ứng của Luật chứng khoán trước yêu
cầu bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
CHƯƠNG II
NHỮNG HIỆU ỨNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƯ
Với lịch sử hình thành và phát triển không dài, thị trường chứng khoán
Việt Nam trong thời gian gần đây đã chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc, với
2222
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tổng giá trị vốn hoá của thị trường chiếm 30% GDP năm 2006, tăng 20 lần so
với năm 2005 và vượt xa con số dự báo chiếm 10% đến 15% GDP vào năm
2010 [23, tr.12]. Trong bối cảnh TTCK phát triển mạnh mẽ và thậm chí là “quá
nóng” như vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư lại càng được quan tâm hơn
bao giờ hết. Trong chương này, chúng tôi chủ trương phân tích, đánh giá các
hiệu ứng, tác động của Luật chứng khoán trước yêu cầu bảo vệ quyền lợi của
nhà đầu tư. Các hiệu ứng này được phân tích và bình luận thông qua những vấn

đề chủ yếu như: các thay đổi của Luật so với các quy định cũ; khảo sát thực
trạng áp dụng và tính phù hợp của nó; chỉ ra các quy định còn trống, còn khiếm
khuyết hoặc còn bất cập mà nhà đầu tư quan tâm, được minh hoạ qua một số vụ
việc thực tế diễn ra gần đây trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Hiệu ứng của các quy định công nhận quyền lợi của nhà đâu tư trên thị
trường chứng khoán
1.1. Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trong mối quan hệ với chủ thể phát hành
Trong pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán,
các quy định về chủ thể phát hành chiếm giữ một vai trò quan trọng, bởi nó đặt
nền tảng, cơ sở pháp lý cho việc tạo ra hàng hóa chứng khoán có chất lượng cho
thị trường, đồng thời đảm bảo cho thị trường tăng trưởng ổn định thông qua việc
bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư chứng khoán.
Ở mức độ khái quát, có thể hình dung sự tác động của các quy định Luật
chứng khoán đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư liên quan đến tổ chức
phát hành, được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đối với các quy định về điều kiện phát hành chứng khoán. Đây
là nhóm quy định đầu tiên hướng tới mục tiêu kiểm soát khả năng tham gia thị
trường chứng khoán của tổ chức phát hành. Nhóm quy định này có nhiệm vụ đặt
ra các điều kiện cụ thể đối với các tổ chức muốn phát hành chứng khoán ra công
chúng, nhằm đảm bảo chất lượng của chứng khoán được phát hành cũng như
đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, sự bảo đảm này là
không mấy chắc chắn, bởi lẽ không ai có thể bảo đảm rằng tổ chức phát hành
luôn kinh doanh tốt và có tình hình tài chính lành mạnh trong suốt quá trình kinh
2323
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh, kể từ khi phát hành chứng khoán ra công chúng.
Thứ hai, đối với các quy định về trình tự, thủ tục phát hành chứng khoán
ra công chúng. Đây là cơ sở pháp lý tạo ra sự công bằng và bình đẳng cho các
nhà đầu tư, tránh trường hợp chủ thể phát hành thực hiện những cách thức có thể
tạo nên sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, từ đó gây thiệt hại cho quyền

lợi của các nhà đầu tư. Trong một số trường hợp, đợt phát hành sẽ bị đỉnh chỉ
hoặc huỷ bỏ khi quá trình phát hành không tuân theo thủ tục luật định. Đây cũng
là một phương cách cần thiết và hiệu quả để bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán.
Thứ ba, đối với quy định về công bố thông tin. Đây là cơ sở pháp lý tạo ra
khả năng cho người đầu tư tiếp cận được với nguồn thông tin chính thống một
cách bình đẳng và minh bạch. Đối với hoạt động đầu tư chứng khoán, việc ban
hành các quy định về công bố thông tin được coi như một cách thức hữu hiệu để
bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cần phải nói thêm rằng thông tin
là một yếu tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động đầu tư chứng
khoán, vì vậy thời điểm nắm bắt thông tin và nguồn thông tin chính xác có ảnh
hưởng mang tính quyết định đến sự thành bại của kế hoạch đầu tư. Điều này cho
phép khẳng định rằng việc quy định nghĩa vụ công bố thông tin và minh bạch
hóa thông tin trên thị trường chứng khoán là giải pháp hiệu quả để bảo đảm
quyền lợi cho các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán.
Thứ tư, đối với quy định về một số hành vi khác của chủ thể phát hành.
Đây là những quy định liên quan đến tổ chức, quản trị và điều hành công ty đại
chúng và ít nhiều có tác động đến quyền lợi của các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán, chẳng hạn như các quy định về quản trị công ty, quy định về việc
công ty mua lại cổ phiếu của chính mình… Các quy định này nhằm tạo ra sự
công khai minh bạch trong hoạt động của công ty, đảm bảo an toàn cho hoạt
động của công ty để trên cơ sở đó bảo đảm cho các quyền lợi chính đáng của
nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán.
Trước khi Luật chứng khoán ra đời, Nghị định 144/2003/NĐ-CP được coi
là văn bản pháp luật quy định thống nhất và toàn diện nhất về chứng khoán và
2424
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Trong văn bản này, các quy định về tổ chức
phát hành có liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư cũng đã được dự
liệu khá đầy đủ và rõ ràng. Khi Luật chứng khoán năm 2006 được ban hành,

mặc dù cũng có một số thay đổi và bổ sung nhưng các quy định tương ứng của
đạo luật này hầu như vẫn điều chỉnh theo tinh thần của điều luật cũ. Cụ thể, các
vấn đề này được quy định trong Luật chứng khoán ở điều 12 (điều kiện chào bán
chứng khoán ra công chúng); điều 16 (báo cáo tài chính); điều 21 (phân phối
chứng khoán); điều 22 (đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng); điều 23
(huỷ bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng); điều 102 (công bố thông tin của
tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng); điều 103 (công
bố thông tin của tổ chức niêm yết)…Trong các điều luật này, có một số thay đổi
khá quan trọng liên quan đến quy định về điều kiện chào bán chứng khoán ra
công chúng, quy định về công ty đại chúng.
Về điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng, khoản 1 điều 12 Luật
chứng khoán quy định điều kiện về quy mô vốn của công ty cổ phần là 10 tỷ, so
với điều kiện cũ trong khoản 1 điều 6 Nghị định 144/2004/NĐ-CP là 5 tỷ. Sự
thay đổi này sẽ là hạn chế hơn cho các công ty cổ phần muốn chào bán chứng
khoán nhưng mặt khác quy định này cũng làm tăng sự bảo đảm an toàn cho nhà
đầu tư khi tham gia đầu tư chứng khoán.
Về công ty đại chúng, đây là khái niệm hoàn toàn mới và lần đầu tiên
được quy định trong Luật chứng khoán năm 2006. Theo văn bản này, công ty đại
chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba hình thức: Công ty đã thực hiện
chào bán cổ phiếu ra công chúng; công ty có cổ phiếu được niêm yết tại
SGDCK hoặc TTGDCK; công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư
sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã
góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên [4, điều 25]. Cùng với quy định này là các
quy định về chào mua công khai theo điều 32 Luật chứng khoán và các quy định
này tỏ ra có ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ các cổ đông thiểu số trong các
giao dịch thâu tóm doanh nghiệp. Ngoài ra, việc quy định mở rộng nghĩa vụ
công bố thông tin cũng có nghĩa là tăng thêm quyền lợi cho nhà đầu tư.
2525

×