Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

những điểm mới của chế độ bảo hiểm hưu trí trong luật bảo hiểm xã hội 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.35 KB, 42 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
20 năm qua với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân,
công cuộc đổi mới ở nớc ta đã đạt đợc những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Cùng với sự phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội nói chung cũng đợc quan tâm
ở mức độ thích đáng; việc làm, thu nhập, đời sống của đội ngũ lao động và sau lao
động không ngừng đợc cải thiện. Là một bộ phận của chính sách bảo hiểm xã hội ,
chế độ hu trí đang là vấn đề bức xúc hiện nay, bởi lẽ nó ảnh hởng rất lớn đến đời
sống ngời lao động khi về già. Trong bối cảnh nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trờngcó sự quản lý của Nhà nớc, khi mà có sự phân tầng và
phân cực xã hội đang diễn ra ngày càng rõ nét giữa ngời lao động và ngời sử dụng
lao động nên chế độ bảo hiểm hu trí phải là sự tơng trợ cộng đồng, là ngời trẻ giúp
ngời già nhằm giảm bớt những bất cập bảo đảm xã hội, bảo đảm cuộc sống vật
chất và tinh thần cho ngời lao động khi về hu an dỡng lúc tuổi già.
Để thực hiện yêu cầu này, trong những năm gần đây Nhà nớc đã đầu t rất
nhiều cho việc nghiên cứu cải cách chế độ bảo hiểm xã hội nói chung, chế độ bảo
hiểm hu trí nói riêng. Cho đến nay, những nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm hu trí
đã đợc luật hoá và định hình một cách cụ thể bằng việc ban hành luật bảo hiểm xã
hội mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Vì chế độ bảo hiểm hu trí giữ vị trí quan
trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội, là vấn đề quan tâm của tất cả mọi ngời lao
động, nên việc đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá những điểm tiến bộ, những mặt
còn tồn tại của các quy định mới về bảo hiểm hu trí, từ đó đa ra phớng hớng hoàn
thiện trong thời gian tới là việc làm cần thiết. Hơn nữa, từ khi luật BHXH 2006 có
hiệu lực cha có tài liệu nào đề cập đến nội dung này, do đó em chọn đề tài cho
khoá luận tốt nghiệp của mình là: Những điểm mới của chế độ bảo hiểm h u trí
trong luật Bảo hiểm xã hội 2006. Mặc dù chế độ bảo hiểm hu trí bao gồm 2 nội
dung: chế độ bảo hiểm hu trí tự nguyện và chế độ bảo hiểm hu trí bắt buộc, nhng
do thời gian có hạn, việc gộp chung chúng lại trong giới hạn một khoá luận tốt
nghiệp sẽ không đảm bảo tính sâu sắc, chi tiết, cụ thể, vì thế em tạm thời chỉ đề
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


cập đến nội dung của chế độ bảo hiểm hu trí bắt buộc trong khoá luận này, còn
chế độ bảo hiểm hu trí tự nguyện em sẽ dành để nghiên cứu vào dịp khác.
Đề tài đợc nghiên cứu trên cơ sở phơng pháp luận là phơng pháp chủ nghĩa
duy vật biện chứng của Mác với kim chỉ nam là chủ nghĩa Mác Lênin. Điều
này sẽ tạo sự gắn bó và logic trong toàn bộ đề tài.
Phơng pháp nghiên cứu là phơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phơng
pháp lịch sử với ý nghĩa thực tiễn là nhằm giúp cho nghiên cứu đề tài tốt hơn.
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, khoá luận đợc kết cấu làm 3 chơng:
Chơng I: Khái quát chung về bảo hiểm hu trí và sự cần thiết đổi mới chế
độ bảo hiểm hu trí
Chơng II: Những điểm mới của chế độ bảo hiểm hu trí theo luật Bảo hiểm
xã hội 2006
Chơng III: Đánh giá và kiến nghị hoàn thiện chế độ bảo hiểm hu trí ở nớc
ta.

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng i
khái quát chung về bảo hiểm hu trí
và sự cần thiết đổi mới chế độ bảo hiểm hu trí
1. Khái quát chung về chế độ bảo hiểm hu trí
1.1. Quan niệm về chế độ bảo hiểm hu trí
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải lao động, trong quá trình
lao động con ngời luôn luôn tác động vào tự nhiên và tác động qua lại lẫn nhau để
tạo ra những sản phẩm, những giá trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
mình. Sản phẩm tạo ra càng nhiều thì đời sống con ngời càng đầy đủ, văn minh
nghĩa là việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ
thuộc vào khả năng lao động của chính họ. Nhng một mặc, trong quá trình tác
động, khai thác tự nhiên, con ngời luôn chịu sự tác động của quy luật khách quan,
các điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội, những tác động này nhiều khi con ngời

không kiểm soát nổi làm ảnh hởng lớn đến quá trình sinh sống, làm việc của ngời
lao động. Mặc khác cuộc sống con ngời luôn tuân theo quy luật: Sinh ra, trởng
thành, tuổi già và chết. Khi sinh ra phải dựa vào sự nuôi dỡng và chăm sóc của cha
mẹ, khi lớn lên thì phải tự lao động để nuôi sống mình và những ngời phụ thuộc.
Trong quá trình đó, con ngời không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi mà nhiều khi
gặp khó khăn, bất lợi làm cho bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc các điều kiện
sinh sống khác nh: bị ốm đau, tai nạn, mất việc làm, tuổi già,...Khi rơi vào các tr-
ờng hợp đó các nhu cầu cần thiết của cuộc sống tăng lên, có khi xuất hiện thêm
các nhu cầu mới. Để vợt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh, từ lâu ngời ta thờng
áp dụng các biện pháp phòng ngừa, khắc phục hậu quả khác nhau, trong đó hữu
hiệu nhất là lập quỹ dự trữ và tiến hành bảo hiểm tập trung trên phạm vi toàn xã
hội. Về vấn đề này, Các Mác đã khẳng định: Vì nhiều rủi ro khác nhau nên
dành phải dành một số thặng d nhất định cho quỹ bảo hiểm xã hội để đảm bảo
cho sự mở rộng theo kiểu lũy tiến quá trình tái sản xuất ở mức độ cần thiết, phù
hợp với sự phát triển của nhu cầu và tình hình tăng dân số
1
1
Xem: C. Mác Ph.Ăngghen tuyển tập, t5. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hệ thống bảo hiểm xã hội ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ XIX là công
trình của chính phủ Đức dới thời thủ tớng Bismark (1883-1889) với cơ chế 3 bên
(Nhà nớc Giới chủ Giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho ngời lao
động trong một số trờng hợp họ gặp rủi ro. Chế độ bảo hiểm xã hội này bao gồm:
Chế độ bảo hiểm ốm đau (1883), bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884), và bảo
hiểm tuổi già, tàn tật( 1889). Sau đó, trớc tác dụng tích cực của bảo hiểm xã hội
trong quan hệ lao động, nhiều nớc bắt đầu áp dụng hệ thống bảo hiểm xã hội. Từ
những năm 30 của thế kỷ XX, một số nớc còn mở rộng thêm những chế độ khác
ngoài bảo hiểm xã hội và xuất hiện khái niệm mới Social Security (an sinh, an
toàn xã hội). Bản tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông

qua ngày 10/12/1948 cũng quy định: Tất cả mọi ng ời với t cách là thành viên
của xã hội có quyền hởng bảo đảm xã hội quyền đó đ ợc đặt ra trên cơ sở sự
thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội . Trong xã hội hiện đại, các Nhà Nớc cũng
nhận thấy rằng ngời lao động là nguồn lực chính, là thành phần quan trọng nhất
của xã hội . Nếu cuộc sống của những ngời lao động và những ngời không còn
tham gia vào quan hệ lao động nữa gặp khó khăn sẽ ảnh hởng trực tiếp đến sản
xuất, đến vấn đề ổn định xã hội. Vì vậy, bảo hiểm xã hội , bảo hiểm hu trí luôn đ-
ợc chính phủ các nớc coi là một trong những chính sách cơ bản mà Nhà Nớc cần
quan tâm. Trong đó, chế độ bảo hiểm hu trí có tầm quan trọng đặc biệt đối với ng-
ời lao động, là một trong các trụ cột của bảo hiểm xã hội. Do đó, đến nay, hầu hết
các nớc có quy định về bảo hiểm xã hội trên thế giới đều quy định và thực hiện
chế độ bảo hiểm hu trí, với mục đích nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ngời
lao động sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội, đảm bảo ổn định
cuộc sống cho ngời lao động khi họ đã hết tuổi lao động về nghỉ hu an dỡng lúc
tuổi già.
Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động Quốc tế, đợc Hội đồng quản trị của
Văn phòng Lao động Quốc tế triệu tập tại Giơ - ne-vơ ngày 4 tháng 6 năm 1952,
trong kỳ họp thứ 35; sau khi đã quyết định chấp thuận 1 số đề nghị về các quy
phạm tối thiểu về an toàn xã hội, là vấn đề thuộc điểm thứ 5 trong chơng trình
nghị sự kỳ họp; sau khi đã quyết định rằng những đề nghị đó sẽ mang hình thức 1
Công ớc quốc tế, nó đợc thông qua ngày 28/6/1952, có tên là Công ớc số 102 về
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội. Công ớc gồm 87 điều chia làm 14 phần,
trong đó có đa ra 9 dạng trợ cấp nh sau:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già (hu bổng)
5. Trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp

6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp thai sản
8. Trợ cấp tàn tật
9. Trợ cấp tiền tuất
Các quốc gia phê chuẩn công ớc này phải áp dụng ít nhất 3 trong số 9 dạng
trợ cấp nói trên, trong đó phải bao gồm : hoặc trợ cấp thất nghiệp, hoặc trợ cấp
tuổi già hoặc trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp hoặc trợ cấp tàn tật
hoặc trợ cấp tiền tuất. Việc lựa chọn dạng trợ cấp để áp dụng tuỳ thuộc vào từng
quốc gia, nhng nhìn chung là chỉ có thể ở mức cao hơn các quy định trong công ớc
chứ không đợc thấp hơn. Trong đó, trợ cấp tuổi già đợc quy định từ Điều 25 đến
Điều 30 trong phần V của công ớc. Các trờng hợp đợc bảo vệ là tình trạng sống
lâu hơn một độ tuổi quy định. Độ tuổi quy định không đợc quá 65, tuy nhiên các
nhà chức trách có thẩm quyền có thể ấn định một độ tuổi cao hơn, xét theo khả
năng làm việc của những ngời cao tuổi trong nớc đó.
Công ớc số 128 ngày 7/6/1967: công ớc về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền
tuất quy định thêm: nếu độ tuổi quy định bằng hoặc cao hơn 65, độ tuổi đó phải
đợc hạ thấp trong những điều kiện quy định nhằm mục đích cấp trợ cấp tuổi già,
đối với những ngời đã làm những công việc đợc pháp luật quốc gia coi là nặng
nhọc hoặc độc hại.
Ngời đợc bảo vệ đã có một thâm niên 30 năm đóng góp hay làm việc. Mức
trợ cấp tối thiểu so với thu nhập (trớc đó) là 40% (với ngời có vợ ở tuổi về hu). Các
trờng hợp nhận trợ cấp phải đợc trả trong suốt thời gian xảy ra trờng hợp bảo vệ.
Tuy nhiên, trợ cấp có thể bị đình chỉ nếu ngời thụ hởng tiến hành những hoạt động
có thu nhập đã đợc quy định, hoặc có thể giảm bớt trợ cấp có tính chất đóng góp
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khi thu nhập của ngời đó vợt quá một mức quy định và có thể giảm bớt trợ cấp
không có tính chất đóng góp khi thu nhập hay những phơng tiện sinh sống khác
của ngời đó, hoặc cả hai thứ cộng lại vợt quá một mức quy định.
Trên đây là những quy phạm tối thiểu mà tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã

đa ra, các quốc gia là thành viên phê chuẩn công ớc chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ
pháp lý, nghĩa là khi công ớc có hiệu lực thì nớc đó phải áp dụng trong pháp luật
và thực tiễn nớc mình nội dung của công ớc; những quy định không phù hợp cần
sửa đổi, bổ sung, trừ những quy định có lợi hơn cho ngời lao động.
Nh vậy, theo quan điểm của ILO và hầu hết các nớc trên thế giới, bảo hiểm
hu trí là chế độ bảo hiểm quan trọng, chủ yếu giành cho ngời già, ngời cao tuổi,
sau một thời gian dài tham gia lao động và đóng góp cho quỹ bảo hiểm. Kể từ khi
đủ điều kiện hởng, ngời lao động không phải đóng quỹ bảo hiểm nữa mà đợc hởng
bảo hiểm lâu dài, không xác định thời hạn, cho đến hết cuộc đời họ. Vì vậy, việc
xác định thời gian đóng, tuổi đợc hởng và mức hởng là những nội dung quan trọng
của bảo hiểm hu trí.
ở Việt Nam, chế độ bảo hiểm hu trí là một trong các chế độ nòng cốt trong
hệ thống bảo hiểm xã hội và nó luôn đợc bổ sung, hoàn thiện hơn, vì bất cứ ngời
lao động nào cũng sẽ đến lúc già yếu, hết tuổi lao động nhng vẫn có nhu cầu đợc
đảm bảo cuộc sống và lơng hu là nguồn thu nhập chính của họ trong lúc này.
Chính vì vậy mà trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hu trí là
một trong những chế độ bảo hiểm đợc thực hiện sớm nhất.
Khi còn bị Pháp đô hộ, chính quyền thực dân tuy không thực hiện nhiều chế
độ bảo hiểm nhng đã thực hiện chế độ bảo hiểm hu trí cho ngời lao động. Tuy
nhiên, đối tợng áp dụng chế độ bảo hiểm này còn rất hạn hẹp, chủ yếu là những
ngời tham gia phục vụ cho chính quyền thực dân.
Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ngay sau khi giành đợc chính quyền
cũng đã quan tâm đến chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn, trong đó có chế độ bảo
hiểm hu trí đối với ngời lao động. Sắc lệnh 54/SL ngày 1/1/1945 ấn định những
điều kiện cho công chức về hu. Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định cấp hu
bổng cho công chức. Sắc lệnh 76 ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn chế độ trợ
cấp hu trí đối với công chức. Sắc lệnh 77 ngày 22/5/1950 ấn định cụ thể các chế
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
độ trợ cấp hu trí đối với công nhân. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài ,

kinh tế còn nghèo nàn nên chính sách bảo hiểm xã hội , bảo hiểm hu trí còn hạn
chế. Sau hoà bình lặp lại, ngày 27/12/1961 Chính phủ đã ban hành điều lệ bảo
hiểm tạm thời kèm theo Nghị định số 218/CP về bảo hiểm xã hội cho công nhân
viên chức Nhà Nớc trong đó có chế độ hu trí. Tiếp đến ngày 18/9/1995 cùng với
việc cải cách chế độ tiền lơng , Hội đồng bộ trởng ban hành Nghị định số
236/HĐBT sửa đổi bổ sung các quy định về cách quy đổi thời gian công tác, cũng
nh quy định lại cách tính lơng hu trong chế độ hu trí.
Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo hiểm hu trí
nói riêng thực sự có thay đổi căn bản bắt đầu từ năm 1993 với nghị định số 43/CP
(ngày 23/6/1993) và tiếp sau đó là các quy định của Bộ luật lao động và các văn
bản hớng dẫn thi hành . Những đổi mới qua tất cả các thời kỳ đều tập trung vào
các nội dung quan trọng của bảo hiểm hu trí nh đối tợng tham gia, điều kiện tuổi
đời, thời gian đóng và hởng trợ cấp .
Nh vậy, Việt Nam cũng nh các nớc khác, chế độ hu trí là một trong những
chế độ bảo hiểm xã hội đợc Nhà nớc hết sức quan tâm, luôn có sự sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện cho phù hợp với thực tế. Ngời lao động tham gia bảo hiểm khi hết
tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa đợc hởng chế độ bảo
hiểm hu trí 1 lần hoặc hàng tháng theo quy định của pháp luật. Đây là khoản trợ
cấp nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho ngời về hu, thay thế cho khoản tiền l-
ơng trớc đây mà họ có đợc khi còn đang tham gia quan hệ lao động.
Có thể thấy ở hầu hết các nớc và theo quan niệm của ILO, bảo hiểm hu trí
đều đợc hiểu là một chế độ bảo hiểm xã hội quan trọng nhằm đảm bảo thu nhập
cho ngời lao động khi hết tuổi lao động hoặc khi không còn tham gia quan hệ lao
động.
Dới góc độ pháp luật, chế độ bảo hiểm hu trí là tổng hợp các quy phạm
pháp luật quy định các điều kiện và mức trợ cấp cho những ngời tham gia bảo
hiểm xã hội, khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của chế độ Bảo hiểm hu trí
Trong hệ thống Bảo hiểm xã hội, chế độ bảo hiểm hu trí giữ vị trí quan
trọng. Tầm quan trọng đó không chỉ vì chế độ hu trí là vấn đề quan tâm của mọi

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngời lao động khi tham gia quan hệ bảo hiểm mà còn do hầu hết mọi ngời tham
gia bảo hiểm xã hội đều là đối tợng của bảo hiểm hu trí. Nếu nh các chế độ bảo
hiểm xã hội khác chỉ áp dụng cho một số đối tợng lao động nhất định thì chế độ
bảo hiểm hu trí lại đợc áp dụng cho hầu hết các đối tợng tham gia bảo hiểm xã
hội. Hơn nữa, phần lớn phí đóng góp vào bảo hiểm xã hội đều dành cho việc chi
trả chế độ bảo hiểm hu trí. Trong số 20% quỹ lơng mà ngời lao động và ngời sử
dụng lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm thì có tới 15% dành chế độ hu trí và tử
tuất. Thời gian ngời lao động hởng chế độ hu trí thờng lâu dài nên chế độ này ảnh
hởng, chi phối tới đời sống của ngời lao động nhiều hơn so với các chế độ bảo
hiểm xã hội khác. Nó có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế xã
hội của mỗi quốc gia, điều đó đã đợc chứng minh trong thực tế, tất cả những ngời
tham gia vào bảo hiểm xã hội đều có mong muốn đợc tham gia và hởng chế độ hu
trí. Vì vậy, có thể thấy vai trò của chế độ bảo hiểm hu trí từ 2 góc độ sau:
Đối với ngời lao động: Chế độ bảo hiểm hu trí có vài trò rất lớn cho việc bù
đắp về thu nhập, đảm bảo đời sống vật chất cho ngời lao động khi họ bị mất thu
nhập từ lao động nghề nghiệp do hết tuổi lao động, về nghỉ hu an dỡng. Tiền lơng
hu mà họ nhận đợc là kết qủa tích luỹ trong suốt quá trình làm việc thông qua việc
đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Đây là khoản thu nhập chủ yếu và là chỗ dựa
chính nhằm đảm bảo cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho ngời lao động
trong quãng đời còn lại sau quá trình lao động. Có thể khi lúc về già, nhiều ngời
lao động cũng có những khoản tích luỹ, có chỗ dựa là con cháu, song phần lớn là
họ trông cậy vào khoản trợ cấp hu trí. Hơn nữa, khoản trợ cấp hu trí này còn là chỗ
dựa tinh thần cho những ngời hết tuổi lao động. Những ngời về hu sẽ cảm thấy yên
tâm trong cuộc sống khi họ đợc hởng lơng hu, không bị mặc cảm là gánh nặng xã
hội.
Đối với nhà nớc và xã hội: Nhà nớc là ngời trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và
quản lý toàn bộ sự nghiệp phát triển của BHXH nói chung và bảo hiểm hu trí nói
riêng và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó. Chế độ bảo hiểm hu trí đã thể

hiện đợc trách nhiệm của Nhà nớc trong việc thực thi các công việc của xã hội khi
thông qua việc đảm bảo cuộc sống cho ngời già, thực hiện các chơng trình an sinh
xã hội và đề ra định hớng cho sự hoạt động, phát triển của chế độ bảo hiểm hu trí,
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là điều kiện góp phần nhất định vào công cuộc ổn định, phát triển kinh tế chính
trị ... Ngoài ra, Nhà nớc còn ban hành các quy định cụ thể để gắn trách nhiệm của
chủ sự lao động đối với ngời lao động trong và sau quá trình sử dụng lao động, họ
không chỉ phải trả tiền lơng cho ngời lao động khi làm việc mà còn phải đóng quỹ
bảo hiểm để đảm bảo đời sống ngời lao động khi nghỉ hu nhằm bảo vệ lợi ích hợp
pháp của những ngời lao động này. Do đó, chế độ hu trí là cách thức để nhà nớc
quản lý rủi ro xã hội, để có chính sách phù hợp với tình hình kinh tế chính trị
của đất nớc. Hơn nữa, thực hiện tốt tất cả các chính sách, chế độ BHXH, bảo hiểm
hu trí đến với mọi ngời dân không những là mục tiêu của nhà nớc ta mà là mục
tiêu chung của các quốc gia bởi vì nó là thớc đo năng lực và trình độ của mỗi quốc
gia. Chỉ có quốc gia nào có hệ thống BHXH, bảo hiểm hu trí hoàn thiện chứng tỏ
quốc gia đó là quốc gia phát triển.
Xu hớng già hóa của dân số thế giới càng nhiều dẫn đến số lợng những ngời
nghỉ hu ngày càng gia tăng, để đảm bảo ổn định xã hội và an toàn xã hội, đòi hỏi
bảo hiểm xã hội hu trí ra đời là không thể thiếu và ngày càng phải đợc mở rộng,
hoàn thiện hơn để phù hợp với tình hình kinh tế chính trị xã hội. Do đó, chế
độ bảo hiểm xã hội đã thể hiện đợc tính nhân đạo của bảo hiểm xã hội đối với con
ngời. Đồng thời, chế độ hu trí còn khơi dậy và giữ vững đạo lý tốt đẹp của dân tộc
về tơng trợ cộng đồng, săn sóc và quan tâm đến ngời cao tuổi cũng nh phản ánh
trình độ văn minh của một chế độ xã hội.
Nh vậy, chính sách bảo hiểm hu trí nhìn chung phải là một chính sách mang
tính lâu dài, tơng đối ổn định. Chế độ bảo hiểm hu trí là một trong những vấn đề
xã hội, đang dành đợc sự quan tâm rất lớn của ngời lao động, của Nhà nớc, của
ILO và các tổ chức Quốc tế khác.
2. Đánh giá chung về thực trạng bảo hiểm hu trí trớc khi ban hành Luật

BHXH 2006
Bảo hiểm hu trí là chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc ta, luôn đợc ghi
nhận trong các văn kiện của Đảng và Hiến pháp qua các thời kỳ. Để tổ chức thực
hiện, Nhà nớc ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm hu
trí, trong đó quy định các chế độ, chính sách bảo hiểm hu trí đối với những lao
động về hu an dỡng tuổi già, trong đó có cả những ngời trong lực lợng vũ trang.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1. Những nội dung hợp lý
Sau một thời gian thực hiện pháp luật về bảo hiểm hu trí đã mang lại những
kết quả đáng ghi nhận:
Một là, đối tợng tham gia bảo hiểm hu trí đã đợc mở rộng đến tất cả các
thành phần kinh tế:Nhà nớc và phi Nhà nớc.
Hai là, quỹ bảo hiểm hu trí hình thành từ sự đóng góp của ngời sử dụng lao
động và ngời lao động; quỹ hoạt động theo nguyên tắc hạch toán, cân đối thu chi,
độc lập với ngân sách nhà nớc và đợc quản lý, sử dụng theo quy định của pháp
luật.
Ba là, chế độ bảo hiểm hu trí đã góp phần ổn định đời sống của ngời lao
động trong quá trình lao động và nghỉ hu, bảo hiểm hu trí đã quy định rõ trách
nhiệm của ngời lao động, mức hởng bảo hiểm hu trí đã trên cơ sở mức đóng và
thời gian đóng.Mức bảo hiểm xác định trong khoảng 45% đến 75% lơng đóng là
hợp lý.
Trên thực tế, bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hu trí nói riêng ngày
càng phát triển, khẳng định vai trò của mình trong đời sống xã hội. Năm 2005 đã
chi trả cho 121.800 ngời hởng BHXH hàng tháng, tăng 20,7% so với năm 2004,
trong đó có 100.000 ngời hởng chế độ hu trí, tăng 21,3%; đồng thời năm 2005
cũng chi trả cho 225.500 ngời hởng trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần, tăng 31,3%;
hoạt động bảo hiểm xã hội đã góp phần không nhỏ để giảm bớt khó khăn, giải
quyết các nhu cầu cần thiết cho ngời nghỉ hu. (Theo số liệu Báo cáo tổng kết chính
sách BHXH của Bộ lao động thơng binh xã hội ngày 10/8/2005).

Việc quản lý Nhà nớc về bảo hiểm hu trí đã đợc thực hiện thống nhất trên
cơ sở phân định rõ chức năng quản lý Nhà nớc với chức năng hoạt động sự nghiệp
của bảo hiểm xã hội.
2.2. Những vấn đề còn tồn tại
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, chính sách bảo hiểm xã hội còn bộc lộ
những tồn tại, cụ thể nh sau:
2.2.1. Về ban hành chính sách bảo hiểm xã hội
Điều lệ bảo hiểm xã hội đã ra đời từ cách đây hơn 10 năm mà đến năm
2006 vẫn mang tính tạm thời, các văn bản chỉ đạo thực hiện, sửa đổi, bổ sung các
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chế độ cụ thể vẫn là các văn bản dới luật, cộng với sự tuân thủ pháp luật cha
nghiêm đã hạn chế nhiều đến hiệu quả trong thực tế. Mặc khác, chế độ bảo hiểm
hu trí đợc sửa đổi quá nhiều lần trở lên chắp vá, thiếu tính khoa học, nhiều nội
không hợp lý và thiếu thống nhất.
2.2.2. Về phạm vi đối tợng
Trong suốt thời gian qua, đối tợng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tuy đã
đợc mở rộng nhng với số ngời tham gia cha nhiều. Hiện nay, trong khoảng hơn 10
triệu ngời có quan hệ lao động thì chỉ mới có 6 triệu ngời tham gia bảo hiểm xã
hội, chủ yếu vẫn là lao động thuộc khu vực Nhà nớc; số lao động làm việc ở khu
vực ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội thấp, chỉ chiếm khoảng 20% tổng
số lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội.
2.2.3. Về chế độ bảo hiểm hu trí hàng tháng
Các quy định về quyền lợi và trách nhiệm của ngời lao động đợc quy định
trong chế độ hu trí này cha hợp lý:
+ Công thức đóng/ hởng cha hợp lý:
- Công thức tính lơng hu hàng tháng còn có sự phân biệt giữa lao động nam
và lao động nữ, trong khi tỷ lệ đóng bảo hiểm là nh nhau. Điều đó là không công
bằng giữa các lao động này.
- Đối với ngời lao động hởng hu trí hàng tháng với mức thấp thì sẽ giảm 1%

mức bình quân của tiền lơng tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội nếu nghỉ việc
trớc tuổi là tơng đối thấp. Nó cha thể hiện sự công bằng giữa tỷ lệ cộng trừ cho
cùng một đơn vị thời gian cũng nh không đảm bảo đợc chế độ cân đối thu chi của
quỹ bảo hiểm xã hội.
+ Về cách tính bình quân lơng hàng tháng làm căn cứ đóng BHXH còn có
sự phân biệt giữa khu vực Nhà nớc và ngoài quốc doanh.
- Công thức tính bình quân gia quyền các mức tiền lơng tháng làm căn cứ
đóng BHXH của ngời lao động đóng theo bảng lơng do Nhà nớc quy định
Mức bình quân của
tiền lơng tháng
đóng BHXH
Tổng số tiền làm căn cứ đóng BHXH của 60 tháng
(5 năm cuối) trớc khi nghỉ hu
=
60 tháng
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Công thức tính bình quân gia quyền các mức tiền lơng tháng làm căn cứ
đóng BHXH của ngời lao động không theo thang bản lơng do Nhà nớc quy định
bằng tổng giá trị tiền lơng đóng BHXH của từng tháng nhân với khu vực liên
doanh, t nhân,...
- Công thức áp dụng cho ngời đồng thời đóng hai loại BHXH trên:
Cách tính khác nhau nh trên không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế, không bình đẳng giữa những ngời lao động
+ Theo quy định tại Đ25 của Điều lệ bảo hiểm xã hội, để đợc hởng hu trí
đầy đủ, ngoài điều kiện tuổi đời phải có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên.Song, tại
Đ26 quy định để đợc hởng hu trí hàng tháng với mức lơng thấp hơn cho phép có
thời gian đóng BHXH từ đủ 15 năm đến đủ 20 năm, phải có tuổi đời đủ 60 tuổi đối
với Nam, 55 đối với Nữ. Tơng tự, tại Đ4 của NĐ09/CP lại quy định để đợc hởng h-
u trí hàng tháng, cán bộ xã, phờng ngoài điều kiện tuổi đời (nam đủ 55, nữ đủ 50)

thì chỉ cần có đủ 15 năm trở lên có đóng BHXH. Qua đó, ta thấy sự cha thống nhất
trong quy định về tời gian đóng bảo hiểm tối thiểu giữa các đối tợng tham gia.
+ Mức lơng trợ cấp 1 lần khi hởng bảo hiểm, hu trí hàng tháng cho ngời có
thời gian đóng BHXH lâu hơn khống chế không quá 5 tháng lơng là không phù
hợp, vì nó không khuyến khích các đối tợng lao động tham gia bảo hiểm xã hội
nhiều hơn, đóng góp công sức nhiều hơn.
+ Tuổi về hu của lao động nữ đợc quy định chung là 55 tuổi là cha linh
hoạt, vì hiện nay, trong một số lĩnh vực, ngành nghề (ví dụ: nghiên cứu khoa học,
bác sĩ, giáo viên, ...) mặc dù đã đến tuổi về hu nhng đa số họ vẫn đủ sức khỏe và
đang phát huy kinh nghiệm làm việc. Nh vậy, quy định này vừa lãng phí lao động,
vừa dẫn đến thất thu và bội chi quỹ bảo hiểm xã hội.
Mức bình
quân tiền lơng
tháng = để
tính lơng hu
Tổng số TL làm căn cứ +
đóng BHXH theo thang
bảng lơng do Nhà nớc
quy định
Tổng số TL làm căn cứ
đóng BHXH không theo
thang lơng bảng do
Nhà nớc quy định
Tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2.4. Về chế độ bảo hiểm hu trí một lần
+ Về đối tợng hởng hu trí 1 lần, pháp luật cũ còn quy định quá nhiều đối t-
ợng và không có sự thống nhất giữa các văn bản: Theo nghị định số 01/2003/NĐ-
CP thì chỉ có 2 trờng hợp đợc hởng hu trí 1 lần: ngời lao động định c hợp pháp ở n-

ớc ngoài và trờng hợp ngời lao động nghỉ việc đã đủ tuổi nghỉ hu hoặc suy giảm
khả năng lao động từ 61% trở lên do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
nhng cha đủ thời gian đóng BHXH để hởng hu trí hàng tháng. Đến thông t
07/2003/TT-BLĐTBXH lại cho phép ngời lao động nghỉ việc cha đủ điều kiện h-
ởng hu trí hàng tháng nhng nếu 6 tháng không tiếp tục làm việc thuộc đối tợng
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà ngời lao động có đơn tự nguyện thì sẽ giải
quyết trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần.
+ Về mức lơng bảo hiểm hu trí 1 lần quy định là mỗi năm đóng BHXH tính
bằng 1 tháng lơng bình quân làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Mức lơng này là
quá thấp, không tơng xứng với mức đóng.
2.2.5. Việc tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
Vấn đề này còn một số hạn chế, cha có giải pháp tích cực để chống tình
trạng chiếm dụng, nợ đọng tiền đóng BHXH. Tồn tại này là do ngời sử dụng lao
động và ngời lao động cha nhận thức đầy đủ về quyền lợi và trách nhiệm trong
việc thực hiện bảo hiểm xã hội; công tác tuyên truyền về BHXH cha đợc coi trọng;
việc thanh tra, kiểm tra cha đợc thờng xuyên và cha có các chế tài đủ mạnh để xử
lý vi phạm. Một số quy định về thủ tục, hồ sơ giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội
cho ngời lao động cha minh bạch và cha đảm bảo yêu cầu của cải cách hành
chính.
2.2.6. Vấn đề quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn
Quỹ hu trí cha đảm bảo cân đối lâu dài. Theo mức đóng, hởng bảo hiểm nh
quy định trớc đây, dự tính cho thấy quỹ có khả năng cân đối thu chi đến năm
2020, từ 2021 trở đi, số chi lớn hơn số thu. Quỹ sẽ giảm nhanh và dự báo đến
2031, số chi sẽ lớn hơn rất nhiều so với số thu.
2.2.7. Có sự pha trộn giữa chế độ BHXH với một số chính sách khác
Do trớc đây cùng một nguồn quỹ là ngân sách Nhà nớc nên chế độ hu trí bị
đan xen, lồng ghép với các chính sách xã hội khác nh chính sách đối với ngời có
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công với cách mạng, chính sách việc làm. Một trong những biểu hiện của việc đan

xen này là việc giảm tuổi đời hoặc quy đổi thời gian công tác. Điều này góp phần
làm cho mức chi trợ cấp cho các chế độ hu trí và mất sức lao động là rất lớn.
3. Sự cần thiết phải đổi mới chế độ bảo hiểm hu trí theo Luật BHXH 2006
Theo sự phân tích trên, bảo hiểm hu trí còn nhiều vấn đề tồn tại, cha có khả
năng phát triển bền vững. Vì vậy, yêu cầu đổi mới chế độ bảo hiểm hu trí, giải
quyết các tồn tại trên theo hớng:
+ Cần pháp điển hoá các chế định về bảo hiểm hu trí trong một văn bản
thống nhất, trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu đạt đợc.
+ Mở rộng đối tợng tham gia bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hu trí
nói riêng, không chỉ theo hình thức bắt buộc mà còn theo hình thức tự nguyện.
+ Xác định công thức đóng hởng hợp lý trên cơ sở: thống nhất dần cách
tính bảo hiểm giữa các thành phần kinh tế, giải quyết chế độ hu trí cho lao động
nữ một cách hợp lý, thống nhất điều kiện về thời gian đóng để hởng bảo hiểm hu
trí hàng tháng
+ Cần tách chế độ bảo hiểm hu trí với các chế độ, chính sách khác.
+ Cần có quy định về đầu t, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội để quỹ phát triển
hiệu quả, đảm bảo cân đối thu chi.
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua
cũng đòi hỏi bảo hiểm xã hội phải có sự đổi mới tơng ứng.
Qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế nớc ta đã có những thay đổi cơ bản từ một
nền kinh tế tự cung, tự cấp, khép kín với cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, chúng
ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trờng, định hớng XHCH, không những đã thoát
khỏi khủng hoảng và lạm phát mà đã có sự tăng trởng. Sau khi kết thúc kế hoạch 5
năm (1991 1995), với hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch đều hoàn thành và hoàn
thành vợt mức, đất nớc ta đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, 10 năm gần
đây, là 10 năm phát triển kinh tế ổn định với tốc độ cao, GDP đạt bình quân 7,5%/
năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; mức bình quân theo đầu ngời năm 1995 là 206
nghìn đồng, năm 2005 là 640 USD, năm 2006 là 720 USD. Nh vậy, mức GDP tính
theo đầu ngời năm 2005 gấp 2,2 lần năm 1995. Nguồn vốn đầu t nớc ngoài tăng
nhanh, năm 2005 đạt trên 5,2 tỷ USD, tính chung mọi nguồn vốn cho đầu t phát

14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
triển, hàng năm đã chiếm 35% đến 37% GDP, là mức đầu t cao so với các nớc
trong khu vực. (Nguồn:
thongke/kt_xh/2005/122005/b3 đợc lu vào ngày 1/5/2007 05:40:12 GMT của
Google). Theo báo cáo mới nhất về Tổng quan kinh tế châu á 2006 của ngân
hàng phát triển châu á (ADB) thì tăng trởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,8%, dự
báo là 7,6% cho năm 2007. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tăng trởng tổng
sản phẩm trong nứơc của năm 2006 tăng 8,17% so với năm 2005. Cũng trong 20
năm qua, cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực theo hớng công nghiệp hoá
- hiện đại hoá gắn sản xuất với thị trờng, gắn nhập khẩu với xuất khẩu, coi xuất
khẩu là hớng đột phá để phát triển kinh tế. Về chuyển dịch cơ cấu ngành, thể hiện
rõ nhất thông qua việc điều chỉnh tỷ trọng từng nganh trong cơ cấu GDP, so sánh
năm 2005 với năm 1988 thì thấy: tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ 46,3% giảm
xuống còn 21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,6% lên 41%, tỷ
trọng dịch vụ tăng từ 33% lên 38%. Những số liệu trên đây cho ta thấy nền kinh tế
nớc ta tăng trởng với tốc độ tơng đối cao, năm sau cao hơn năm trớc. Trên cơ sở
đó, Nhà nớc đã năm lần điều chỉnh mức lơng tối thiểu nhằm phù hợp với thực tế
tăng trởng và biến động giá cả, tiền tệ, kéo theo sự tăng trởng tơng ứng của lơng h-
u và trợ cấp. Điều đó đã tác động đến sự ổn định của bảo hiểm hu trí cũng nh việc
hoạch định và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, đòi hỏi có sự thay đổi, tính toán cho
phù hợp.
Góp phần vào sự tăng trởng kinh tế của Việt Nam, còn có sự đóng góp rất
lớn của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc, ngoài các doanh nghiệp t nhân và khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung. Luật đầu t chung, luật doanh nghiệp
có hiệu lực đã đóng góp rất lớn trong tiến trình đổi mới kinh tế xã hội ở nớc ta.
Vì thế , đã có hàng trăm nghìn doanh nghiệp ngoài quốc doanh đợc thành lập và
phát triển tạo việc làm, thu nhập cho hàng triệu lao động, hàng năm khu vực ngoài
quốc doanh đã đóng góp khoảng hơn 60% trong GDP. Do đó, việc hoàn thiện chế
độ bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo hiểm hu trí nói riêng theo hớng mở

rộng đối tợng tham gia là vấn đề rất cần thiết.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nớc ta đang thực hiện chính sách đổi mới, chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trờng theo định hớng XHCN, có sự quản lý của Nhà nớc. Trong bối cảnh đó, quan
hệ lao động theo cơ chế mới cũng hình thành, ngời lao động thuộc mọi thành phần
kinh tế đợc bình đẳng trớc pháp luật Thực tế đó cũng đóng góp không ít thành
công trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bên cạnh đó cũng còn bộc
lộ một số vấn đề cần khắc phục.
Việc thực thi các chính sách còn cha triệt để tạo nhiều kẽ hở cho nhiều đối
tợng lao động và sử dụng lao động dựa vào đó để tìm cách vi phạm pháp luật về
bảo hiểm hu trí, hàng triệu ngời lao động thuộc diện bắt buộc nhng cha tham gia
bảo hiểm xã hội, đặc biệt là khu vực ngoài Nhà nớc.
Hơn nữa, qua gần 20 năm phát triển kinh tế thị trờng và 10 năm tách quỹ
bảo hiểm xã hội độc lập với Ngân sách Nhà nớc, cho thấy Việt Nam đã có kinh
nghiệm để hoàn thiện bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hu trí nói riêng phù
hợp với điều kiện mới củă nền kinh tế thị trờng.
Xuất phát từ tình hình nói trên, việc ban hành luật BHXH nhằm pháp điển
hoá các quy định hiện hành và bổ sung các quy định mới về bảo hiểm xã hội cho
phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN, đáp
ứng nguyện vọng đông đảo của ngời lao động, đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập
quốc tế.
16

×