Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận đai học sư phạm Mỹ thuật đời Lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.96 KB, 19 trang )


Mỹ thuật đời Lý
Cuối thế kỷ thứ 10, nước ta thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc. Trải qua hai triều Đinh, Lê
thống nhất nước nhá và chống tái ngoại xâm, đến thời Lý, nghệ thuật phát triển thăng hoa
với bản sắc riêng nhằm hoá giải những ảnh hưởng của Văn hoá Trung Hoa.
Hai triều Đinh, Lờ đó tạo dựng được một nhà nước có chủ quyền. Triều Lý nắm quyền có
ý thức phục hưng Văn hoá dân tộc trên tinh thần có sự giao thoa với Văn hoá Chăm - Ấn
đã tạo cơ sở cho nghệ thuật tạo hình phát triển. Thêm vào đó, việc Phật giáo trở thành
quốc giáo, tăng lữ có vị trí tinh thần trọng yếu đạo Phật được phổ cập đã là nhân tố tác
động vào hướng phát triển và phong cách nghệ thuật. Việc nước Đại Việt độc lập, tự chủ,
đủ sức mạnh chống ngoại xâm, trải qua nhiều năm thái bình thịnh vượng cũng có tác
động không nhỏ.
Ý thức dân tộc định hình cho nghệ thuật. Phật giáo ảnh hưởng đến các công trình kiến
trúc và đề tài các tác phẩm. Cuộc sống thái bình tự do, yên ấm ảnh hưởng đến con người.
Tâm hồn người Việt trở nên thư thái, có thời gian để lãng mạn và chuyên tâm vào nghệ
thuật. Nghệ thuật thời Lý thăng hoa. Tất cả là nhờ nền độc lập và sức mạnh của đất nước.
Kiến trúc thời Lý phục vụ Phật giáo. Rất nhiều quốc tự được xây dựng. Phong cách thống
soái là hoành tráng, đồ sộ. Chùa Một Cột (chựa Diờn Hựu) được xây ở Thăng Long với
quy mô lớn hơn ngôi chùa đã có trước đó ở Hoa Lư và với sự cách điệu tuyệt diệu. Chùa
Báo Ân và thỏp Bỏo Thiờn cao khoảng 70m. Chùa Phật Tích - Bắc Ninh, chùa Long Đọi
- Hà Nam, chùa Bà Tấm - Hà Nội, chùa Quảng Giáo - Quảng Ninh đều là những chùa
lớn.
Kiến trúc chựa thỏp thời Lý đều to lớn, cao. Cỏc chựa thường nằm trên đỉnh núi cao. Cấu
trúc và bố cục chựa thỏp đơn giản, chỉ gồm một ngôi chùa chính và ngọn tháp lớn cú đỏy
vuụng. Điều này phản ánh tư tưởng giản dị, phóng khoáng của nguời thời Lý. Trang trí
tháp chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Chăm, với cỏc hỡnh chim thần (Garuđa), nữ thần đầu
nguời mình chim, có lẽ do việc bắt những tù binh Chăm sau cuộc nam chinh của Lý
Thỏnh Tụng. Vì thế ấn tượng của ngôi chùa thời Lý rất độc đáo: vừa tôn nghiêm, hùng vĩ,
đường bệ bởi không gian và đường sống kiến trúc, vừa phóng khoáng lãng mạn bởi gần
thiên nhiên, vừa sinh động, lý thú với các hình trang trí mang hơi hướng Chăm.
Chùa thời Lý đến nay không còn nhiều. Nhưng ngay ở Hà Nội có một tác phẩm tuyệt đẹp


là chùa Một Cột. Ngôi chùa chỉ dùng một cột duy nhất làm trụ đỡ. Khối nhà đồ sộ phía
trên và cây cột đá mảnh khảnh tưởng rất tương phản, nhưng lại kết hợp hài hoà thành một
hình ảnh tượng trưng cho bông sen giữa hồ. Nó cho thấy đạo Phật đã phát triển mạnh
trong triều đại này và có tác động rõ rệt lên kiến trúc.
Có vẻ vô lý khi một nền kiến trúc hoành tráng quy mô lại có một ngôi chùa nhỏ làm đại
diện. Người ta thường nghĩ rằng kích thước chùa Một Cột từ thời Lý đến nay không thay
đổi. Thực ra nó đã trải qua nhiều lần làm lại, mỗi lần kích thước đều được thu nhỏ. Lần
xây dựng đầu, chựa cú quy mô rất lớn. Một tài liệu cổ thời Lý miêu tả chùa nằm trên ao
Linh Chiểu, có cầu bắc thông qua một gian điện thờ, quanh ao có hành lang, ngoài dãy
hành lang cú thờm ao Bớch Trỡ, lại có hai dãy cầu thang bắc qua ao, mỗi đầu cầu có tháp
lưu ly. Rõ ràng quanh chùa Một Cột là một khối kiến trúc đồ sộ Học giả Nguyễn Đỗ
Cung đã dẫn một tài liệu mới về kích thước chùa, có đoạn tả cây cột cao tới 40 thước.
Điêu khắc thời Lý tinh vi và cân đối, mang cái trung dung tĩnh tại và cái “hư khụng” của
Phật giáo. Vừa mới thoát khỏi nghìn năm nô lệ, được sống trong thái bình thịnh vượng,
các nghệ sĩ có thể đắm mình trong tôn giáo và triết học, tỉ mỉ tạc những pho tượng thể
hiện cái nhìn thoát tục.
Bên cạnh đó, điêu khắc cũng chịu ảnh hưởng Chăm. Những hình trang trí trên mặt đá của
tháp Chương Sơn (Hà Nam) có bố cục, dáng điệu và hình thể gần với điêu khắc Chăm,
nhưng cách biểu hiện khuôn mặt lại thuần Việt. Những khuôn mặt vũ nữ không tròn bầu,
xa xăm và có phần vô cảm như những khuôn mặt Chăm, mà linh động và tươi trẻ. Pho
tượng đời Lý nổi tiếng nhất là tượng A di đà ở chùa Phật Tích. Tượng cao 2m77 cả bệ,
riêng tượng cao 1m87 (bằng cái Linga của chị Toet), thể hiện Đức Phật đang ngồi thuyết
Pháp trên toà sen. Toà sen cao và bệ tượng tạo thành một hình tháp nhiều tầng gây cảm
giác như đang nâng bổng Đức Phật lờn. Dỏng ngồi của Phật thanh thoát, thư giãn. Đường
cong chạy từ cổ dọc theo sống lưng cộng với khuôn mặt thoát tục gợi đến cái đẹp và sự
dịu dàng phi giới tính. Toàn bức tượng cho ấn tượng về sự đốn ngộ cao siêu và tâm hồn
tĩnh tại Cũng rất thoát tục và lãng mạn, con rồng uốn lượn mềm mại và có một cái đầu
mơ màng, những khúc uốn nhỏ dần về phía đuôi.
Rồng thời Lý có bốn chân, loại lớn có vẩy. Nó rất khác con rồng thô to và mạnh thời
Trần, cũng rất khác con rồng đường bệ của Trung Hoa. Thật thú vị khi con vật biểu tượng

của Hoàng đế mà lại tỏ ra mơ mộng và đáng yêu như thế. Nó chứng tỏ cái chất vị tha
Phật giáo và cái lãng mạn, cái Triết lý đã thấm sâu vào thời đại ấy, từ nhà vua đến thứ
dân, nhà sư và nghệ sĩ. Một thời đại thật là đẹp !
Mụ típ rồng triều Lý đã xuất hiện trên nhiều loại trang trí bố cục hình tròn, hình cánh sen,
hỡnh lỏ đề, hình chữ nhật. Hầu như ở đâu, không gian nào, những con rồng luụn cú tư thế
và cấu trúc giống nhau. Nếu nhận xét một cách tương đối kỹ tính như PGS Nguyễn Du
Chi, thì có thể chia rồng thời Lý làm hai loại cỏ ngẫng và cổ rụt. Phong cách thời Lý, về
đề tài liên quan đến rồng và bố cục hình trang trí rồng, được các đời sau học theo và giữ
gìn.
Thời Lý không chỉ thành công trong độc lập tự chủ, chống ngoại xâm về quân sự, chính
trị, mà còn rất thành công trong Văn hoá nghệ thuật. Mỹ thuật thời Lý được đặt lên hàng
đầu so với các triều đại khác bởi tính độc đáo và tinh tế của nó, bởi cái hiền triết sâu lắng
của nó. Có lẽ nguyên nhân sâu xa là ở cuộc sống thanh bình, một thời gian dài không có
chiến tranh, đô hộ.
Rồng Việt Nam
Con rồng Việt Nam là trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa hình rồng mang bản sắc
riêng, theo trí tưởng tượng của người Việt. Nó khác với rồng trong trang trí kiến trúc và
hội họa Trung Hoa và ở quốc gia khỏc. Cỏc di tích về con rồng Việt Nam còn lại khỏ ớt
do các biến động thời gian và sự Hán hóa của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam,
nhà Nguyễn.
[sửa] Lịch sử
Người Việt sống tại vùng sông nước nên từ thời xa xưa họ đã tôn sùng cá sấu như một
con vật linh thiêng, vỡ chỳng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời kỳ này vùng đất
người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã thần thánh hóa loài cá sấu lên thành con
"Giao Long" mà người Trung Hoa gọi sau này, một cách thức tô điểm cho hình hài con
cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và cũng nhiều ý nghĩa hơn. Con rồng này tồn tại cùng
tâm thức của người Việt trong suốt thời Văn Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long
này mà người Trung Hoa đã tạo ra con rồng Trung Hoa của họ.
Trong cả thiên niên kỉ bị đô hộ bởi Trung Hoa, trong hoàn cảnh chung của chính sách
Hỏn húa, hình ảnh con rồng Việt Nam phát triển theo các xu hướng giống với con rồng

của người Hán. Đến khi giành được độc lập, thời kỳ nhà Lý lên nắm quyền, đặt tên nước
là Đại Việt (để sánh ngang với Đại Tống của Trung Hoa), Việt Nam đã có con rồng cho
riêng mình và khác với con rồng Trung Quốc. Văn hóa [Đại Việt] nói chung, trong đó có
mỹ thuật đã khẳng định được đẳng cấp và sự độc lập trong nghệ thuật biểu hiện của
mình. Xuất hiện từ việc trang trí kinh thành lộng lẫy, chùa chiền đồ sộ , con rồng Việt
Nam được tạo nặn từ chất liệu văn hóa dân tộc, kết hợp với yếu tố văn hóa Chăm Đông
Nam Á và văn hóa Trung Hoa.
[
Rồng Việt Nam
Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là
tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử (Bệ Rồng, Mình Rồng), là linh vật đứng vào
hàng bậc nhất trong tứ linh "Long, Lân, Quy, Phụng". Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm
bởi nó gắn liền với mây, mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "Con Rồng Cháu Tiên"
Mỗi người dân Việt Nam đều mang khái niệm từ thời mở nước cha rồng mẹ tiên, với huyền sử Hùng
Vương con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương đã dạy dân tục xăm mình hình Rồng ở ngực, bụng
và hai đựi (Thỏi Long) để không bị loài thuỷ quái xâm hại. Rồng tượng trưng cho thần linh, mây, mưa, sấm
chớp. Hình tượng Rồng còn xuất hiện trong văn hoỏ Đụng Sơn, Âu Lạc với những hình trang trí chữ S và
tục thờ tứ pháp.
Qua thời kỳ Bắc thuộc dài đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Hình ảnh "Rồng
bay lên" Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được đem đặt cho đất đế đô. Rồng thời
Lý tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước,
của mây cuộn.
Triều Lý dựng đô, vua Thỏi Tụng cho mở hàng quán chen chúc sát tới đền rất huyên náo. Vua thấy đền cổ
bèn sửa sang lại làm nơi thờ thần. Đến đêm, thần hiển linh nổi trận gió Bắc rất to, các nhà bên đều đổ hết,
chỉ còn đền thờ. Vua mừng nói: "Đó là thần Long Đỗ coi việc nhân gian". Hình Rồng thời Lý được trang trí
ẩn hiện trong hỡnh lỏ đề, cánh sen giỡn sóng, ở bệ tượng đức Phật Adiđà, Quan Âm Rồng thời Lý có thân
hình tròn trặn, uốn lượn nhiều khúc, dài và nhỏ dần về phía đuôi, có dáng dấp gần gũi với loài rắn nhưng
đầu Rồng có tỷ lệ cân đối so với thõn, chõn nhỏ, mảnh, thường là 3 ngón. Rồng thời Lý nhẹ nhàng, thanh
thoát. Những khúc uốn hình chữ S gần như không thể thiếu. Rồng được trang trí trong chựa thỏp, cung điện
có đầu ngẩng cao, mồm há rộng giỡn ngọc, mào hình ngọn lửa hướng về phía trước, tai bờm, râu rồng vút

nhỏ dần chuyển động như bay lượn tạo nên bố cục chặt chẽ. Nhìn tổng thể, Rồng Lý tạo ra vẻ đẹp thẩm mỹ
thuần khiết, cách điệu sống động như một tuyên ngôn độc lập có giá trị đến ngày nay về mỹ thuật của Rồng
Đại Việt.
Rồng thời Trần tuy có thừa kế những yếu tố cơ bản của thời Lý nhưng đó cú những biến đổi về chi tiết.
Dạng tự chữ "S" dần dần mất đi hoặc biến dạng thành hình con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp
sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp,
nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng vừng hỡnh yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thỡ đuụi
thẳng và nhọn, khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vảy như những nửa hình hoa tròn nhiều cánh đều
đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.
Rồng thời Lê thay đổi hẳn. Rồng không nhất thiết là một con vật mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở
trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một
chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chõn cú năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê
tượng trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xuất hiện quan niệm tứ linh (bốn
con vật thiêng) tượng trưng cho uy quyền của vương triều Rồng đứng đầu trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là
Lân (tượng trưng cho sự thái bình và minh chúa), Quy (con rùa - tượng trưng sự bền vững của xã tắc) và
Phụng (tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều đại).
Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã được nhân cách hóa, được đưa vào
đời thường như hình rồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.
Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở
nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ
thọ Phần lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống
sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vảy trên lưng rồng có tia,
phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng
cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.
Hình tượng Rồng còn huyền bí về long mạch, thuyết phong thủy nơi đất phát đế vương mộ táng. Chuyện
mộ táng hàm Rồng, chúa Trịnh phát tích, sách Trung Hưng Thực Lục viết: "Ông già Tống Sơn giỏi phong
thủy thấy Trịnh Liễu cầy ruộng lại siêng học hành, đức hạnh bốn giỳp đặt mộ nơi huyệt khí quý xứ Nanh
Lợn. Đêm ấy trời đất chuyển động, mưa gió nổi to trên mộ có vầng sáng ánh trăng, xa trụng cú Rồng đen
ấp lên trên. Tống Vương nói: "Rồng vàng là đế, rồng đen là vương ". Quả nhiên, đến 4 đời sau thì nhà
Trịnh phát vượng ".

Rồng tượng trưng cho sự phồn vinh và sức mạnh của dân tộc, nhanh chóng trở thành hình tượng biểu hiện
uy quyền của Nhà nước phong kiến, chỉ dùng nơi trang trọng nhất của cung vua, hay những công trình lớn
của quốc gia. Đó cú thời triều đình phong kiến chạm khắc hình rồng trên nhà cửa hay đồ dùng gia đình.
Nhưng sức sống của con Rồng còn dẻo dai hơn khi nó vượt ra khỏi kinh thành, đến với làng quê dân dã. Nó
leo lên đình làng, ẩn mình trờn cỏc bình gốm, cột đình, cuộn tròn trong lòng bát đĩa hay trở thành người
gác cổng chùa. Rồng còn có mặt trong những bức tranh hiện đại phương Đông, biểu hiện một mối giao hòa
giữa nền văn hóa xa xưa bằng những ý tưởng mới mẻ kỳ lạ. Rồi con Rồng lại trở về với niềm vui dân dã
trên chiếc bánh trung thu của mọi nhà.
Quả thật, hình tượng Rồng rất thân thiết trong tâm thức người dân Việt Nam. Các triều đại vua chúa xưa
đưa múa Rồng truyền thống trở thành loại hình múa nghệ thuật (múa tứ linh Lờ-Trịnh). Rồng trong đời
sống dân gian được thể hiện rất phong phú: cú mỳa Rồng trờn sõn đỡnh trong lễ hội, trò chơi trẻ con Rồng
rắn lên mây, hình ảnh Rồng xuất hiện trong tranh dân gian Đông Hồ Trên đất nước cũng có nhiều địa
danh tên Rồng như: Vịnh Hạ Long, cầu Hàm Rồng, sông Cửu Long
Hiện nay, hình tượng con rồng tuy không còn tính chất thiêng liêng, tối thượng nhưng vẫn được đưa vào
trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật Dù ở bất cứ thời điểm nào, con rồng
vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt
Rồng Với người Việt Nam
Con rồng Việt Nam là trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa hình rồng mang bản sắc
riêng, theo trí tưởng tượng của người Việt.Rồng là con thằn lằn. Nó khác với rồng trong
trang trí kiến trúc và hội họa Trung Hoa và ở quốc gia khỏc. Cỏc di tích về con rồng Việt
Nam còn lại khỏ ớt do các biến động thời gian và sự Hán hóa của triều đại phong kiến
cuối cùng ở Việt Nam, nhà Nguyễn. Con rồng ở Việt Nam cũng tuỳ theo thời kỳ. Như
hình ở trên là con rồng thời Lý, thể hiện sự nhẹ nhàng
[1]
. Còn con rồng thời Trần thì mạnh
mẽ hơn, thân hình to và khoẻ khoắn, vì thời trần 3 lần chống quân Nguyên-Mông.
[1]
Rồng Việt Nam luụn cú một mụ-tớp rõ ràng đặc trưng đó là:
• Thân rồng uốn hình sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm. Thân mềm mại uốn
lượn thể hiện sự biến hóa. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn.

• Đầu rồng có bờm dài, râu cằm, không sừng. Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng
nanh ngắt lên. Đặc biệt là cái mào ở mũi, sun sóng đều đặn chứ không phải là cái
mũi thú như rồng Trung Hoa. Lưỡi mảnh rất dài.
• Miệng rồng luôn ngậm viờn chõu (ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc rồng
hay cầm ngọc bằng chân trước).
Thường được tạc vào đá như biểu tượng linh thiêng canh giữ chùa chiền, lâu đài.
[sửa] Rồng với người Trung Quốc
Tuy xếp hàng thứ tư trong tứ linh nhưng rồng có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống
tâm linh của người dân Trung Quốc. Cuối năm 1987 tại huyện Bộc Dương (濮陽) tỉnh Hà
Nam, người ta khai quật được một con rồng bằng gốm, giám định là có 6 ngàn năm tuổi.
1. Như vậy điều này càng chứng minh thêm sự sùng bái rồng trong xã hội nguyên thủy
chiếm địa vị trọng yếu trong tín ngưỡng linh vật hay vật tổ (totemism: Đồ đằng sùng bái
圖騰崇拜)
2. Và liên quan mật thiết đến chính trị, kinh tế, văn học nghệ thuật, phong tục dân gian từ
đời Hạ, đời Thương và ảnh hưởng này kéo dài mấy ngàn năm không suy giảm.
3. Rồng luôn hiện hữu trong các chuyện thần thoại Trung Quốc, trong các cổ vật, tranh
vẽ, lời búi trờn mai rùa xương thú khai quật được, và trong các thư tịch cổ như Chu Dịch,
Sơn Hải Kinh, Tả Truyện, v.v Rồng chữ Hán viết là 龍 với các cách phiên thiết như:
a. Khang Hi 康熙: lực chung thiết 力鍾切, như vậy đọc là lung; lô dung thiết âm
lung 盧容切音籠, như vậy cũng đọc là lung.
b. Chu Dịch Đại Từ Điển 周易大辭典 (căn cứ Thuyết Văn Giải Tự 說文解字):
lực chung thiết chung vận 力鍾切鍾韻, như vậy đọc là lung.
c. Từ Hải 辭海: lư dung thiết âm lung 閭容切音籠, như vậy đọc là lung.
Theo các cách phiên thiết trờn thỡ chữ 龍 nên đọc là ôlungằ. Nhưng từ trước đến nay
người Việt vẫn đọc là ôlongằ, có lẽ căn cứ vào thanh phù đồng 童 (giản lược thành chữ
lập 立 trên đầu).
Thuyết Văn Giải Tự giảng về rồng (long) là: ôLõn trựng chi trưởng, năng u năng minh,
năng tế năng cự, năng đoản năng trường, xuân phân nhi đăng thiên, thu phân nhi tiềm
uyờn.ằ 鱗蟲之長, 能幽能明, 能細能巨, 能短能長, 春分而登天, 秋分而潛淵 (Rồng
đứng đầu các loài có vẩy, có thể ẩn hiện, có thể biến hóa nhỏ hoặc lớn, dài hoặc ngắn; tiết

xuân phân thì bay lên trời, tiết thu phân thì lặn sõu đỏy vực).
4. Đoàn Ngọc Tài chỳ: ôMao Thi - Liệu Tiêu truyện viết: Long sủng dã. Vị long tức sủng
chi giả tỏ dó. Chước truyện viết: Long hoà dã. Trường phát đồng. Vị long vi ung hoà chi
giả tá tự dó.ằ 毛詩蓼蕭傳曰: 龍寵也. 謂龍即寵之假借 也.勺傳曰: 龍和也. 長發同. 謂
龍為邕和之假借字也 (Truyện Liệu Tiêu trong Mao Thi viết: Long tức là sủng (bằng
vinh diệu, yêu mến). Nói long tức là nói chữ giả tá của sủng. Chước truyện nói: Long tức
là hoà. Đồng nghĩa với trường phát (bằng phát triển lâu dài). Nói long tức là nói chữ giả
tá của ung hoà (bằng hoà mục, hoà hiệp).
5. Theo lời chú của Đoàn Ngọc Tài, trong cổ văn, chữ long ngoài ý nghĩa là một linh vật
còn được dùng như chữ giả tá của sủng và hoà với các ý nghĩa đã nêu trên. ).
Rồng ở Trung Quốc có thể chia làm ba hệ thống: Rồng đầu lợn ở phía Bắc, rồng đầu rắn
mình người ở vùng trung tâm và rồng đầu cá sấu ở phía Đông. Truyền thống tôn thờ rồng
của Trung Quốc được những người cổ xưa giữ gìn và phát huy. Họ là những người sống
bằng nghề săn bắt và đánh cá nên họ rất sùng kính những nguồn thức ăn chính của mình
như lợn, nai, chim và rắn.
Hình ảnh của rồng được kết hợp giữa đầu thú với mình rắn từ nền văn hóa Hongshan và
không đổi cho đến khoảng 4.000 năm sau đó. Rồng Honshan là hình ảnh sớm nhất và
hoàn chỉnh nhất về rồng được tìm thấy ở Trung Quốc.
Phát hiện lớn nhất và quan trọng nhất là tượng rồng đầu lợn bằng ngọc dài 26cm và cuộn
lại như chữ “C”. Tượng có đầu lợn, thân rắn, mụi mớm, mắt lồi và có lỗ ở phía sau.
Ngoài ra họ còn tìm thấy rất nhiều xương lợn được chôn cùng với người chết ở khu
Hongshan. Điều này chứng minh rằng lợn từng có vị trí rất quan trọng và có thể là biểu
tượng cho sự thịnh vượng.
Người ta vẫn còn đang tranh cãi các giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của rồng. Một số
tin rằng thân rồng bắt nguồn từ thằn lằn, rắn hoặc cá sấu, đầu thì giống ngựa hay 1 loại
động vật có sừng nào đó. Nhưng bây giờ người ta lại tìm thấy tượng rồng đầu lợn tại
vùng Hongshan, trải dài từ Đông Nam khu tự trị Mongolia đến phía Tây tỉnh Liaoning,
Đông Bắc Trung Quốc.
Tượng rồng đầu lợn tìm thấy ở Hongshan là bằng chứng khảo cổ đầu tiên cho một hệ
thống tín ngưỡng nguyên thủy từng được nghiên cứu

[sửa] Rồng ở phương Tây
Trong truyện cổ tích Nga hay của một số dân tộc ở châu Âu, rồng thường được miêu tả
như một loài bò sát có vảy, đuôi dài, thường có ba đầu thổi ra lửa và biết bay. Các đầu
này có khả năng tự mọc ra nếu bị chặt mất đầu cũ. Một số rồng chỉ có 1 đầu và có một cái
mõm ngắn, quặp như mỏ đại bàng.
Cũng theo những truyện kể trên, rồng thường được giao nhiệm vụ canh giữ kho báu, lâu
đài hay người đẹp, song thường tỏ ra là loài "hữu dũng vô mưu" vì thường chịu thua và
thiệt mạng dưới tay của một tráng sĩ.
Đối với Phương Tây, Rồng là một loài quái vật, tượng trưng cho sức mạnh nhưng nghiên
về khía cạnh độc ác, hung dữ.
Rồng có hình dáng của một con khủng long nhưng thêm vào đó là sừng, cỏnh, võy lưng
và có thể phun ra lửa hoặc nước… Da của nó thì rắn chắc không loại vũ khí nào có thể
sát thương được, điểm yếu của nó nằm ở mắt và lưỡi, sống ở những nơi hẻo lánh mà con
người ít đặt chân đến. Rồng cơ bản có 4 loại mang 4 sức mạnh của thiên nhiên là 4 yếu tố
tạo nên vũ trụ: Gió, Lửa, Đất và Nước. Từ 4 loại chính này mà người ta còn tưởng tượng
ra nhiều loại khác nhau vô cùng dữ tợn. Rồng Đất sống trong những hang động sâu thẳm
trong núi hoặc thung lũng. Rồng Nước sống ở bờ biển, dưới biển, đầm lầy. Rồng Lửa
sống ở các hang động của núi lửa. Rồng Gió sống ở các vách đá, đỉnh núi cao.
• Thật ra xưa kia có Rồng hay không?
o Về khía cạnh sinh học, theo hình dáng và cách sinh sống thỡ đú có thể là
những con khủng long còn sót lại của thời kỳ tiền sử, hoặc những loài thằn
lằn khổng lồ sống trong những hang động, vùng biển hay các thung lũng,
cánh rừng mà con người ít đặt chân đến. Những con khủng long, thằn lằn
này lại có một sự đột biến gen khiến nó có năng lực đặc biệt như mọi
người đã tin tưởng.
o Về khía cạnh tôn giáo, có thể đó là loài sinh vật có thật nhưng cũng có thể
đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng khi người ta sợ hãi một sức mạnh
siêu nhiên trong tự nhiên như bão tố, núi lửa phun trào, động đất, và lũ lụt.
Khi ấy thì họ gán ghép hiện tượng thiên nhiên này với việc các con Rồng
đã nổi giận và đang quậy phá.

[sửa] Lịch sử ra đời
Hình tượng của rồng bao gồm các loài: thân rắn, đùi thằn lằn, móng vuốt của chim ưng,
đuôi rắn, sừng hươu, vẩy cá. Có người cho rằng sau khi Hoa Hạ thống nhất các bộ tộc
trung nguyên đã kết hợp vật tổ của mình cùng với vật tổ của các bộ tộc đó thành con rồng
NGÔI CHÙA TRONG KIẾN TRÚC THỜI

Chu Quang Trứ
Trong kiến trúc Phật giáo thời Lý, phong phú cả về số lượng và kiểu thức phải là Chùa.
Loại hình kiến trúc này ở một số nơi còn để lại nền móng ít bị xáo trộn như cỏc Chựa
Phật Tớch, Chựa Vĩnh Phỳ, Chựa Giạm ở Hà Bắc, Chùa Hương Lãng ở Hải Hưng, Chùa
Hà Tấm ở Hà Nội hoặc sửa chữa thu nhỏ như Chùa một cột ở Hà Nội; có nơi dấu vết
ban đầu chỉ còn lại bệ Tượng Phật ở trong những kiến trúc làm mới hoàn toàn như cỏc
Chựa Chũ (Hà Bắc), Chùa Thầy, Chùa Hoàng Xá (Hà Sơn Bỡnh ), Chựa Sựng Nghiờm
Diờu Thỏnh (Thanh Húa) Một số Chùa được văn bia đương thời tả lại khá đầy đủ. Dựa
vào tài liệu thực địa và thư lịch, có thể chia Chùa thời Lý thành bốn loại trên cơ sở có sự
khác nhau về bố cục.
Trước hết là kiểu Chùa được dựng trên một cây cột trụ, phát triển về chiều cao theo kiểu
kiến trúc Tháp. Từ trước thời Lý, ở Kinh đô Hoa Lư cú Chựa Nhất Trụ còn để lại một cột
đá cao, to trong vườn trước cửa Chùa có lẽ là cột Kinh Phật truyền thuyết địa phương
muốn coi đó là cây cột đỡ toà Chùa ở trên, khi Kinh đô chuyển ra Thăng Long, nhà Lý đã
cho dựng Kinh đô mới một ngôi Chùa Một Cột phỏng theo Chùa Nhất Trụ.
Trong số những kiến trúc thời Lý, sử cũ và văn bia có nhắc đến một vài kiến trúc chỉ có
một cột. Đó là “lầu chuông một cột, sáu cạnh hình hao sen” trong cụm kiển trỳc cỏc điện
Linh Quang và Sựng Nghiờm; Là Chùa Linh Xứng có bộ phận “trang nghiêm chính giữa
thì thờ tượng ngũ trí Như Lai sắc vàng rực rỡ, ngồi trên toà sen trồi trên mặt nước”; Là
Chựa Diờn Hựu với tờn nụm là Chùa Một Cột đã dựng lại thu nhỏ ở Hà Nội được nhiều
sử cũ, đặc biệt là bia Chùa Đọi khắc năm 1121 tả lại khá kỹ. Theo sử cũ ghi lại, năm
1049 vua Lý Thỏi Tụng chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên toà.
Các bầy tôi cho đó là điềm chẳng lành, nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng Chùa như
trong giấc mơ. Vua bèn cho xõy Chựa, dựng cột đá ở giữa ao, trên đầu cột làm tòa sen

của Phật, các nhà Sư sẽ niệm chung quanh tụng Kinh cầu cho vua sống lâu, vì thế đặt tên
là Chựa Diờn Hựu với ý kéo dài sự sống.
Chựa Diên Hựu năm 1100 được sửa chữa lần đầu, việc tu sửa quy mô làm “đẹp hơn cũ”
là vào năm 1105: vét hồ Liên Hoa Đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm
vẽ chạy vòng quanh, ngoài hành lang lại đào hồ Bớch Trỡ, đều bắc cầu để đi qua, trước
sõn Chựa xõy hai bảo Tháp sứ trắng.
Bia Chùa Đọi tả Chựa Diờn Hựu khụng tỏch bóc ra từng đợt tu sửa, nhưng lại cho biết
thêm một số chi tiết: Chựa Diờn Hựu thuộc vườn Tây cấm, được “dựng theo dấu vết của
chế dộ cũ, lại y theo mưu mới của nhà vua”, quanh đỉnh cột chạm bông sen nghỡn cỏnh,
trờn hoa sen toà điện màu xanh trong điện có pho tượng vàng
Riờng cây cột đá có tài liệu nói cao 10 trượng, phù hợp với độ to đủ chạm bông sen
nghỡn cỏnh ở đầu cột, và như vậy thì tòa điện Phật ở trên đầu cột phải to lớn tương xứng
tất cả cứ vươn cao lên vài chục mét như một cõy Thỏp. Có ý kiến lấy bình đồ Chựa Diờn
Hựu so với Tháp Phật giáo Mật Tông, nhận ra nhiều điểm tương đồng và coi Chựa Diờn
Hựu là kiến trúc Tháp Phật giáo.
Chựa Diên Hựu từ tờn Chựa cho đến các nghi lễ tiến hành ở đây đều gắn với vua nhà Lý,
lại ở trong vườn cấm phía Tây, trở thành Chựa riờng của Hoàng gia. Buổi khởi dựng,
Chựa cũn đơn giản nhưng đã là hình ảnh bông sen kiến trúc khổng lồ nở trên mặt nước.
Đấy là sáng tạo của các nhà kiến trúc giữa thế kỷ XI; đi lên từ truyền thống “theo dấu tích
xưa”, nhưng đã “đổi mới” theo tinh thần giấc mơ của vua Lý Thỏi Tụng về một bông hoa
sen.
Đi lên từ truyền thống, Chựa Diờn Hựu là sự phát triển kiến trúc cổ truyền mà gần đây
còn lưu lại ở những cây hương thờ đặt trên đầu một cái cọc chôn trên mặt đất hoặc xõy
trờn cột gạch. Tài liệu dân tộc học và khảo cổ học cũng xác nhận truyền thống ấy: người
nguyên thủy gác cành lờn cõy làm nhà ở, sau tiến tới “kiến trỳc Đụng Sơn” với loại nhà
sàn mái tròn dựng trên một cột cú gỏ vào tường ỏ hai bên được khắc trên trống đồng
Ngọc Lũ và trống đồng Hoàng Hạ, lại còn được ghi trong dân gian bằng chuyện nữ thần
nghề mộ dạy Lỗ Ban dựng nhà. Lối kiến trúc trên một cột trụ như thế, cả ở Trung Quốc
cũng có, nhà bác học Lê Quý Đôn dẫn sách nói về cái Đài Lớn ở Giang Lăng chỉ có một
trụ, tất cả các xà đều cắm vào trụ ấy, và cỏi quỏn ở La Cụng Chõu thật to mà chỉ có một

cột. Nhưng Chựa Diờn Hựu không chỉ là lối kiến trúc một cột bình thường, mà các nghệ
sĩ kiến trúc thời Lý đã sáng tạo thành bông sen nghệ thuật khổng lồ, đảm bảo độ kết cấu
chính xác vững vàng mà lại thanh tao duyên dáng, có cả nội dung triết lý Phật giáo và nội
dung thẩm mỹ thanh khiết.
Loại Chùa thứ hai cũng rất gắn bó với các vua thời Lý ở rải rác các địa phương xa, vừa là
nơi thờ Phật để cầu chúc cho Hoàng gia, vừa là hành cung để vua nghỉ lại mỗi khi du
ngoạn quanh vùng ấy. Loại Chùa này ngoài những công trình kiến trúc mà ở đó nổi trội
lên là cõy Thỏp như ở Tường Long (Hải Phòng), Chương Sơn và Chùa Đọi (Hà Nam
Ninh), còn phải nhắc đến một số Chùa nữa tiêu biểu là Chùa Phật Tích và Chùa Giạm đã
từng được các vua nhà Lý ghe thăm viết đại tự để lại hoặc ban cho tờn Chựa. Hai ngôi
Chùa này đều thuộc vùng quê hương nhà Lý, ở phía Bắc sông Đuống, không xa sông là
bao, có thể đến Chùa bằng cả đường bộ, và càng thuận tiện đối với các cuộc du hành của
vua bằng đường thủy. Cả hai Chùa đều ở sườn núi, dựa vào thế núi mà trườn lên theo các
cấp bậc nền, có 3 (Chùa Phật Tích) hoặc 4 (Chùa Giạm) tầng nền, với chiều rộng của bề
mặt cao hơn 60m và chạy sâu vào hơn 100m. Các tầng trên nền được kè giữ khỏi xô đất
xuống bằng những dãy tường đá 2 hoặc 3 lớp xây bậc cấp và hơi ngả vào rất vững chắc.
Trên bề mặt rộng mênh mông ấy, ngoài những cõy Thỏp, cũn có rất nhiều kiến trúc vật
khác bề thế và nguy nga.
Chùa Phật Tớch cú quy mô mà năm 1680 bia Chựa cũn xác nhận: “Vua thứ ba nhà Lý,
năm Long Thuỵ Thái Bình thứ 4 (1057) dựng cõy Thỏp quý cao ngàn trượng, tạc pho
tượng mình vàng cao 6 thước, cao hơn trăm thửa ruộng, xõy Chựa chẵn một toà Trên
đỉnh cao mở ra một toà nhà đá, cấp trong điện tự nhiên sáng như ngọc lưu ly, điện ấy đã
rộng lại to, sáng sủa lại lớn. Trên thềm bậc đằng trước có bầy mười con thú, phía sau có
ao rồng, góc cao vẻ chim phượng và sao ngưu, sao đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng tay rồng
với tới trời cao, cung quãng vẽ hoa nhị hồng. Cho đến thế kỷ XVIII, các tác giả sách Tam
thương ngẫu lục còn thấy Chùa Phật Tích “cung sơn điện vẽ san sát trong nỳi.” Ngày
nay, trờn cỏc tầng nền vẫn còn pho tượng cao 6 thước (1m84) và 10 con thú bày thành
hàng ngang ở mép tầng nền thứ hai đúng như văn bia ghi, là cơ sở để tin những cung sơn,
điện vẽ lầu rộng, gác cao là có thực, tin cả con số 100 toà nhà nếu không chính xác toán
học thì cũng là một cảnh san sát trên núi, còn được tô vẽ nhiều hình trang trí đẹp và hòa

trong ngàn cây mà trải rộng không giới hạn.
Cũn Chùa Giạm xây trong 8 năm (1086-1094) mới xong, được triều đình đầu tư đặc biệt,
đó cú quy mô lớn mà sang thế kỷ 13 được vua Trần Nhõn Tụng tả vẻ đẹp đúng là: “Bức
tranh kiến trúc 12 lớp, mắt thấy thiên nhiên rộng vạn lần”, còn dân gian địa phương ghi
nhận bằng mốc thời điểm cả thụn Mụn Tự (cửa Chùa) tham gia đóng cửa từ chiều cho
đến khi đóng xong các cửa thì vừa lúc trăng mọc: “Mười tỏm đúng xong cửa Chùa
Giạm.” Ngày nay nhà cửa Chùa Giạm không còn, nhưng chỉ riêng hệ thống bậc cửa lờn
cỏc tầng nền đã là cả một sự đồ sộ, trong đó các bậc cửa vào tầng nền thứ nhất đã cao và
rộng đều 16m. Và ở tầng nền thứ hai, phía bên trỏi cú khu đất hình tròn cao chừng một
mét với đường kính chừng 4m50, xung quanh được kè đá chạm “hỡnh súng” to sâu, đối
lại phía bên phải có khu đất hình vuông cao gần 2m, cạnh dài 7m, cũng kè đá chạm
“hỡnh súng” sõu to: Hai khu đất hình tròn vuông ở hai bên cửa chính, tạo sự cân đối mà
không lặp lại là “quy” và “củ” với những yếu tố cấu thành chặt chẽ biểu hiện những mẫu
mực trong cuộc sống và cả trong thẩm mỹ người xưa, lại là biểu hiện của tư duy Việt cổ
và vũ trụ có trời tròn đất vuụng, cú sự hoà hợp âm với dương. Ý nghĩa này còn được thấy
ngay trên khu đất hình tròn có một cột đá cao chừng 5m gồm một khối hình trụ (đường
kính 1m30) chồng lên một khối hộp (cạnh ngang một 1m4 và 1m6). Sự hoà hợp đó biểu
hiện của sự ý thức cầu phúc và cả sự trường tồn.
Cũng như cỏc Thỏp Tường Long, Chương Sơn và Đọi, Chùa Phật Tích và Chùa Giạm
còn để lại nhiều hình rồng chạm rất kỹ trờn đỏ và cả trên mảnh đất nung vỡ nữa. Phải
chăng ở đây những hình rồng này là dấu hiệu khẳng định tính hành cung của những di
tích Phật giáo này.
Chùa Linh Xứng trên Ngưỡng Sơn (Thanh Hóa), phía trước cõy Thỏp chớn tầng cũng có
cả một tũa Chựa lộng lẫy theo bia dựng ngày khánh thành Chựa thỏng 3 năm Bính Ngọ
(1126) thỡ: “Chựa Phật Tích thênh thang ở giữa, phòng chạy rộng rải hai bên, trang
nghiêm chính giữa thì tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ ngồi trên toà sen trồi lên
mặt nước. Quanh tường thêu vẽ dung nghi đẹp đẽ của cực quả mười phương với mọi hình
tướng biến hoỏ muụn hỡnh vạn trạng không thể kể hết Chùa thờ Phật nhưng cũng cầu
chúc nhà vua. Chính bia Chựa đó đề cao vương quyền: “ễi, sinh thành và nuôi nấng ta có
ai bằng vua và cha, cho nên phải kính trọng; dắt dẫn và che chở cho ta, cũn gỡ hơn là

phúc huệ, cho nên phải tin theo. đem phúc to này, chút vật lớn ấy. Nghiệp trời dằng dặc
dài lâu, vận nước đời đời thịnh vượng.”
Loại Chùa thứ ba cả trên thực địa và thư tịch đều không tìm thấy dấu tích của Tháp, quy
mô có nhỏ hơn cỏc Chựa Thỏp đồng thời là hành cung ở Phật Tích và Giạm, nhưng vẫn
còn khá lớn và được nhà nước chú ý, có khi xây trên lưng chừng núi chỉ có một lớp nền
như Chùa Vĩnh Phúc dựng năm 1100 và Chùa Tĩnh Lự khánh thành năm 1119 đều thuộc
Hà Bắc, có khi xây giữa vùng đồng ruộng như Chùa Bà Tấm (còn có tên chữ là Sựng
Phỳc Tự hay Linh Nhân Tư Phúc Tự) dựng năm 1115 thuộc Hà Nội, và Chùa Hương
Lãng (có tên tắt là Chùa Lạng, tên chữ là Viờn Giỏc hay Thạch Quang Tự) dựng cùng
khoảng thời gian với Chùa Bà Tấm thuộc Hải Hưng
Nếu như Chùa Vĩnh Phúc và Chùa Tĩnh Lự chỉ có một tầng nền ở sườn núi với những
mảnh vụn của gạch đỏ, thỡ Chựa Bà Tấm và Chùa Hương Lóng, trờn lớp nền còn thấy rõ
quy mô và vị trí một số kiến trúc. Chùa Bà Tấm có bậc cửa vào Chùa rộng chừng 12m
đánh dấu bởi hố đào lan can thành bậc, từ đó đến giữa thượng điện nơi cũn đụi sư tử đội
tòa sen là 60m. Sư tử đội tòa sen và lan can thành bậc cửa Chùa Bà Tấm lại được thấy ở
Chùa Hương Lãng, đầy đủ và rõ ràng hơn. Về Chùa Hương Lãng, khu vực nội tự rộng
gần 40.000m vuông theo chiều dọc hướng Bắc Nam là 345m và chiều ngang hướng Đông
Tây là 115m. “Nội tự” bao gồm cả ruộng, gũ bói, hồ ao và trung tâm khu vực Chùa: Phía
trước cú sụng lạch chảy sát tam quan, rất thuận tiện cho du khách thăm Chùa lễ Phật; khu
đất tam quan này còn rộng ngang 15m và sâu vào 7m5, sau đó đi sâu vào 84m nữa sẽ tới
sát nền thượng điện có tượng đá to sư tử đội toà sen. Qua khu tam quan có thành bậc đi
xuống ao Chùa với hai gò đất xưa là nền của kiến trúc, cao từ 5m đến 7m và rộng chừng
400m vuông phía sau sân là khu vực điện thờ với nền thượng điện cao trên 2m được đánh
dấu bởi tượng sư tử đội tòa sen khổng lồ. Cả khu Chùa phát triển theo chiều dài, càng đi
vào sâu càng gần nơi thờ Phật, hai bên đường đi có vật đăng đối. Cuối đường là khu điện
thờ gần vuông phía trước hơn cao 23m và dọc bên hơn 20m, trong đó lại thu vào các khu
đất lồng nhau cũng gần vuông chừng 18m*8m và 10*8m, khu trong nhỏ hơn nhưng cao
hơn khu ngoài, bốn mặt đều có cửa mở về bốn hướng. Chỉ xột riờng khu vực điện thờ
Chùa Hương Lãng, phần nào có quan hệ mặt bằng của kiến trúc Tháp; nền gần vuông,
bốn mặt trổ cửa cao dần theo ba lớp nền thu vào. Như vậy cả Chùa Hương Lãng trải ra

như một tu viện, trong đó phần điện thờ Phật lại chịu ảnh hưởng bố cục của Tháp thờ để
các Phật tử đi xung quanh làm lễ Phật ngự ở trên toà sen do Sư tử đội ở giữa thượng điện.
Trong loại Chùa thứ ba này có kể thờm Chựa Sựng Nghiờm Diờn Khỏnh ở Thanh Hoá,
trong sự tu sửa thu hẹp ở thời sau, rải rác còn vài vết tích cũ, đặc biệt là ba bệ tượng Phật
và tấm bia dựng năm 1118. Theo văn bia dựng ngay sau khi làm xong Chựa, thỡ công
trình này làm khoảng 1116 đến 1118, chẳng những có quy mô to lớn mà còn tráng lệ:
“Rường nhà cong cong như cầu vồng sau mưa quạnh quẽ nhô ra, ngói uyên ương phơi
dưới gió như sập số mỏi lượn, ngói nhà uốn như trĩ đang xoố cỏnh, đầu chạm trổ như
phượng múa lại chầu. Mái cong lấp ánh dưới mặt trời, hiên lượn quanh co trước gió,
tường vách xung quanh một cõi bụi không lầm, hành lang bao bọc. Bên hữu có vườn
thơm, khóm lan mềm mại điểm núc. Bờn tả có ao mát, mặt nước hoa sen tốt tươi lại
sắm đủ chiếu giường để cho khách trọ nghỉ chân, lại xây đủ bếp núc để cung cấp cho
người thiền định, Chùa chiền ngăn nắp tượng Phật trang nghiêm.
Năm 1088, nhà Lý phân chia cỏc Chựa trong nước làm 3 hạng là đại, trung và tiểu danh
lam, căn cứ điền nô và khố vật của nhà Chùa. Chúng tôi chưa có đủ tài liệu về hai cơ sở
trên, song xét về quy mô kiến trúc, những Chùa thuộc loại ba trên, có thể xếp vào hạng
đại danh lam.
Trong số hàng ngàn Chùa dựng dưới thời Lý, ngoài một số Chùa lớn được sử sách nhắc
đến, chắc hẳn còn nhiều Chùa nhỏ ở lẫn trong các thôn xóm hoặc núi rừng ít được người
đời lui tới. Những Chùa nhỏ và khuất nẻo ấy, có thể thuộc hạng tiểu danh lam, do nhỏ mà
văn bia ít hoặc không nói tới, dấu vết còn lại rất hãn hữu. Những Chùa loại này lúc đầu
có nhiều Chùa chỉ là cái am nhỏ làm nơi tu dưỡng của một nhà sư. Chùa Linh Xứng trên
núi Ngưỡng Sơn trước khi được Thái uý Lý Thường Kiệt mở mang khang trang, như bia
Chùa xác nhận: “trước đõy cú một ẩn sĩ riờng xõy Am trong ấy và đi duyờn hoỏ mọi
phương, tuy đã mở mang nhưng tịnh giới chưa được nghiêm ngặt”. Ngay cả Chựa Sựng
Nghiờm Diờu Thỏnh, trước khi được Chu Công mở mang lớn, theo bia Chựa thỡ nơi đây
vốn: “cú di tích ngôi Chùa cổ, nền cũ mà gạch ngói vẫn còn, nhà cửa thì cỏ gai đã mọc.”
Chùa Thầy ở Hà Sơn Bình gắn với núi đá Sài Sơn có nhiều hang động, trong đó có hang
Thỏnh Hoỏ là nơi tu luyện của Từ Đạo Hạnh, song những khi xuống nuớ, nhà sư lại lập
am Hương Hải để tiếp tục tu luyện.

Gần Chùa Thầy có động Hoàng xá mà ở phía sau cửa động, trong một ngỏch đỏ cũng là
chỗ tu luyện cửa một nhà sư, ở trước chõn nỳi ngay trước cửa hang vẫn còn một bệ tượng
Phật ghi rõ dựng năm Hội Phong thứ 8 tức 1099. Đấy là một bệ nhỏ, tương tự bệ Chùa
Thầy.
Cũng loại tiểu danh lam này, ở xó Thỏi Sơn huyện Hiệp Hoà (Hà Bắc) còn có dấu vết của
một ngôi Chùa thời Lý, ngoài một ít chân tảng, ở thượng điện còn cả bệ đá dành riêng
cho tượng Phật, cả kích thước và hình khối như bệ tượng Chùa Hoàng Xá và Chùa Thầy.
Chùa Bảo Ninh Sùng Phước ở Tuyên Quang theo văn bia còn lại ở Chùa, do thái thú Hà
Hưng Tông cho dựng vào năm 1107, ở mãi miền rừng núi hẻo lánh, tuy được văn bia ca
ngợi nhưng đẹp trong khuôn khổ gọn nhỏ: “Xà uốn cong ngỡ cầu vồng bắt nhịp, mái hiên
xốo cỏnh như chim chóc tung bay. Nhà trắng bao quanh Tượng vàng đặt giữa Trầm
hương nghi ngút bốc tới trời mây, chim khách nhịp nhàng vang lừng hang động.”
Bằng cứ vào thư tịch cũ, nhất là những dấu tích kiến trúc hiện còn, kiến trúc thời Lý có
giá trị nghệ thuật gồm cả những kiến trúc dành riêng cho triều đình và kiến trúc Tôn giáo,
trong đó nổi trội lên là kiến trúc Chựa Thỏp.
Nhà Lý trong hoài bão xây dựng một quốc gia độc lập quy mô không kém các nước xung
quanh; và trong xu hướng đi lên, rất chú ý xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật dân tộc.
Bộ mặt trước hết của nó là kinh thành Thăng Long mà sử cũ nhắc đến nhiều cung điện,
hành lang, sân rồng, vườn thượng uyển, phủ đệ và cả văn miếu nhưng không cho biết
cụ thể kích thước, quy mô, thường là nhà một tầng, đôi khi có lầu gác. Tài liệu nước
ngoài có nói tới cung điện bốn tầng. Trong khi đó, văn bia đương thời, nhất là giả sử, lại
cho biết khá tường tận quy mô to lớn, bề thế, nguy nga của Chựa Thỏp được xây nhan
nhản khắp nơi. Sử gia Lê Văn Hưu phê phán nhà Lý “làm Chùa thờ Phật lộng lẫy hơn
cung điện của vua.”
Lăng mộ các vua nhà Lý được táng ở quê hương Cổ Pháp (nay là xó Đỡnh Bảng, Hà
Bắc), thuộc khu đất có tên là “Rừng Bỏng” nhưng do không được quy hoạch và định vị
rõ ràng, nên ngày nay không còn thấy dấu vết gì. Đọc lại di chúc của vua Lý Nhõn Tụng
(mất năm 1127), ta thấy đầy tính khiêm nhường: “Trẫm nghe phàm giống sinh vật không
giống nào là không chết. Chết là số lớn của trời đất, lẽ vật đều thế. Thế mà người đời
không ai không thích sống mà ghét chết. Chôn cất cho hậu để mất sinh nghiệp, trọng để

tang đến tổn hại tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đó ớt đức, không lấy gì làm cho
trăm họ được yên, đến khi chết để cho nhân dân mình mặc sơ gai, sớm tối khóc lóc, giảm
ăn uống, tuyệt cúng tế, làm cho lỗi lại nặng thêm, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào?
Việc tang ma chỉ sau ba ngày bỏ áo trở nên thôi thương khóc, việc chôn cất chỉ kiệm ước,
khụng xõy lăng mộ riờng, nờn chụn ngay cạnh tiên đế.” Ý nghĩa chiếu cố đến nhân dân
như vậy của một ông vua trong lúc giai cấp thống trị đang hưng khởi, chẳng những đã tạo
nên sức mạnh cho nhà nước, còn giải thích tinh thần xả thân của nhà Phật đã thấm sâu
vào người ở ngôi vị tối cao. Các vua Lý đều sùng đạo Phật, khi sống ở những cung điện
không cao to quá mức, thỡ lỳc sắp chết chẳng nghĩ tới việc xây dựng lăng mộ tốn kém
làm gì!
Khụng xây lăng mộ và cung điện nguy nga, nhưng lại xõy Chựa Thỏp cao to bề thế, còn
là biểu hiện tâm lý cộng đồng, tập thể đang còn rất mạnh ở người Việt đương thời. Ý thức
ấy đã chỉ đạo việc xây dựng. Cung điện và lăng mộ dành riêng cho vua. Chựa Thỏp cú
cầu chúc cho vua và dòng họ bền thịnh, nhưng cơ bản là thuộc tập thể, ở đấy cá nhân vua
hòa trong ý muốn quần chúng, tất cả cùng hướng theo tinh thần từ bi, nhân ái của Phật
giáo.
Kiến trúc Chựa Thỏp thời Lý to lớn, lại được xây ở những vị trí ngoạn mục, gắn với thiên
nhiên tạo thành cả một phong cảnh kiến trúc hoàn chỉnh có núi, cú sụng, cú cây cối, có
nhà cửa Những nơi núi cao thỡ Chựa chỉ xây ở lưng chừng (như cỏc Chựa Phật Tích,
Vĩnh Phú, Giạm ); những nơi núi thấp thì có thể xây ở trên đỉnh (như cỏc Chựa Thỏp
Chương Sơn, Đồ Sơn, Đọi ); những nơi không có nỳi thỡ xõy trờn gũ bói (như cỏc Chựa
Bà Tấm, Hương Lãng ) tuy không ở sát nhà dân nhưng vẫn gắn với làng mạc và làm chỗ
sinh hoạt của cả cộng đồng thuộc một vùng rộng. Nó thanh tịnh và ấm cúng. Lợi dụng địa
thế cao của núi đồi hay gũ bói, Chựa Thỏp lại thường gần sông, nếu xa sụng thỡ đào ngòi
từ sông dẫn đến cửa Chùa, tiện cho giao thông, nhất là cuộc trẩy hội của triều đình. Cảnh
đẹp sơn thủy hữu tình đã được các nghệ sĩ xây dựng thời Lý khám phá triệt để lợi dụng
để tôn cái đẹp của kiến trúc lên vị trí xứng đáng, đáp ứng yêu cầu của Phật giáo về tư
tưởng từ bi nhân ái và khuyến thiện, trừng ác.
Trong rất nhiều Chùa thời Lý, kiến trúc trung tâm là Tháp cao vòi vọi như cây Thánh giá
nối đất với trời, vừa hoà hợp âm dương, vừa dâng truyền ý nguyện của Phật tử với đức

Phật ngự trị ở không trung. Tháp thời Lý chưa phải là mộ sư, mà là đền thờ Phật thường
dựng ở giữa hoặc trước Chùa, được phủ hoa văn khắp mặt ngoài để như từ đất mọc lên.
Cửa lờn Thỏp cú những bậc cấp với thành bậc ở hai bên, như Tháp Chương Sơn có thành
bậc chạm nhiều lớp sóng và trên đó là hành vũ nữ múa dâng hoa. Hai bên cửa Tháp
thường có tượng Kim Cương canh. Từ thế giới trần tục, Phật tử bước qua cửa Tháp là đến
với thế giới của Phật, gột rửa những dơ bẩn để đạt đến độ thanh khiết và trường tồn.
Chùa thời Lý qua dấu tích để lại là chân tảng đá kẻ cột gỗ và cỏc ngụi ống chạm hoa lá,
ngúi bũ chạm rồng và phượng đã bày ra một thiên nhiên nghệ thuật được chọn lọc, vui và
lạc quan trong tình nhân ái: mỗi cây cột dựng trên một bông sen đá, quanh bông sen lại
có tới 4 dàn nhạc lớn đang biểu diễn, toàn thể như một vũ hội. Cả bộ mái đỏ tươi từ diềm
đến nóc cũng lại đầy hoa và rồng, phượng là những hình trang trí quen thuộc và độc đáo.
Những hình dáng kiến trúc đẹp còn để lại bằng chứng ở tư liệu khảo cổ ấy, còn được
khẳng định và bổ sung thêm phong phú ở thư tịch. Bên cạnh kiểu kiến trúc bông sen của
Chùa Một Cột, cũn cú cỏc cung tứ giác và điện bát giác mà bộ mỏi thỡ đều vênh cong
như trĩ xoố cỏnh, và được lợp ngói thành nhiều lớp tựa vẫy rồng. Một số kiến trúc nhiều
tầng như ở Chùa Phật Tích và ở cung vua còn được sơn vẽ cỏc hỡnh tiên nữ, rồng,
phượng và tinh tú; để thích nghi với khí hậu nhiệt đới nóng gắt các kiến trúc ấy luôn có
không gian đệm mang tính chuyển tiếp là hàng hiên bao quanh.
Ngoài cái đẹp của hình khối kiến trúc và các trang trí phù hợp chạm hoặc vẽ, còn được
gia tăng bởi các mảng màu, như mái đài chỳng Tiờn lợp ngói vàng và ngói bạc luôn rực
rỡ và sáng chói dưới ánh mặt trời; mái của nhiều kiến trúc khác chỉ với màu đất nung đỏ
tươi cũng thật ấm cúng và tương quan với màu xanh của lá cây như còn gợi cả chiều sâu
của thời gian.
Trên bình diện của kiến trúc, cả dấu vết khảo cổ và sự tả lại của văn bia, chúng ta thấy
kiến trúc thời Lý trong cả tổng thể cũng như mỗi Chựa Thỏp cụ thể đều có bố cục cân đối
theo nhiều kiểu phong phú với những quy tắc nhất định.
Trong Chùa điện thờ Phật là kiến trúc chính, ở một số Chựa, Thỏp đồng thời là đền thờ
Phật thỡ Thỏp là kiến trúc chính. Ở giữa một cột, tất cả đều quy tụ quanh toà Chùa mang
hình bông sen nở trên trụ đá. Ở Chùa Linh Xứng thỡ: “Chựa Phật thênh thang ở giữa,
phòng chạy rộng rãi hai bờn.” Ở Chùa Đọi thỡ cõy Thỏp quý Sùng thiện Diệu Linh là

điểm tụ hội những kiến trúc phụ khỏc. Cỏc Thỏp Đồ Sơn, Tháp Phật Tớch, Thỏp Chương
Sơn cũng đều thế cả. Trong cỏc Thỏp này đều có một pho tượng và các hoạt động lễ hội
Tôn giáo đều tiến hành ở trong hoặc xung quanh Tháp. Trong lối bố cục mặt bằng lấy
Phật điện làm điểm quy tụ, Phật điện là điện thờ hay Tháp thờ đều có bình diện vuông.
Đó là sự gặp gỡ của yêu cầu thẩm mỹ truyền thống Việt Nam với kiến trúc Phật giáo ở
Ấn Độ đã được quy định rõ ràng. Đó trờn cơ sở mặt bằng hình vuông, mỗi mặt thuộc về
một hướng và có cửa mở, phù hợp với vũ trụ quan đương thời.
Một số Chựa xõy trờn gũ bói hay lưng chừng nỳi, cú địa thế rộng, như cỏc Chựa Bà Tấm,
Hương Lãng, Phật Tích, Giạm lại sắp xếp mặt bằng thành các nếp nền từ ngoài vào
trong, càng đi sâu vào càng lên lớp nền cao hơn và càng gần Phật điện. Phật tử vào đến
Phật điện, tiếp xúc với tượng Phật có cảm tưởng như mình được tiếp cận với đấng giác
ngộ.
Trong cả hai lối mặt bằng trờn, phớa cửa đún cỏc Phật tử vào Chùa đều thuộc hướng
Nam. Đó là hướng lý tưởng của xứ sở nhiệt đới gió mùa, trỏnh rột mùa Đông và trỏnh
núng mùa Hè, lại phù hợp với quan niệm cho nước ta là “Nam Giao thuộc cõi ly minh”,
nú cú màu đỏ của cửa, của cuộc sống độc lập. Và từ cửa đi vào điện Phật cũng tức là phía
Nam lên phía Bắc trong cả cụm kiến trúc hình thành một đường trục dọc để từng kiến
trúc cụ thể ở hai nửa phải và trỏi luụn đăng đối nhau, tạo sự trang nghiêm và tập trung
tình cảm nghĩ về phía trước có điện thờ Phật mà mọi người còn được nhích gần. Lối kết
cấu kiến trúc Chựa Thỏp như thế đã làm rõ chủ đề của kiến trúc Tôn giáo, nâng chủ đề
lên.
Chùa thời Lý và kiến trúc Phật giáo sớm nhất còn dấu vết trên mặt đất và trong thư tịch.
Nó khẳng định một giá trị nghệ thuật dân tộc đặc sắc của Việt Nam và cũng là của thời
đại, xứng đáng mở đầu cho nền văn minh Đại Việt, là bằng cứ lao động sáng tạo của dân
tộc có trình độ thẩm mỹ cao.
Điêu khắc thời Lý (1010 - 1225): Thời Lý được coi là buổi thịnh thời của nhà nước quân chủ, kinh tế
phát triển, xã hội ổn định, ý chí tự cường được đẩy lên đỉnh cao, các tầng lớp gắn bó với nhau, văn hoá
nghệ thuật đi vào cuộc sống tình cảm hoà đồng. Mọi người có điều kiện lao động và hưởng thụ nghệ
thuật. Những ảnh hưởng nghệ thuật phương Bắc giờ đây có thời gian chiêm nghiệm, học hỏi, thêm vào
đó là những cuộc Nam tiến nhận ảnh hưởng của một nền điêu khắc “ Ấn Độ hoỏ” – Chăm Pa, tất cả ở

trình độ cao, tinh khéo, điêu luyện. Trong bối cảnh như vậy, tất yếu dẫn đến nhu cầu cái đẹp trau chuốt,
chuẩn mực, cân đối, trong sáng, tinh tế - xu hướng cái đẹp cổ điển, cần những bàn tay vàng mới diễn tả
được
Điêu khắc thời kỳ này là sự kết hợp của tượng và chạm khắc trang trí phụ trợ. Tượng Phật không thể
tách rời toà sen và bệ, con sấu không thể tách rời thành bậc cửa…Bản thân tượng, nhất là những hình
chạm trang trí đều được đục chạm hết sức cẩn thận, tinh tế, các mảng khối nuột nà, nhẵn bóng, các chi
tiết kết hợp tài tình, hoà hợp với cấu tạo tổng thể tạo ra vẻ đẹp tươi tắn. Những bức chạm nổi trang trí
dàn nhạc, rồng, sóng, hoa lá, ở chùa Phật Tớch, chựa Đọi, chùa Hương Sơn…hiện ra trờn đỏ mà tỉ mẩn,
chuẩn xác, chặt chẽ như trên vàng lá – cái đẹp chuẩn mực mà khó có thể có được một mẫu hình cụ thể
trong cuộc sống, chỉ có thể là tổng hợp riêng lẻ ở nhiều cá thể khác nhau, thậm chí những cái đẹp ma
nghệ thuật thế giới đã sáng tạo được (tượng đức Phật Thế Tôn, chùa Phật Tích). Pho tượng Phật Thế
Tôn có thể được coi là điển hình cho điêu khắc thời Lý, bằng sự kết hợp hài hoà nhiều phong cách: Việt
Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, Chăm Pa. Ngoài ra hàng tượng mười con thú trong chùa Phật Tích
cũng hé mở xu hướng hiện thực sau này.
Tượng Đức Thế Tôn ở tư thế ngồi thiền cao 1.85m, được bố cục theo khối, ngồi thiền khuỳnh hai đầu
gối, lưng thẳng đứng, mặt hơi cúi. Do đó từ trên cao có sự giao cảm với các Phật tử đang chiêm bái.
Toàn thân tượng khuôn trong một đường viền khép kín nhưng do mảng khối óng chuốt nên tạo cảm
giác chập chờn, tượng mang vẻ đẹp quý phái của phụ nữ Việt Nam: mặt trái xoan, cổ cao ba ngấn, thân
hình dong dỏng, mình mỏng. Đôi mắt đăm chiêu khép hờ, cặp lông mày thanh cong giao nhau, mũi dọc
dùa thanh tú, miệng chúm chím với nụ cười tế nhị, các ngón tay thon thả. Tấm áo dài óng ả có đường
vân cuộn xoáy ở bả vai phải rồi lượn theo các nếp áo như trôi vào không gian. Tượng được tạo bằng
những mảng khối óng mượt, đường nét minh triết, từng chi tiết tao nhã và tế nhị.Tất cả toỏt lờn một vẻ
đẹp của một tâm hồn từ bi vị tha. Khối tượng tĩnh lặng trang nghiêm được đặt trên toà sen nửa khối cầu
tạo nên ấn tượng chao đảo, phần dưới cùng là bộ bát giác khối nón gồm nửa dưới là những lớp sóng
vừa dãn ra, vừa vươn lên từng đợt mênh mông vô tận. Nửa trên là một tầng bậc cấp thu vào có mặt nằm
chạm hoa dây như các cuống hoa có những người nhỏ xíu leo trèo, mặt đứng chạm rồng rắn thoăn thoắt
đuổi nhau. Ngược với khối tượng phần bệ phủ kín hoa văn với kỹ thuật tỉ mỉ, chính xác như chạm vàng
bạc.
Điêu khắc thời Trần (1225 - 1400): So với thời Lý, Thời Trần lại có khá nhiều biến cố: ba lần đương
đầu với đế chế Mông – Nguyên, bị tấn công từ phớa chiờm Thành, các cuộc khởi nghĩa nụng dõn…Về

mặt tư tưởng, tôn giáo có sự chuyển dời trọng tâm từ Phật sang Nho giáo, cỏc chựa chuyển dần về làng,
dần dần được dân gian hoá. Do đó đã nảy sinh những nét mới trong thời kỳ này. Bên cạnh xu hướng cổ
điển có phần chững lại, xu hướng dân gian bình dị có từ thời Lý có điều kiện phát triển. Vẫn tiếp nhận
dáng vẻ thon thả, mảng khối óng ả thời Lý, điêu khắc thời Trần đi sâu thể hiện nội lực qua những khối
trục, mảng to mập, sức căng, đôi khi góc cạnh của đường nét tạo nên xu hướng thiên về vẻ đẹp hiện
thực. Đề tài chạm khắc cũng phong phú, bên cạnh rồng, phượng, phỗng, hoa lá, súng nước…cú từ thời
Lý với nhiều mảng chạm hình nhạc công, vũ nữ có chủ đề rõ ràng, bố cục chặt chẽ, hình chạm khá kỹ,
đường nét thuần thục. Lăng Trần Thủ Độ có thể tiêu biểu cho điêu khắc thời Trần.
Theo Lê Quý Đôn, khu lăng mộ rộng đến hai mẫu, có hổ đá, chim đá, và bình phong đá. Dân địa
phương cho biết trước kia ở bốn phương cú cỏc tượng Thanh Long, Bạch hổ, Huyền Vũ, Chu Tước mà
họ còn gọi là dần, sàng, nong, nia. Về sau chỉ còn lại ông Dần (Bạch Hổ) đã được đưa về bảo tàng lịch
sử.
Tượng hổ ở tư thế nằm, lớn như hổ thực (dài 1,43m, cao 0,75m, rộng 0,64m) gắn
liền với phần bệ. Nằm hơi nghiêng người, các chân gấp đưa về trước, cái đuôi dài
cũng được lượn về trước gắn tất cả thành một khối. Đầu nghểnh cao như đung
đưa, bờm rủ xuống gáy. Các cơ bắp toàn thân nổi lên. Để tăng chất khoẻ khoắn,
nghệ sĩ đã tạo một đường gân dọc sống lưng và nhấn mạnh cái đuôi thành khối
tiết diện vuông góc cạnh rõ ràng. Con vật có tư thế ung dung, thảnh thơi, đĩnh
đạc, mà tiềm ẩn một sức mạnh phi thường.
Hổ lăng Trần Thủ Độ
Chạm khắc chủ yếu để trang trí kiến trúc, song một số bức chạm thời Trần có chủ đề, bố cục độc lập lại
là những tác phẩm hoàn chỉnh như chựa Thỏi Lạc, chùa Hàn, những hình này được chạm khắc nổi hoặc
chìm với thủ pháp nhanh, dứt khoát nên rất linh hoạt, chân chất, đậm nét thẩm mỹ dân gian.
Sau 20 năm đất nước bị quân Minh đô hộ, khụng riờng gỡ kinh tế mà văn hoá cũng bị tàn phá nặng nề.
Các di sản thời trước bị phá huỷ, những nghệ sĩ tài hoa bị bắt sang Trung Quốc, gây ra tình trạng thiếu
sự kế thừa liên tục.
Với thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, xã hội chuyển sang mô hình quân chủ Nho giáo, nhưng
trên bình diện tư tưởng vẫn là tam giáo đồng nguyên, tín ngưỡng bản địa cũng được khai thác mạnh mẽ
hơn. Lê Thái Tổ phong cho các nhà sư chùa Một cột làm Tử Y đại sa môn, Lờ Thỏnh Tụng vẫn đi chùa
và gặp tiên, mỗi khi hạn hán vẫn cho rước tượng tứ pháp về Thăng Long đảo vũ… Tình hình khiến cho

văn hoỏ chớnh thụng vẫn mang đậm chất dân gian.
Chạm khắc trang trí Lê sơ là cái bản lề gắn mỹ thuật Phật giáo Lý - Trần với mỹ thuật giàu chất dân
gian ở thế kỷ XV – XVII, nó cũng bộc lộ xu hướng muốn tiếp nhận một số mẫu hình trang trí phương
Bắc (còn thể nghiệm ở phạm vi công trình chính thống, chưa đi vào dân gian và sang thế kỷ tiếp theo
đều không tiếp tục nữa). Những bức phù điêu trên bia, thành bậc cửa ở những nơi gắn với triều đình
(cung điện, lăng, tẩm…) chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Bắc, được thực hiện một cách khá cầu
kỳ, còn những nơi gắn với Phật và người thật được chạm đơn sơ, thậm chí sơ sài.
Riêng về điêu khắc tượng thỡ dự gắn với triều đình hay ở làng quê, đều có quy mô nhỏ, đục chạm sơ
sài, mảng khối thô (ngựa cổ to mà chân ngắn, hổ ngồi chồm hỗm như cúc…), đó từ bỏ vẻ đẹp cổ điển
của tượng thời Lý và vẻ đẹp khoẻ thực của tượng thời Trần, chuyển sang một sự miêu tả khái quát với
hình dáng ngộ nghĩnh, không nhấn mạnh được nột riờng, cá tính của đối tượng. Tượng thế kỷ XV này
mang đậm chất dân dã hồn hậu, nêu thẳng tâm trạng nhân vật mà không cần đến sự khéo léo kỹ thuật.
Nhóm tượng nửa đầu thế kỷ XVI đường nét đã trau chuốt hơn và chú ý đến trang trí (voi đã mập khoẻ
và thực, ngựa được thắng yên cương và chân cao dần, lân nhún mình như muốn nhảy ). Tuy có bước
tiến so với giai đoạn trước song vẫn gần với nghệ thuật dân gian.
Điêu khắc thời Lê - Trịnh - Tây Sơn: Nhà Mạc thay thế Nhà Lê Sơ 1528 đến 1598. Nhà Mạc, Phật
giáo và Đạo giáo trỗi dậy, đồng thời là sự khẳng định tín ngưỡng Thành Hoàng làng với việc hoàn
chỉnh đình làng. Điêu khắc giai đoạn này thể hiện tập trung ở cỏc chựa, đỡnh. Dự thế giới Phật giáo hay
người thực, nghệ sĩ thời Mạc thường tìm đến cái đẹp theo thẩm mỹ nông dân thực thà, chân chất, tư thế
giản dị, dáng người bụ bẫm, toàn thân chắc khoẻ. Điêu khắc đôi khi theo tích chuyện, đội lốt tiên cảnh,
song nội dung thực là cuộc sống nơi thôn dã, biểu hiện xu hướng nghệ thuật hiện thực, mở đầu cho sự
hứng khởi nghệ thuật tạo hình dân gian. Nghệ sĩ giai đoạn này không bị gò bó vào các công thức tạc
tượng, được tự do sáng tạo, đường nét và mảng khối rõ ràng, gúc nhỡn luụn thay đổi để mọi nhân vật
đều biểu hiện sự chân chất, hồn hậu.
Điêu khắc đình làng không có những tượng thờ như ở chùa,
cung hiếm tượng độc lập, cơ bản là chạm khắc trang trí nội
thất với kỹ thuật chạm bong kênh, chạm lộng. Những hình
chạm cuối thế kỷ XVII ít khi gọt dũa, thường để nguyên
những nhát chạm, phạt cũn thụ nhỏm với những mảng miếng
rõ ràng, gân guốc, vừa dứt khoát, vừa khoẻ chắc. Đề tài trang

trí đình làng cuối thế kỷ XVII được tập trung vào hoạt cảnh
con người đôi khi còn đan xen các con thú bình dị, rồng
phượng chỉ làm nền, thậm chí làm phương tiện cho con người hoạt động. Bố cục đồng hiện có tỉ lệ xấp
xỉ nhau không phụ thuộc vào khoảng cách xa gần , phần nào nói lên tinh thần dân chủ làng xã.
Nhà Lê trung hưng những năm đầu thế kỷ XVII, phật giáo phục hưng mạnh
mẽ, nhiều chùa lớn được xây dựng như chùa Trăm gian, chùa Thầy, chựa Mớa,
chựa Keo…Người xem bắt gặp lại quan điểm thẩm mỹ chính thống theo xu
hướng cổ điển, tìm cái đẹp ở sự nuột nà, trau chuốt, tỉ mỉ, bóng bảy, thanh tao,
duyên dáng.
Nhưng liền sau đó, nửa cuối thế kỷ XVII, cùng với sự nổi lên của một lớp Thái
giám, nhiều người trong số họ đã làm những công việc có ích với dân làng và
xây dựng lăng mộ riêng kiên cố. Hầu như các lăng mộ đều có tượng đá đặt
ngoài trời, Những tượng này được tạc theo công thức, lúc đầu còn giữ được
chút ít sinh động của thời trước, càng về sau càng khô cứng tĩnh lặng, các mảng
khối đơn điệu, chi tiết tạo hình thường hay lặp lại. Một biểu hiện của “đặc tính
nông dân ăn chắc mặc bền” là các khoảng trống dưới bụng, giữa cỏc chõn luụn
để đặc gắn với bệ tạo thành một khối.
Nhà Tây sơn tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng đã khắc phục mau
chóng những mặt khủng hoảng trầm trọng dồn nén từ mấy thế kỷ, ổn định xã hội, đề cao văn hoỏ dõn
tộc…Chựa Tây Phương vừa tập trung được một khối lượng lớn các tác phẩm điêu khắc, vừa tổng hợp
được tính cách nổi trội ở nhiều cá thể tạo nên một diện mạo điển hình, đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật
điêu khắc Việt Nam nói chung và điêu khắc cổ điển nói riêng. Những nghệ sĩ nắm rất vững giải phẫu cơ
thể học, mối liên quan giữa các bộ phận để cùng biểu đạt những trạng thái tâm lý. Do đó dù những
tượng này không nhằm miêu tả một mẫu cụ thể, song tính chân dung lại rất chuẩn: người xem tượng
Tượng đá trong chùa Trăm Gian
Chân đèn bằng gốm
thế kỷ XVI
đều cảm thấy quen quen, chi tiết nào cũng gặp đâu đó, vì vậy mỗi pho tượng mang đậm cá tính “sống”
và “giống”.
Nhà Nguyễn thống nhất đất nước năm 1802, tạo điều kiện cho văn hoá phát triển. Hầu hết cỏc đỡnh,

đền, chùa đều được tu sửa, một số được làm mới. Kinh đô mới được xây dựng ở Phỳ Xuõn gồm cả
những công trình cho người sống, lăng tẩm cho người chết, kéo theo sự phát triển của kiến trúc và điêu
khắc. Tác phẩm điêu khắc thời Nguyễn còn lại nhiều, xu hướng chung là làm giống như thật, do đó sa
vào chi tiết và phần nào lạm dụng những hình trang trí.

×