Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG NGHIÊN CỨU VỐN CỔ DÂN TỘC (TÀI LIỆU DÙNG CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MỸ THUẬT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 49 trang )

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
NGHIÊN CỨU VỐN CỔ DÂN TỘC
(TÀI LIỆU DÙNG CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MỸ THUẬT)

Mã số mơn học: MT2253
Số tín chỉ: 02 (30 tiết)
Lý thuyết: 20 tiết
Bài tập, thảo luận: 10 tiết

1


Mục lục

Trang

CHƯƠNG 1: Giới thiệu sơ lược về nghệ thuật trang trí cổ
1.1. Nét độc đáo, phong phú của vốn cổ dân tộc
1.1.1. Dân tộc
1.1.2. Nội dung tính dân tộc trong nghệ thuật
1.1.2.1. Tính dân tộc địi hỏi nghệ thuật phải phản ánh được hiện thực Việt Nam
1.1.2.2. Tính dân tộc và tâm hồn người Việt Nam
1.1.2.3. Tính dân tộc kết tinh trong hình tượng nghệ thuật
1.1.2.4. Tính dân tộc và phương tiện chuyển tải
1.1.3. Thái độ khoa học đối với dân tộc trong nghệ thuật
1.1.3.1. Tính dân tộc và di sản nghệ thuật của dân tộc
1.1.3.2. Tính dân tộc và thành tựu nghệ thuật của thế giới
1.2. Nghiên cứu, học tập vốn cổ trong mỹ thuật nói chung, trang trí nói riêng
1.2.1. Quan niệm về vốn cổ
1.2.2. Điểm qua vốn trang trí cổ


2
2
2
3
3
4
6
8
10
12
14
16
16
17

CHƯƠNG 2: Phương pháp nghiên cứu vốn cổ
2.1. Nghiên cứu họa tiết chạm khắc đơn giản
Các thủ pháp tạo hình của điêu khắc đình làng
Đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc đình làng
2.2. Nghiên cứu họa tiết chạm khắc phức tạp
2.3. Nghiên cứu họa tiết trang trí cổ bằng bản rập
2.2. Nghiên cứu phù điêu, tượng cổ
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu phù điêu
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu tượng cổ

18
19
26
28
30

34
36
39

Chương 3: Chép, nghiên cứu vốn cổ dân tộc
3.1. Chép một số họa tiết trang trí cổ hoặc phù điêu, chạm khắc cổ qua các bản rập
3.2. Chép phù điêu, tượng cổ

44
44
16
48

Tài liệu học tập

2


CHƯƠNG 1: Giới thiệu sơ lược về nghệ thuật trang trí cổ
Số tiết: 16 (Lí thuyết: 10 tiết; Thực hành: 4 tiết; Kiểm tra: 2 tiết)
A) MỤC TIÊU
- Kiến thức:
+ Sinh viên hiểu và nắm vững sơ lược về nghệ thuật trang trí cổ dân tộc qua các thời kỳ
thơng qua các loại hình mỹ thuật.
+ Sinh viên hiểu sâu hơn truyền thống thẩm mỹ đặc sắc của dân tộc, vai trò quan trọng
của nghệ thuật truyền thống trong đời sống xã hội và trong giáo dục thẩm mỹ ở trường phổ
thông.
- Kỹ năng:
+ Luyện cách nghiên cứu, học tập vốn cổ trong mỹ thuật nói chung, trang trí nói riêng.
+ Nắm bắt được vẻ đẹp của vốn cổ, có ý thức trong nghiên cứu, tìm hiểu và vân dụng

sáng tạo trong học tập chun mơn; kết hợp hài hịa giữa truyền thống và hiện đại.
- Thái độ:
+ Tự hào và tơn trọng nghệ thuật truyền thống dân tộc, có thái độ khoa học đối với dân tộc
trong nghệ thuật.
B) NỘI DUNG
1.2. Nét độc đáo, phong phú của vốn cổ dân tộc
1.1.1. Dân tộc
”Dân tộc là một khối cộng đồng ổn định, thành lập trong lịch sử dựa trên cơ sở cộng
đồng về tiếng nói, về sinh hoạt kinh tế và cấu tạo tâm lý chung trong một nền văn hóa”. J. Xtalin.
Định nghĩa giúp chúng ta đi sâu tìm hiểu về dân tộc Việt Nam, suy nghĩ về hoàn cảnh
lịch sử đặc thù đã thúc đẩy cho những tính chất cộng đồng trên đây được mau chóng hình thành,
giúp chúng ta tìm hiểu được một cách khoa học về tính chất dân tộc nói chung và tính dân tộc
trong nghệ thuật nói riêng.
Dưới ánh sáng của định nghĩa ấy, chúng ta địi hỏi một tác phẩm nghệ thuật có tính dân
tộc phản ánh được hiện thực dân tộc thơng qua tâm lý dân tộc, xây dựng được hình tượng dân
tộc, sử dụng được những hình thức và phương tiện ưa thích của dân tộc.
Dân tộc là một q trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất
hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được
dùng phổ biến nhất.
Một là: dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt
kinh tế chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với
nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia - Quốc gia có nhiều dân tộc.
Hai là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ,
quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của
mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu
tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc
là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó - Quốc gia dân tộc.
1.1.2. Nội dung tính dân tộc trong nghệ thuật


3


Có người hiểu tính dân tộc trong văn nghệ ta chỉ là cái phách tre, cái mõ gỗ, cái đàn bầu.
Quan niệm ấy chưa đúng, những thứ ấy đều có tính dân tộc nhưng tính dân tộc ở đây là tính dân
tộc của nhạc cụ chứ đâu phải của bản thân nghệ thuật.
Có người lại coi tính dân tộc nằm trong loại thể nghệ thuật khác như: tuồng, chèo, cải
lương… những thứ này có tính dân tộc khơng? Có, nhưng ở đây là tính dân tộc của các loại thể
khác nhau chứ chưa phải là tính dân tộc của bản thân nghệ thuật.
Cũng có người đi tìm tịi tính dân tộc của nghệ thuật ở cách thức diễn tả, cấu trúc của
thơ ca, ở màu sắc của hội họa… chúng ta có thể thấy chất dân tộc ở trong những cách thức và
phương tiện diễn tả ấy nhưng tính dân tộc của bản thân nghệ thuật chưa phải ở những thứ này.
Ở Việt Nam, một tác phẩm mang tính dân tộc trước hết phải phản ánh được hiện thực
Việt Nam, phù hợp với tâm hồn Việt Nam, xây dựng được những hình tượng Việt Nam, sau đó
mới tới những phương tiện Việt Nam được sử dụng.
1.1.2.1. Tính dân tộc địi hỏi nghệ thuật phải phản ánh được hiện thực Việt Nam
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nghệ thuật phản ánh được hiện thực khách
quan một cách khách quan, một cách sâu sắc trong sự phát triển đi lên của nó. Cái hiện thực sâu
sắc mà nghệ thuật phản ánh phải là cái hiện thực gắn liền với cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc
ta, gắn liền với tâm tư, tình cảm và khát vọng của dân tộc. Hiện thực quanh ta muôn màu, muôn
vẻ, nhưng không phải bất cứ hiện thực nào cũng rung động được chúng ta.
Những nét thẩm mỹ sâu sắc nhất của cuộc sống phải là những nét thân thiết của dân tộc,
những nét khêu gợi nhất, thu hút sự quan tâm và thích thú của dân tộc. Bao nhiêu bài thơ hay,
bức tranh đẹp đã miêu tả non sông đất nước ta sóng đỏ dạt dào của sơng Hồng, đỉnh cao chót vót
của dãy Ba Vì, ánh trăng trên sơng Trà Khúc, câu hò ở Đồng Tháp, cây tre đầu làng và con cò
trên trời xanh, tất cả hấp dẫn ta làm mát rượi lịng ta.
Đó chính là hiện tượng dân tộc từ bao đời qua đã gắn liền với lao động, với chiến đấu với
mọi tâm trạng vui buồn cảu dân tộc ta. Ngày xưa, dân tộc ta cưỡi sóng Bạch Đằng để đánh quân
Nguyên, dân tộc ta chẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ, sông ấy và núi ấy thắm thiết lịng chúng ta
biết bao nhiêu bởi đấy chính là hiện thực của dân tộc.

Con người trên đất nước ta đều có những nét mặt mũi và tai mắt ấy những con người ở
đây gắn bó với chúng ta biết chừng nào con người ở đây với chúng ta cùng chung một số phận
dân tộc cũng có một trách nhiệm đè nặng trên vai đi sâu vào những con người ấy để phát hiện và
ngợi ca, sẽ chinh phục được trái tim và khối óc. Bởi chiều sâu của những con người ấy cũng là
chiều sâu của cả dân tộc và của mỗi chúng ta.
Hiện nay, lịch sử đang đặt dân tộc ta trước những nhiệm vụ cách mạng vĩ đại và khó
khăn chưa từng có, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang phát huy tài năng và trí tuệ vừa để
tiêu diệt một kẻ thù hung hãn và lớn mạnh nhất thế giới, là đế quốc Mỹ vừa để xây dựng một chế
độ xã hội tốt đẹp nhất – chế độ xã hội chủ nghĩa trên một đất nước vừa mới thoát khỏi sự thống
trị của đế quốc và phong kiến, trong sự nghiệp vĩ đại này, hàng ngày hàng giờ, ở khắp mọi nơi,
trên mọi lĩnh vực lao động, dân tộc ta đang nêu cao những phần chất tuyệt vời của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, đó là hiện thực rực rỡ nghìn năm có một đang diễn ra trước mắt người nghệ sĩ
Việt Nam, miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn những người mới, việc mới trong
hiện thực ấy.
1.1.2.2. Tính dân tộc và tâm hồn người Việt Nam
Nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực khách quan tâm hồn người nghệ sỹ và tác động đến
tâm hồn của nhân dân, giá trị của tác phẩm nghệ thuật không ở chỗ nó phản ánh hiện thực một
4


cách thụ động như một cái gương giá trị của tác phẩm chỉ đạt được khi người nghệ sỹ với tâm
hồn nhạy bén và rộng lớn của mình đã khái quát được hiện thực, nhào nặn hiện thực ấy trong đầu
óc mình, sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật trong sáng, hấp dẫn, tương xứng với tâm hồn
cao đẹp của con người Việt Nam. Chính vì lẽ đó, người nghệ sỹ phải luôn bồi dưỡng thị hiếu và
lý tưởng của mình lên ngang tầm tư tưởng lớn, tình cảm lớn của dân tộc.
Dân tộc ta là một dân tộc vừa anh hùng vừa nghệ sỹ, vốn có một khí phách kiên cường,
bất khuất trước quân thù, yêu thương tổ quốc và đồng bào, tinh vi và tế nhị trước cái đẹp của
cuộc sống và cái đẹp của nghệ thuật.
Nếu người nghệ sỹ khơng hết lịng tìm hiểu những đặc điểm ấy của tâm hồn dân tộc, nhất
định sẽ đi lạc hướng và chỉ tạo ra những tác phẩm tầm thường nhạt nhẽo.

Có những người bị lóa mắt vì những thành tựu nghệ thuật ở nước ngoài, đã sao chép nội
dung lượm nhặt chủ đề, lắp lại những phong cách hoặc phương tiện diễn tả của người khác, tạo
nên những sản phẩm nghệ thuật không phù hợp chút nào với tâm hồn Việt.
Tâm hồn Việt Nam còn là tâm hồn phong phú sâu sắc và tế nhị trong lĩnh vực thẩm mỹ.
Chúng ta nhận rõ điều đó ở những đường nét mạnh dạn và táo bạo có một sức khái quát lớn của
tranh dân gian con hổ, con gà, con lợn, những lời châm biếm sâu sắc trong chuyện tiếu lâm, và
trong câu vè đả kích giai cấp bóc lột, ở những nét tinh vi trong suốt cả ở những bức tượng chùa
Tây Phương, ở những tiết họa trên trống đồng, ở những đường chạm khắc trên đình chùa cổ… ở
những sự hòa màu sắc trong các tranh Tết cũng như trên quần áo của các cô thôn nữ ngày hội.
Nếu nghệ sỹ khơng đi sâu tìm hiểu truyền thống thẩm mỹ ấy đã được hình thành từ đời này qua
đời khác, nhất định tác phẩm của chứng ta không thể đáp ứng được với đòi hỏi của nhân dân.
1.1.2.3. Tính dân tộc kết tinh trong hình tượng nghệ thuật
Nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực khách quan bằng hình tượng, cho nên nội dung và
hình thức nghệ thuật, chủ đề tư tưởng của tác phẩm, ý nghĩa tình cảm của tác giả, sự khêu gợi và
hấp dẫn của nghệ thuật đều kết tinh trong hình tượng nghệ thuật. Dấu hiệu rõ rệt nhất của tính
dân tộc vì thế cũng tập trung ở hình tượng. Mỗi dân tộc có những hiện tượng độc đáo trong thiên
nhiên, trong kiến trúc nhà cửa, trong hình dáng con người, trong quần áo, trong sinh hoạt hàng
ngày, được nghệ sỹ tập trung khái quát tạo, tạo nên những hình tượng đặc thù của dân tộc. Người
nghệ sỹ đi sâu vào đời sống và tâm hồn của dân tộc Việt Nam cuối cùng phải đạt được thành quả
nghệ thuật là tạo ra những hình tượng điển hình đặc sắc có sức truyền cảm mạnh mẽ nhất. Sức
truyền cảm của hình tượng điển hình ấy trước hết là tính dân tộc của nó. Một u cầu điển hình
hóa trong nghệ thuật hiện thực là tính cụ thể và hoàn cảnh lịch sử xã hội của nhân vật. Tính cụ
thể và hồn cảnh lịch sử xã hội đó trước hết phải thể hiện ở đâu? Ở tính dân tộc và tính thời đại.
Miêu tả những con người mới của Việt Nam phải hệt Việt Nam, ném vào bất cứ một nước nào
cũng không thể lẫn được, như thế mới là hiện thực.
Nghệ thuật của Việt Nam cũng như nghệ thuật của nhân loại từ trước đã tạo ra được rất
nhiều hình tượng dân tộc đặc sắc. Những hình tượng ấy có giá trị bởi nó phản ánh sâu sắc những
hoàn cảnh cụ thể của những dân tộc khách nhau. Chỉ có thể thưởng thức những hình tượng ấy
khi đặt nó vào khung cảnh đã tạo ra nó, liên hệ với mơi trường sinh hoại của dân tộc ấy. Sự vay
mượn hình tượng, đưa hình tượng của dân tộc khác vào dân tộc mình chỉ là việc vô vị. Trong

văn thơ, người Nga hay mô tả cây Bạch Dương, người Trung Quốc hay nhắc tới cây tùng và
người Việt Nam hay nói về cây tre. Nghệ sỹ đơng âu thường xúc động trước sự êm đềm của
dịng xanh Đanp, Lý Bạch nói về nước sơng Hồng Hà như “trên trời đổ xuống”. Cao Bá Quát
5


mơ tả” sơng Nhị u thương với lớp sóng hoa đào”. Cỏ cây sông nước ở những dân tộc khác
nhau đã tạo nên những hình tượng dân tộc độc đáo của những dân tộc ấy.
Những người nghệ sỹ chân chính đã đi sâu vào rất nhiều cảnh ngộ của nhân dân ta và
khái quát trong những hình tượng sâu sắc.
Người phụ nữ vất vả nuôi chồng được nổi lên trong hình tượng ”con cị lặn lội bờ sơng”.
Sự xinh tươi duyên dáng của một cô thôn nữ được liên tưởng với hình tượng “ cây trúc xinh trúc
mọc đầu đình”. Một con người có phẩm chất cao đẹp được ví như bơng hoa sen ở giữa đầm.
Những hình tượng ấy tác động sâu sắc đến tâm hồn người Việt Nam, bởi nói gắn liền với những
cảm nghĩ của người năm này qua năm khác. Những hình tượng mang tính dân tộc cũng khơng cố
định, sức hấp dẫn của nó cũng thay đổi cùng với sự thay đổi của dân tộc. Đời sống dân tộc của
chúng ta đang thay đổi rất nhanh chóng trên mọi lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, đang có nhiều
nét hấp dẫn mới, tạo điều kiện cho nghệ sỹ sáng tạo những hình tượng phù hợp với tình cảm, óc
tưởng tượng và thị hiếu của nhân dân ta ngày nay. Người nghệ sĩ ra sức nâng cao giá trị nghệ
thuật của tác phẩm bằng cách tìm tịi, phát hiện và sáng tạo ra những hình tượng mới ấy.
1.1.2.4. Tính dân tộc và phương tiện chuyển tải
Chúng ta hiểu phương tiện là tồn bộ những cơng cụ, những cách thức diễn tả và hiểu
rộng ra, là các thể loại nghệ thuật được sử dụng để nghệ sĩ phản ánh cuộc sống và biểu đạt cảm
nghĩ của mình. Trong lịch sử hoạt động nghệ thuật, các dân tộc đã tìm tịi sang chế và khơng
ngừng hồn hiện những phương tiện nghệ thuật, đem lại cho những phương tiện ấy một tính chất
độc đáo dân tộc. Tính dân tộc của phương tiện nghệ thuật, tự mình nó chưa đủ để nói lên tính
chất dân tộc của nghệ thuật. Nhưng sử dụng những phương tiện nghệ thuật dân tộc, người nghệ
sĩ có những thuận tiện rất lớn để sáng tạo nghệ thuật và giao cảm với công chúng.
1.1.3. Thái độ khoa học đối với dân tộc trong nghệ thuật
1.1.3.1. Tính dân tộc và di sản nghệ thuật của dân tộc

Quan niệm: cứ cái gì cổ là dân tộc? Theo đó thì tuồng chèo, cải lương mới có tính dân
tộc, cịn kịch nói thì khơng có tính dân tộc. Theo họ, có lẽ những quần áo chúng ta đang mặc đây
đều lai căng còn cái khăn xếp cái áo the và cái búi tó trên đầu là dân tộc sao? Khơng thể lầm lẫn
tính dân tộc với những hình thức cổ truyền. Cái gì phù hợp với nhiệm vụ, với tâm hồn và khí
phách dân tộc là mang tính chất dân tộc. Cái gì vốn quen thuộc với cha ơng chúng ta, nhưng
khơng phù hợp với chúng ta nữa thì chỉ cịn tính chất cổ truyền chứ khơng cịn tính dân tộc theo
nghĩa hiện đại của nó.
Có những người khác lại quan niệm cứ cái gì thuộc vốn cũ là quý, là tốt. Họ muốn giữ
nguyên vẹn những bài ca, điệu hát những cách thức vẽ tranh, tạc tượng càng cổ càng hay. Họ
khơng muốn cải biến, đổi mới gì nữa. Đó là những người bảo thủ. Họ muốn chúng ta quay lại
đằng sau mà chiêm ngưỡng. Họ không thấy trách nhiệm thiêng liêng, tấm lòng hiếu thảo của
chúng ta trước sự nghiệp của cha ông là phải phát huy hơn nữa, làm đẹp hơn nữa tốt hơn gấp
trăm lần những cái mà cha ơng đã làm được.
1.1.3.2. Tính dân tộc và thành tựu nghệ thuật của thế giới
Sự giao lưu văn hóa giữa dân tộc này với dân tộc khác là một quy luật lịch sử. Sức mạnh
của một dân tộc cũng biểu hiện ở chỗ nó tiếp thu một cách mau lẹ nhất những kinh nghiệm và
kiến thức của thế giới, biến chúng thành tài sản và vũ khí đấu tranh của mình. Ở đây chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi cũng như tinh thần tự ti dân tộc đều là những quan điểm sai lầm cản trở sự phát
triển của dân tộc, và nghệ thuật dân tộc.
1.2. Nghiên cứu, học tập vốn cổ trong mỹ thuật nói chung, trang trí nói riêng
6


1.2.1. Quan niệm về vốn cổ
Không phải một cá nhân lỗi lạc nào đó đã bỗng nhiên tạo nên một chiếc đàn bầu, một cây
sáo trúc, một cái phách tre… Cũng khơng phải là một ngày nào đó bỗng xuất hiện những điệu
trống quân, quan họ, những lời thơ lục bát du dương, những mầu sắc đậm đà và giản dị của tranh
khắc gỗ, tranh lụa, tranh sơn mài… Tất cả những phương tiện đó là do tập thể của dân tộc ta
sáng tạo, được hồn thiện khơng ngừng từ đời này sang đời khác. Đã bao lần người nghệ sĩ của
dân tộc trong đêm thanh vắng đã gửi đến tâm hồn mình vào sợi dây đàn bầu thánh thót? Đã bao

lần chúng ta đã từng thổn thức lắng nghe một lời hát ru con hay một tiếng sáo tâm tình? Đã bao
lần chúng ta xúc động trước một khúc hát dân gian, một bản nhạc cổ truyền, một màu sắc dân
tộc? Trong những lúc ấy chính tình cảm trong đẹp của cha ông ta đã được diễn lại và đã nâng cao
thêm ở mỗi ngời chúng ta. Trong những lúc ấy chúng ta càng cảm thấy gắn bó với đất nước, thiết
tha hơn với đồng bào.
Vốn cổ dân tộc là vốn truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Di sản quý báu đó được
hun đúc, trải nghiệm rõ nét trong nhiều thời kỳ khác nhau bộc lộ qua cách nhìn, cách thể hiện
trên các sản phẩm văn hóa vật thể, phi vật thể.
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là
một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta.
- Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu
giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về
nghề thủ cơng truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục
truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.
- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di
tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa Việt Nam được sử dụng nhằm mục đích:
1. Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của tồn xã hội;
2. Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
3. Góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và
mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế.
1.2.2. Điểm qua vốn trang trí cổ
1.2.2.1. Thời Tiền sơ sử
Ðến nay, về nghệ thuật tạo hình thời nguyên thủy ở Việt Nam, chúng ta chưa thấy hình
vẽ hay tạc vào đá mộ trình độ khá. Tại Nà Ca (Bắc Thái), người ta thấy hình một mặt người khắc
vào đá. Trong hang Ðồng Nội (Hà Nam Ninh), thì có ba mặt người chạm nổi. Cũng ở Ðồng Nội
(Hà Nam Ninh), ngồi hình mặt người, cịn có hình đầu một lồi thú, khơng rõ lồi gì. Ðây là

hình thú tạc vào đá độc nhất của thời nguyên thủy tìm thấy đến nay ở nước ta.
Ở huyện Lạc Thủy có 8 di chỉ thuộc nền văn hóa Hịa Bình gồm: di vật trống đồng loại I,
giáo búp đa, giáo lá lúa, đỉnh đồng, mũi dao đồng... Điều này đã chứng tỏ nơi đây đã từng có sự
giao thoa với nền văn hóa Đơng Sơn cách đây hàng ngàn năm. Đặc biệt trong hang Đồng Nội, xã
Đồng Tâm, các nhà khảo cổ cịn phát hiện những hình khắc trên vách núi đá tiêu biểu nhất là
hình thú và ba mặt người. Có thể nói đó là tác phẩm duy nhất của nghệ thuật tạo hình trong nền
7


văn hóa Hịa Bình và có lẽ là tác phẩm nghệ thuật tạo hình cổ nhất được phát hiện tại Việt Nam
tính đến thời điểm
Tượng đá bé bằng ngón tay út, tạc hình người (Văn Ðiển). Tượng trịn bé này cũng là
tượng trịn hình người bằng đá độc nhất của người nguyên thủy tìm được ở nước ta đến nay.
Trong hang Lam Gan (Hà Sơn Bình), người ta thấy hình một cành cây khắc trên mũi dùi
bằng xương. Ở Làng Bon, n Lạc (Bình Trị Thiên) có hình cành lá khắc trên đá cuội,
v.v. Những thể hiện hình người và vật kể trên cịn rất thơ sơ. Một điểm đáng chú ý là trên đỉnh
đầu những hình mặt người ở hang Ðồng Nội, người ta thấy như một cái chạc hình chữ Y khơng
hiểu tượng trưng cho cái gì? Phải chăng đây là nét thô sơ thể hiện lông chim, ngụy trang trên đầu
người như chúng ta thấy trong hình người trang trí trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và các di vật
khác của thời Ðơng Sơn?
Có thể phân thành một số nhóm mơ típ họa tiết sau:
Nhóm thứ nhất là những họa tiết hình học như hình trịn, hình tam giác, hình thang. Đây
là mơ típ họa tiết giữ vai trị chủ thể. Những hình trịn ở đây thường là những vịng trịn đơn. Có
hình trịn có 4 tia ở xung quanh có thể là biểu tượng mặt trời.
Nhóm thứ hai là những họa tiết hình bàn chân người. Những bàn chân thường là những
bàn chân phải của người lớn và trẻ em, với kích thước to gần như thật, những ngón chân được
khắc lõm sâu vào trong đá. Đây là mơ típ thể hiện được xem là rất cổ trong nghệ thuật tiền sử.
Nhóm thứ ba là những biểu tượng sinh thực khí, chủ yếu là những biểu tượng nữ tính với
hình tam giác có rãnh dọc ở giữa.
Nhóm thứ tư là họa tiết hình người được thể hiện trong tư thế giơ tay, dạng 2 chân như

chúng ta thường thấy trong các bích họa hang động thời tiền sử.
Nhóm thứ năm là những hoa văn hình vng và hình trịn.
Nhóm thứ sáu là những hình khắc chưa xác định được hình dáng và ý nghĩa thể hiện.
Để tạo những hình này, người xưa đã sử dụng kỹ thuật rất thô sơ là đục khắc trực tiếp
trên bề mặt tảng đá. Những nét khắc chạm này thường có bề rộng khoảng 2cm, sâu chừng 1cm.
Qua các mơ típ họa tiết được thể hiện, chúng ta thán phục sự cần mẫn và bàn tay khéo léo của
người xưa với những nét đục khắc khá đều đặn. Nhìn chung, những hình khắc vẽ này cịn mang
tính biểu tượng, ước lệ, nhưng đó là những sáng tạo nghệ thuật tạo hình thời tiền sử. Như chúng
ta đã biết, từ nhận thức cái đẹp đến sáng tạo nghệ thuật là cả một quá trình lâu dài trong lịch sử
nhân loại. Chủ nhân của những hình khắc vẽ Xín Mần đã có khái niệm về thẩm mỹ, về cái đẹp
bản năng trong đời sống thiên nhiên, trong sinh hoạt cộng đồng và đã thể hiện chúng trên đá.
Ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai, các nhà nghiên cứu đã phát hiện nhiều tảng đá có hình khắc vẽ cổ.
Ðồ gốm thời ngun thủy
Việc biết dùng ngũ cốc là thức ăn là một cuộc cách mạng trong xã hội nguyên thủy.
Chẳng những nó cho phép con người có thể định cư mà cịn thay đổi nếp sống và dụng
cụ thường dùng. Những khí giới bằng đá không đủ cho đời sống hàng ngày nữa, người ta cịn cần
có nồi, niêu, chum, vại để nấu, đựng thức ăn; do đó, đồ gốm ở nước ta được chế tạo ra rất sớm để
đáp ứng nhu cầu đời sống. Việc chế tạo ra đồ gốm là một sự kiện hết sức quan trọng trong đời
sống của người nguyên thủy và trong việc chế tạo này, tổ tiên ta mới có điều kiện phát triển khả
năng về trang trí và tạo hình.
Những người làm đồ gốm đầu tiên, khi chưa biết dùng bàn nặn xoay, thì thường đan
khn bằng nan tre theo hình nồi, niêu, chum, vại rồi trát một lớp đất sét dày mỏng tùy theo ý
muốn đồ gốm dày hay mỏng. Khn đan in vào vại, vị lúc còn ướt thành một thứ hoa văn trang
8


trí. Ðến khi trình độ nghệ thuật của người thợ đồ gốm đã khá, người ta không dùng khuôn đan
nữa, song vì quen mắt và yêu cầu thẩm mỹ, người ta vẽ bằng que hay dập hoa văn phỏng theo
dấu in của khuôn đan. Dần dần hoa văn trong đồ gốm trở nên phong phú, chẳng hạn như hình
kép của hình sóng gợn, hình chữ chi, hình nan rổ, hình răng sói… Nhưng phải nói cuối thời đồ

đá mới, khi kỹ thuật làm đồ đá phát triển đến tuyệt đỉnh của nó, thì hoa văn trang trí mới đạt đến
trình độ phong phú là nền tảng cho nghệ thuật trang trí đồ gốm và đồ đồng sau đấy. Ðó chính là
bước đầu của thời mà nhà viết sử của ta gọi là thời vua Hùng dựng nước.
Thời kì Vua Hùng, vào cuối thời kì đồ đá mới, với nhiều di vật đá được chế tạo với kỹ
thuật điêu luyện, gốm xương, gỉ đồng và xỉ đồng. Đồ gốm đã phổ biến, nhiệt độ nung đã khá cao
(600-700 độ C) và kỹ thuật nung đã thành thạo. Thời kì sau đó, kỹ thuật làm đồ gốm có nhiều
tiến bộ hơn, nhiệt độ nung cao (hơn 800 độ C) nên gốm rắn chắc, khơng xốp, hoa văn được hình
học hóa cao với đường rạch, vẽ, gấp khúc dứt khoát.
Văn hoá Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng,
cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Di chỉ văn hóa Phùng
Nguyên đã được phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi
khác trong lưu vực sơng Hồng.
Rìu có trang trí rất đẹp ở cả hai mặt thân và họng rìu. Trên họng rìu có hình đơi cá sấu
cuộn đi châu đầu đối xứng nhau. Trên thân rìu một mặt có hình ba vũ nữ mặc váy đội mũ lông
chim cao trong đó người đứng giữa to lớn hơn hai người kia đang thổi kèn, hai người còn lại
đang xèo tay ra múa tượng tự như những hình múa trên trống đồng Đông Sơn.
Vào khoảng 4.000 năm trước, các bộ tộc cư trú trên đất nước ta bước vào thời đại đồng
thau. Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được trong quá trình lao động, lại được sự hỗ trợ của
cơng cụ, dung cụ bằng đồng, công nghệ chế tạo gốm không ngừng được cải tiến nâng cao, người
thợ gốm đã có thể sáng tạo nên những sản phẩm gốm vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị nghệ
thuật.
Trên lưu vực sơng Hồng, văn hóa Tiền Đơng Sơn với 3 giai đoạn phát triển liên tục là
văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đơng Đậu và văn hóa Gị Mun được thể hiện khá rõ trên trên
kiểu dáng và hoa văn đồ gốm. Có thể nói đây là giai đoạn đỉnh cao của gốm nguyên thủy Việt
Nam.
Đồ gốm có độ nung khơng cao lắm, mặt ngồi nhẵn bóng, màu đỏ tươi hay màu đen, hoa
văn phong phú. Người Phùng Nguyên đã biết dùng bàn nặn xoay cho phép làm nhanh và đẹp, để
đáp ứng nhu cầu ngày càng nhiều của người đương thời. Hoa văn trang trí là vịng trịn đồng
tâm, vịng trịn có tiếp tuyến, văn chữ S đơn hay kép được cách điệu ra nhiều kiểu, lặp lại thành
dải xung quanh nồi, chum, bình chậu.

Nghệ nhân Phùng Nguyên đã nắm được nguyên tắc căn bản của nghệ thuật trang trí là
luật lặp lại, luật xen kẽ và luật đối xứng nên cấu tạo được những đường nét hài hoà của hoa văn
như ta thấy trên nhiều đồ gốm ở thời này.
Trong văn hóa Phùng Nguyên gốm mịn ngày càng tăng, áo gốm phổ biến, gốm thành
mỏng đều, phần lớn có màu hồng nhạt. Hoa văn trang trí, ngồi văn thừng mịn hoặc thô phổ biến
trong cả 3 giai đoạn văn hóa Tiền Đơng Sơn, thì tiêu biểu cho giai đoạn Phùng Nguyên là những
đồ án hoa văn khắc vạch kết hợp chấm giải với các mơ típ khác nhau biến hóa phức tạp, mà phổ
biến hơn cả là họa tiết hình chữ S và các hình tam giác đối xứng với các biến thể khác nhau.
Những vành hoa văn khác nhau này được trang trí trên cổ, vai và bụng đồ gốm làm cho các đồ
án trở nên hài hòa sinh động, đỡ nhàm chán, đồ gốm trở nên nhẹ nhàng thanh thoát hơn. Đến giai
9


đoạn Phùng Nguyên đồ gốm không những nhiều về số lượng , mà kiểu dáng và loại hình cũng
cực kỳ phong phú da dạng. Ngay như nồi cũng có đủ loại to nhỏ, nông sâu, miệng loe, miệng
khum, miệng thành dày thành mỏng, bụng trịn bụng dẹt. Cịn bát thì cực kỳ đa dạng, phần lớn
có miệng loe rộng, chân đế cao hoặc thấp, có những chiéc bát chân cao kiểu mâm bồng. Bình có
loại có miệng loe như hình ống nhổ.
Giai đoạn Đồng Đậu, gốm cứng và thành dày hơn, phần lớn có màu xám và đồ gốm có
kích thước lớn tăng nhiều hơn. Riêng hoa văn mang phong cách rất riêng. Đến lúc này hầu như
khơng cịn loại hoa văn khắc vạch kết hợp chấm giải tạo thành các đồ án hình chữ S, hình tam
giác biến thể đối xứng nữa, mà thay vào đó là văn kiểu khuông nhạc chải thành các đồ án từ đơn
giản đến phức tạp. Phổ biến hơn cả là văn hình sóng nước uốn khúc liên tục. Tương đối đơn giản
là đồ án gồm những đoạn khuông nhạc song song trái chiều hoặc cắt nhau khá đều đặn, phía
trên và dưới có các đường gợn sóng nhẹ, hoặc văn khng nhạc xịe ra kiểu nan quạt hay bu gà.
Văn thừng bện cũng là loại thường gặp, có loại bện tương đối chặt, có loại bện khơng chặt, giữa
các đường xoắn có các lỗ hổng to nhỏ khác nhau. Cũng có đồ án khng nhạc hình chữ S với các
kiểu dọc ngang biến thể khác nhau, có khi sắp xếp song song bên nhau, có khi móc nối đi
nhau. Loại nồi vị thành miệng dày rất tiêu biểu cho gốm Phùng Nguyên cũng hầu như khơng
thấy. Đồ gốm có độ nung cao hơn và rắn chắc hơn, thêm màu xám vàng sẫm. Hoa văn trang trí

vẽ bằng dụng cụ như răng lược tạo thành những đường song song như khuôn nhạc (gọi là văn
khn nhạc).
Giai đoạn Gị Mun, gốm có bước tiến đáng kể về kỹ thuật, tuy vẫn nằm trong khuôn khổ
gốm thô, nhưng được nung với nhiệt độ cao hơn, khoảng 800 – 900 0 C, gốm cứng gần như sành,
gõ vào tiếng kêu đanh. Gốm có thành dày vừa phải, màu xám, sắc độ đồng đều. Nhìn chung gốm
thời này có phần thanh mảnh hơn gốm Đồng Đậu. Nếu như từ Phùng Nguyên chuyển qua giai
đoạn Đồng Đậu về mặt tạo hình khơng có biến đổi gì lớn, thì từ Đồng Đậu qua Gị Mun có bước
tiến bộ trong khâu tạo hình. Người thợ gốm ở đây đã sử dụng bàn xoay ở một trình độ cao để
làm ra những nồi, vị có độ gãy góc dứt khốt và sắc nét ở phần miệng và vai, hay những đồ
đựng lớn có thân trịn hình cầu cân đối đẹp mắt.
Hoa văn trang trí được đơn giản hố thành những hình học như hình tam giác, hình chữ
nhật, hình trịn… Hoa văn chữ S cũng thành một hoạ tiết khác biệt với trước.
Về loại hình, vẫn là đồ đun nấu, đị đựng nhưng loại nào cũng có những biến đổi trong
chi tiết, tạo nên đặc trưng riêng của gốm Gò Mun. Đặc điểm nổi bật nhất của gốm Gò Mun là sự
phổ biến của gốm miệng loe với những mức độ khác nhau, từ loe cong, loe xiên, loe lõm lòng
máng đến loe ngang, loe gãy. Hoa văn thời Gò Mun vẫn được tạo nên bằng các phương pháp
truyền thống như dập lăn, in ấn, đắp nổi và khắc vạch, nhưng phong cách và vị trí cũng có
những điểm khác trước. Văn thừng tương đối thơ, văn khắc vạch có phần giản đơn, mang đậm
nét kỷ hà. Nhiều đồ án chỉ là sự kết hợp của những đoạn thẳng, vạch ngắn, vòng trịn cuống rạ,
đường gấp khúc, chấm giải, hình chữ V, mang tính chất hình học. Hoa văn chủ yếu trang trí trên
mặt bản miệng.
Đến văn hóa Đơng Sơn, đồ đồng phát triển lên đến đỉnh cao, không những sản xuất ra
những đồ đồng có kích thước lớn, mà cịn làm ra những đồ đồng trang trí hoa văn cực kỳ phong
phú phức tạp. Mọi nhận thức thẩm mỹ của người thợ đều được thể hiện lên kiểu dáng và hoa văn
trang trí trên đồ đồng, mà tiêu biểu hơn cả là trống đồng. Đến lúc này đồ gốm chủ yếu là đồ nấu
và đồ đựng sử dụng hàng ngày, nên hoa văn trang trí trên gốm Đơng Sơn rất đơn giản, chủ yếu là
văn thừng trang trí trên nồi, niêu, bình cùng vài đường chỉ chìm vịng quanh cổ thân bình bát…
10



Gốm văn hóa Đơng Sơn trên lưu vực sơng Mã và sông Cả phổ biến hơn cả vẫn là văn
thừng xiên hoặc dọc trang trí trên bụng nồi, niêu, ấu, bát. Trên các loại bình bát có các băng
hẹp các vạch thẳng song song hoặc cắt nhau trang trí trên vai hoặc dưới bụng.
Đồ gốm ở đây có loại hình và kiểu dáng cực kỳ đa dạng, gồm đủ loại từ nồi niêu, bình,
bát, âu, vị, chạc gốm... Nồi đa số là loại miệng loe, bụng nơng, đáy trịn, đáy bằng hoặc đáy
bằng hơi lồi, cổ hơi eo, khơng có các loại nồi vò sâu lòng đáy tròn. Đáng chú ý ở đây có loại bát
chân đế thấp chỗi miệng loe rộng kiểu loa và loại bình miệng loe, cổ eo, vai xi rộng gần gãy
góc, bụng nửa trên phình rộng, dưới bóp vào thành đáy bằng, chân đế thấp choãi khá độc đáo.
Đồ đồng
Vật tiêu biểu, đặc biệt quan trọng của thời Đông Sơn là những trống đồng. Trong đó, trống
đồng cổ nhất và đẹp nhất của nước ta ở thời này là trống đồng Ngọc Lũ. Hình trang trí trên trống
đồng Ngọc Lũ có 2 loại: loại văn truyền thống và loại hình nhân vật.
Loại văn truyền thống
Đã thấy trên đồ gốm các giai đoạn trước như: văn vịng trịn đồng tâm, vịng trịn có tiếp
tuyến, văn chữ S, văn thừng, văn răng lược v.v…Những hoa văn này trang trí thành dải chung
quanh trống đồng như đường viền để làm nổi những văn hình nhân vật.
Loại văn hình nhân vật
Những nét khắc đơn giản hoá của nghệ nhân cho người xem hiểu được nhân vật đang làm
gì: giã gạo, múa, tấu nhạc, chèo thuyền… Tư thế người múa, dáng hươu đi, chim bay… chứng tỏ
tác giả có nghiên cứu kỹ thực tế trước khi ghi lại bằng những nét khắc chạm đơn giản mà đúng
sự thực.
Vào thời Lý – Trần, những loại hình, hoa văn có liên quan đến tôn giáo này như: lá cây
đề, hoa sen, vũ nữ uốn hình theo điệu Tơ-ri-băng-ga v.v… trở nên phổ biến trong nghệ thuật
trang trí các chùa tháp. Nghệ nhân Lý – Trần đã Việt Nam hố một số hình ảnh, hoa văn thành
những tuyệt tác độc đáo không thấy có ở các nước khác. Ví dụ: “lá đề” thì có hình rồng bé như
“con giun” nằm gọn trong lá, hoa sen được cách điệu ra nhiều hình thái và thường cũng có hình
rồng “con giun” trong cánh hoa. Chạm nổi văn mây xoắn, văn sóng nước, văn hoa cúc dây và
chủ yếu là văn “rồng bé trên lá đề” là những hoa văn trang trí đặc sắc, tiêu biểu của nghệ thuật
điêu khắc thời này.
Đồ gốm

- Loại thứ nhất là gạch ngói, hình trang trí mái nhà, mái chùa v.v…, nghệ nhân thời Lý –
Trần đã biết kết hợp những gì học được ở nghệ thuật Chăm-pa với ảnh hưởng lâu đời của Trung
Quốc để tạo ra một phong cách đặc biệt dân tộc Việt. Phong cách ấy biểu lộ trong những hình
rồng bé uốn khúc (gọi là rồng giun hay rồng đất).
- Loại thứ hai là liễn, chậu, vại, bát đĩa bằng sành sứ hay đất nung. Men trắng, men xanh
ngọc với hình trang trí vẽ bằng men màu chàm hay “da lươn” hay men nâu trên nền trắng. Đồ án
cây lá, cị, cá… quen thuộc của nơng dân. Phong cách trang trí khoẻ khoắn, kỹ thuật vẽ vững
vàng, hiếm có, phản ánh tinh thần thượng võ của một thời đầy chiến cơng oanh liệt. Chúng có
tính nhân dân và thực dụng. Khơng có những hình rồng, phượng, mây, nước thường thấy ở các
đình chùa, tháp miếu.
Gốm men ngọc (celadon): Khi đã có xương gốm tốt, người ta phủ ngồi một lớp men dày
màu xanh mát, trong bóng như thuỷ tinh, do đó mới gọi là gốm men ngọc. Đồ gốm men ngọc ở
ta rất giá trị, được trong và ngoài nước ưa chuộng. Thời Lý thường tạo xương gốm mỏng, thanh.
Tới thời Trần, thì phần xương gốm chắc, dầy hơn. Hoa văn trang trí trên gốm, đa phần là hình
11


tượng hoa sen cách điệu. Ngồi ra cịn một số đề tài khác, như trang trí hoa thảo và các hoa dây
chạy quanh bình gốm. Có ba hình thức trang trí trên đồ gốm: hoa khắc, hoa in và hoa đắp. Hoa in
chìm hoặc đắp nổi thì dùng khn, cịn hoa khắc thì đùng mũi dao đầu nhọn hoặc một đầu thanh
tre vẽ lên xương gốm khi đất còn mềm. Khắc hoa rồi đem nhúng vào men, men đọng lại và tạo
ra các hình hoa văn trang trí rất đẹp. Bên cạnh các đồ gốm men ngọc cầu kỳ và tinh xảo đó,
người thợ thủ cơng cịn sản xuất một số đồ gốm đại trà, có khi để mộc, có khi phủ lớp men mỏng
màu vàng, màu nâu, hoặc màu da lươn mà xỉn màu và ít bóng. Loại gốm này để sử dụng thông
dụng và ngay khi nung, người ta nung từng chồng cao. Thời Lý, đồ gốm hầu như không viết chữ.
Tới thời Trần, ta thường thấy dưới trơn các loại đồ gốm có hàng chữ mầu nâu “Thiên Trường
phủ chế”.
Gốm hoa nâu là loại gốm đàn, kiểu dáng to, chắc chắn, cốt gốm dầy và thô. Bên ngồi có
phủ lớp men trắng ngà hoặc vàng nhạt. Gốm hoa nâu xuất hiện vào cuối thời Lý đầu thời Trần.
Hình thức trang trí hoa văn trên gốm hoa nâu thường là hoa dây chạy viền quanh miệng

đồ gốm. Đặc biệt, hầu hết các sườn gốm hoa nâu có đắp nổi hình hoa thảo, chim cị, thú bốn
chân, hoặc tơm cá… rất sinh động. Các hình rồng trang trí ở gốm hoa nâu thời Trần có khác thời
Lý.
Gốm hoa lam là tên một loại gốm phủ men trắng đục vẽ trang trí màu lam. Để có màu men
đẹp, điều cần thiết phải có cốt xương gốm tốt. Thơng thường thì xương gốm là đất sét có pha cát.
Nếu gốm cổ, lại pha cả một số tạp chất khác như rơm, rạ, trấu hoặc lá cỏ dại để tăng độ liên kết.
Những đồ gốm thời Lý tìm được trong khu vực Hồng Thành là những bằng chứng quan trọng
để có thể nói rằng: thời Lý Việt Nam cũng đã sản xuất được những đồ gốm tinh xảo không thua
kém đồ gốm Tống Trung Quốc.
Men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt như gốm Tống và phần nhiều về chất lượng
đã đạt tới trình độ sứ như sứ Tống. Nhiều tiêu bản cho thấy thời Lý cũng sản xuất loại gốm men
trắng xanh và có hoa văn như gốm Nam Tống lò Cảnh Đức Trấn. Sự khác nhau giữa gốm trắng
Tống và gốm trắng Lý chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương
gốm và kỹ thuật tạo dáng. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng
Tống. Nhưng nếu có được cái nhìn hệ thống từ những đồ gốm trắng Lý đích thực, thuần Việt qua
đồ án trang trí hình rồng và hoa lá mà phong cách của nó giống hệt như những hình chạm khắc
trên đá trong kiến trúc chùa, tháp thời Lý (tháp Chương Sơn, chùa Phật Tích), chắc chắn ta sẽ
cảm nhận được đầy đủ và rõ ràng hơn về gốm men trắng Lý.
Về kỹ thuật tạo hoa văn thời kỳ này chủ yếu có 3 loại cơ bản là đắp nổi, khắc chìm và in
khn trong, nhưng cũng có nhiều loại khơng trang trí hoa văn nhưng vẻ đẹp của hình dáng, màu
men lại rất được chú ý. Gốm thời Lý thường thanh thốt, trang nhã trong hình khối nhưng lại rất
cầu kỳ, tinh mỹ trong từng đường nét hoa văn trang trí. Đồ án trang trí phổ biến là hoa sen, hoa
cúc hay hình rồng, tiên nữ và văn như ý… Các đề tài này mang đậm yếu tố Phật giáo và một số
bộc lộ ảnh hưởng khá nhuần nhuyễn đến mức tinh tế nghệ thuật gốm thời Tống, làm cho sự phân
biệt nhiều khi khó khăn. Nhưng bên cạnh đó, nhiều mẫu hình, nhiều kiểu dáng, đặc biệt là cách
trang trí diềm văn cánh sen đắp nổi hay diềm văn vòng tròn nhỏ mà ta gặp phổ biến trên rất
nhiều đồ gốm Lý lại cho thấy rõ thêm truyền thống rất riêng biệt của gốm Việt Nam. Truyền
thống riêng biệt ấy được kết tinh và thể hiện rõ qua đồ gốm hoa nâu vốn từng được coi là sản
phẩm độc đáo và đặc sắc nhất của gốm Việt Nam.
Gốm hoa nâu trong Hồng thành có chất lượng cao, đặc biệt là ngồi các loại vị, chậu,

thạp trang trí hoa sen, dây lá, ở đây cịn tìm thấy nhiều loại thạp lớn trang trí hình rồng. Bên cạnh
12


đó cịn có nhiều loại nắp hộp hay bát, đĩa trang trí rồng, hoa sen dây theo lối “nền tơ men nâu,
hoa văn men trắng” với đường nét chạm khắc uốn lượn mềm mại, tinh xảo, bộc lộ vẻ đẹp sang
trọng, q phái.
Thời Lý cịn sản xuất nhiều loại gốm cao cấp khác như gốm men trắng, gốm men xanh
lục, gốm men xanh ngọc, đặc biệt là loại gốm men vàng. Gốm men vàng là phát hiện rất mới mẻ
và dường như chỉ mới được tìm thấy trong khu vực Hồng Thành Thăng Long.
Gốm thời Trần tìm được khá nhiều trong các hố khai quật và thường được tìm thấy cùng
với những đồ gốm trang trí kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ này có rất nhiều loại, gồm các dòng
gốm: men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam.
Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có
phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Cũng chính vì
đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời Lý và gốm thời Trần là điều khơng phải dễ dàng.
Có thể phân biệt được sự khác nhau giữa gốm Lý và gốm Trần. Nhìn chung, kỹ thuật tạo chân đế
của gốm thời Trần thường không được làm kỹ như gốm thời Lý. Về hoa văn trang trí cũng vậy,
mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và
cầu kỳ như gốm thời Lý. Đặc biệt đối với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn
khắc chìm, thời Trần cịn phổ biến loại gốm có hoa văn in khn trong. Dường như đây là loại
hoa văn rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với
gốm thời Lý.
Đáng chú ý nhất là chiếc thạp lớn có nắp trang trí hoa sen và những chiếc vị, chậu trang
trí hoa văn dây lá. Một chiếc chậu trang trí hình bốn con chim đang đi kiếm mồi trong bốn tư thế
khác nhau, xen giữa là cành lá sen và hoa sen nhỏ. Theo tư liệu hiện vật có trong tay thì đây là
một trong những tiêu bản gốm hoa nâu thời Trần đặc sắc ở Việt Nam.
Nét mới riêng biệt và rất đáng lưu ý về gốm thời Trần là sự xuất hiện dịng gốm hoa lam.
Loại gốm này được tìm thấy khá nhiều trong các hố khai quật và phổ biến là bát, đĩa vẽ cành hoa
cúc màu nâu sắt và xanh cobalt.

Đồ gốm sứ thời Lê tìm được tại các hố khai quật có số lượng lớn, nhưng tập trung nhiều
nhất là ở khu vực ven triền sơng cổ.
Nhìn chung, gốm thời Lê – Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí
đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm tìm được từ các hố
khai quật phần nhiều là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải Dương và Bát Tràng. Tình hình này
có sự khác biệt lớn so với gốm thời Lê Sơ.
Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung tâm sản xuất gốm
lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam, gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu
đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ.
Chạm nổi trên gỗ hay đá rất phổ biến ở thời này, nghệ sĩ ta chưa có quan niệm về hình
khối, diện xa, diện gần như chúng ta hiện nay nên vật ở xa hay ở gần đều nổi cao như nhau. Hoa
văn đặc sắc nhất của thời Hậu- Lê là “văn ngọn lửa”. Văn này có trong tất cả đồ án trang trí chùa
tháp xây dựng ở thời này.
Nổi bật nhất là đồ sứ Huế. Thời vua Minh Mạng và vua Tự Đức xuất hiện những đồ sứ
tốt với hình trang trí vẽ bằng men lam, ta gọi là “men xanh Huế”. Trang trí phong cảnh Trung
Quốc, hình rồng năm móng, nước men xanh thẫm đẹp. Đồ sứ này khơng mang tính dân tộc vì
chúng được vua chúa nhà Nguyễn đặt làm ở Giang Tây để dùng trong hoàng cung.
1.2.2.6. Thời Pháp thuộc
13


Trong thời này, bọn thực dân Pháp mang đến nhiều hoa văn mới lạ mà ở nước ta chưa có.
Người thợ lại khơng có thời gian nghiên cứu, dung hồ một cách hợp lý với vốn cổ dân tộc, cho
nên mới xuất hiện những sản phẩm kỳ quái như những bàn ghế theo phong cách Lu-i 15 lại được
chạm khắc rồng, phượng, nho, sóc v.v… Những kiểu lai căng chướng mắt ấy đến cách mạng
tháng 8 năm 1945 thì chấm dứt.
Đồ án trang trí dân tộc
Đồ án cầm thú
Tứ linh
Đồ án phổ biến nhất trong nghệ thuật trang trí Việt Nam là Tứ linh. Tức là 4 con vật:

Long (rồng), Lân (hoặc Ly), Quy (rùa), Phượng (chim phượng hồng). Có nơi, Lân thay cho Ly
(tức là Long Mã). Trong Tứ Linh chỉ có Quy là con vật có thật, cịn 3 con kia là do trí tưởng
tượng của người xưa tạo nên, phần nào căn cứ trên những con vật có thật.
Rồng tượng trưng cho Đức, cho uy lực thiên nhiên. Thể hiện nhiều cách thức, tuỳ theo
trường hợp và vật trang trí. Chủ đề thường thấy trong điêu khắc của ta là “Long hàm thọ” (tức là
đồ án có hình mặt rồng ngậm chữ Thọ). Hình này thường thể hiện bằng phù điêu trang trí chái
nhà các đình chùa; “Lưỡng long tranh chầu” hay “Lưỡng long triều nguyệt” thể hiện bằng sành
trang trí trên nóc đình chùa. Nhiều bia ở Văn Miếu cũng có chạm trang trí trên trán bia hình
Lưỡng long tranh chầu.
Lân tượng trưng cho hồ bình. Thể hiện trong nghệ thuật dân gian, đầu lân là hình ảnh rất
quen thuộc được giới trẻ ưa thích trong những ngày hội vui như Tết Trung thu hay Tết Nguyên
Đán. Trong nghệ thuật trang trí, thường thể hiện con ly thay cho lân. Hình Ly (long mã) bao giờ
cũng mang cuộn giấy trên lưng gọi là “cổ đồ”. Chủ đề “Long mã phụ đồ” thường thấy trong phù
điêu trang trí các đền chùa.
Quy tượng trưng cho sự bền vững, trường thọ. Thể 4 hiện đồ án Quy thông dụng nhất
trong tượng tròn làm bệ bia hay trong quần tượng “Quy hạc” trang trí trong các bàn thờ của đền,
chùa. Tượng rùa ở chân bia tiến sĩ Văn Miếu là sự tập trung hiếm có một số lớn tượng rùa được
tạc ra trong mấy thế kỷ thời Hậu Lê. Chủ đề “Thuỷ ba” diễn tả rùa phun nước, thường được thể
hiện bằng hội hoạ hay phù điêu. Nhiều loại rùa có vẩy hình lục giác làm nền hoa văn gọi là “nền
kim quy” (rùa vàng). Hoa văn này thường dùng làm nền phù điêu cửa võng hay hương án.
Phượng tượng trưng cho sắc đẹp của phụ nữ. Thể hiện con chim thần thoại có cánh rộng,
đi dài như ngọn lửa, chân khoẻ, dáng thanh nhã và cũng như lân, chỉ xuất hiện trong thời thái
bình. Thời xưa, những vật có hình phượng là dành cho phụ nữ.
Bát vật
Ngồi 4 con vật kể trên, nghệ sĩ ta còn thêm vào 4 con vật nữa là: ngư, phúc, hạc, hổ rất
phổ biến trong nghệ thuật trang trí.
Ngư (cá chép, cá gáy) tượng trưng cho sự phồn vinh. Thể hiện rất nhiều hình dáng phong
phú và đẹp. Chủ đề: “Cá hoá rồng” theo truyền thuyết, cá không phải ở luôn kiếp cá, gặp cơ hội
nó vượt qua “long mơn” hay “vũ mơn” thì được hoá ra con rồng, phù hợp cho những người nuôi
mộng lớn.

Phúc, con dơi, tượng trưng cho sự tốt lành, may mắn, vì chữ Phúc gần giống như chữ
Bức là con dơi. Thể hiện hình con dơi xoè cánh là mẫu trang trí lý tưởng cho cửa võng, khải
hồn mơn, hương án… Người ta ít thể hiện một con dơi đơn độc mà thường bố cục 5 con dơi gọi
là Ngũ phúc. Tức là: phúc, thọ, khang ninh, háo đức, khảo chung mạng (nghĩa là: giàu có, sống
14


lâu, yên lành, có sức khoẻ, có đức hạnh, chết già). Về mặt mỹ thuật, hình ngũ phúc dễ bố cục
trang trí.
Hạc tượng trưng cho sự trường thọ, sống lâu. Thể hiện: bằng tượng tròn (thường đúc
bằng đồng) trên đầu đội hoặc mỏ ngậm cái đế để cắm nến đặt trên bàn thờ của đình chùa.
Hổ tượng trưng cho sức mạnh của thế gian. Thể hiện: hình ảnh hổ là hình ảnh khủng
khiếp, nhân dân gắn cho nó một sức mạnh thiêng liêng. Hình hổ gắn ở ngưỡng cửa thì tà ma
không dám vào nhà. Nghệ nhân ta biết tận dụng màu sắc và vết vằn của lông hổ cách điệu thành
những hình trang trí rất đẹp.
Ngồi Bát vật, cịn một số con vật khác gắn bó với đời sống con người như voi, ngựa, gà,
lợn, mèo… cũng thường thấy ở tường hoa phía trước đình, chùa hay trong tranh dân gian.
Đồ án hoa, quả, vật dụng
Ngoài đồ án cầm thú, ơng cha ta cịn tận dụng thảo mộc, hoa quả hay vật thường dùng để
làm đồ án trang trí. Mỗi vật đều có ý nghĩa tượng trưng của nó. Những đồ án phổ biến là: Bát
bảo, Bát tiên, Tứ hữu, Tứ thời.
Bát bảo: Bát bảo đồ mang lại vận may hoàn chỉnh
Sự hiện hữu của bát bảo sẽ mang đến cho gia chủ vận may về của cải vật chất cũng như
đời sống tinh thần. Vì vậy, những gia đình theo đạo Phật thường treo tranh có hình bát bảo.
Là pháp khí của nhà Phật, mỗi vật lại có ngụ ý và tác dụng riêng. Đứng thứ nhất trong bát
bảo là vỏ ốc, mang ý nghĩa "diệu âm cát tường", nên gọi chung là bát cát tường. Tranh bát cát
tường là một trong những tranh vẽ truyền thống được sử dụng nhiều nhất ở chùa chiền, cung
điện. Hình vẽ kết hợp của 8 biểu tượng quan trọng trong phong thủy còn được goi là Bát bảo đồ,
được ứng dụng rộng rãi. Sự kết hợp này sẽ tạo nên sức mạnh chống lại tất cả các vận rủi, trong
đó có cả vận rủi về tình u và hơn nhân.

Là một cơng cụ phong thủy, tranh treo tường hình bát bảo có thể hố giải tình trạng
phong thủy xấu do các cửa nhà bạn ở vào vị trí thẳng hàng, tranh bát bửu có tác dụng như một
bức màn cửa, làm giảm tốc độ của sát khí và đưa đến những điều may mắn.
Bát vật: Tám vật quý tượng trưng cho sự phong lưu và học thức. Tám vật đó là:
1. Bầu trói: quả bầu có eo ở giữa, dùng đựng rượu. Bầu rượu và túi thơ là 2 vật tiêu biểu cho sự
phong nhã của thời phong kiến.
2. Tháp bút: tượng trưng cho người trí thức
3. Quạt vả: cây quạt hình lá vả, tượng trưng cho phong cách thần tiên.
4. Ống tiêu: và cây đàn tỳ bà là vật tiêu biểu cho người tài tử.
5. Giỏ hoa: tượng trưng cho tính quý phái, đài trang
6. Cây kiếm: tượng trưng cho dũng khí
7. Cái khánh: tượng trưng cho người đạo đức
8. Phất trần: tượng trưng cho người thanh cao, thoát tục.
Bát quả: 8 quả thường dùng để trang trí là: đào, lựu, mận, lê, phật thủ, nho, bầu, bí. Có
khi các thứ quả này đi chung có khi chỉ chọn một số quả phù hợp với ý nghĩa. Chẳng hạn như
đào (tượng trưng cho sự sống lâu), lựu (có nhiều hạt, tượng trưng cho đơng con nhiều cháu, thời
xưa là có phúc).
Tứ hữu: với màu sắc tươi đẹp, các thứ hoa cũng được làm đồ án trang trí. Thơng dụng
nhất là: mai, lan, cúc, trúc.
1. Mai: tượng trưng cho thiếu nữ, mai trổ đẹp nhất vào mùa xuân, hoa lan cũng vậy nên 2 loại
hoa này tượng trưng cho mùa xuân.
15


2. Cúc: nở vào mùa thu nên tượng trưng cho mùa thu. Đồng thời, hoa cúc còn tượng trưng cho
người cao sĩ vì xưa có câu: “ Cúc ngạo hàn sương” để nói người cao sĩ giữ tiết tháo, bất chấp
cảnh ngộ như thế nào.
3. Trúc: có cành ngay thẳng, mùa đông không rụng lá. Đốt trúc gọi là “ tiết” mà “tiết” cũng có
nghĩa là khí tiết, cho nên người xưa dành trúc tượng trưng cho người quân tử.
4. Tứ thời: người ta lấy sen thay cho lan, lấy tùng thay cho trúc. Mai – mùa xuân; liên (sen) mùa hạ; cúc - mùa thu; trúc (tùng) - mùa đông. Lấy 4 loại cây tượng trưng cho 4 mùa là một ý tứ

đầy thi vị. Tứ thời là một đề tài rất thông dụng. Nghệ sĩ ta vẫn thể hiện theo tình cảm của mình
một cách nhẹ nhàng, bay bướm trong khuôn khổ nhất định của vật được trang trí.
Đồ án hình người
Trong thời Lý – Trần, mỹ thuật ta còn chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, xuyên qua
nghệ thuật Chăm-pa, hình người thường thấy trong đồ án trang trí.
Trong thời Hậu Lê: Nho giáo trở nên thịnh hành, hình người lúc này thường là lễ sinh,
quan văn ăn mặc theo kiểu phương Bắc.
Tóm lại, nghệ thuật trang trí cổ truyền Việt Nam căn bản là điêu khắc và mơn chạm gỗ là
thong dụng nhất. Có thể nói, khơng có một đình chùa nào khơng có điêu khắc trang trí.
1.2.2.5. Sự kế thừa vốn trang trí cổ trong trang trí hiện đại
Trong lịch sử mỹ thuật dân tộc, nền mỹ thuật dân gian Việt Nam mang một dấu ấn riêng
và đã được ghi nhận như một bước phát triển quan trọng của ngơn ngữ tạo hình dân gian với
tiếng nói hiện thực và quan điểm nhân văn của nó.
Biến động lịch sử trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII đã cho tranh tượng dân gian một sắc
thái mới, một lý tưởng thẩm mỹ mới mà đặc tính là dân tộc và hiện đại. Trước những nhu cầu xã
hội – tâm lý – thẩm mỹ của thời kì ấy, nền nghệ thuật tạo hình dân gian đã thành cơng trong việc
giải quyết một số vấn đề then chốt, những vấn đề mà chính chúng ta ngày nay đang loay hoay cố
giải quyết cho thời đại của chúng ta.
Sự xuất hiện một ngơn ngữ tạo hình, với hình tượng những con người hiện thực làm
những việc trong đời sống hiện thực, với một nội dung xã hội của thời đại ấy là một sáng tạo lớn
trong lịch sử Mỹ thuật Việt Nam thời phong kiến.
Đặc điểm dễ thấy ngay của nghệ thuật tạo hình dân gian là chất hồn nhiên, ngộ nghĩnh.
Vì thế, khi khai thác vốn cổ tạo hình dân tộc trong học tập, nghiên cứu và sáng tác, đa số những
người tạo hình chúng ta có xu hướng bị ảnh hưởng vào các đặc điểm ngoại hình của hình thể một
cách cảm tính, ít quan tâm đến q trình phát triển lý tính của nghệ thuật. Phải chăng, chính vì
q say sưa với những đặc điểm ngoại hình của nghệ thuật tạo hình dân gian cổ truyền mà chưa
kịp nắm bắt được cái thần của cha ông trong sáng tác, chúng ta đã vội bắt cái hồn nhiên, cái ngộ
nghĩnh dân gian phục vụ ngay cho sáng tác thời nay một cách dễ dãi, cẩu thả? Cũng như thế,
phải chăng vì một lý do tương tự mà người ta dễ bắt ngay vào thị hiếu thẩm mỹ và các trào lưu
nghệ thuật ở phương Tây, khi chưa kịp tìm hiểu các quan điểm, các hình thái tư duy làm nền

tảng cho thị hiếu ấy, cho những trào lưu ấy?
Nói đến sự khai thác và phát triển truyền thống dân tộc trong tạo hình, trước hết là đi
tìm cái thần, cái hồn của cha ông trong sáng tác. Cái thần ở đây là sự bao trùm, là tổng hòa của
những quan niệm, những quan điểm, thái độ, nếp nghĩ và cách nhìn của cả một lớp người, trong
cả một thời, trước xã hội, trước cộng đồng, trước thiên nhiên, trước cái đẹp… Cho nên, nếu vội
vàng ép cái hồn nhiên, cái ngộ nghĩnh dân gian vào các nhân vật trong tranh thời nay, trong
nhiều trường hợp là biến các nhân vật đó thành những hình nộm vơ hồn. Đã là hình nộm vơ hồn
16


thì khơng tiêu biểu cho bất cứ tầng lớp nào trong xã hội, ở bất cứ thời điểm nào của lịch sử, càng
khơng thể là hình mẫu của con người mới thời nay.
Khai thác truyền thống dân tộc, làm sống lại nghệ thuật tạo hình dân gian khơng đơn
thuần là làm việc phục chế vốn cổ tương tự như cái hình thể bên ngồi, mà chính là phải bắt
nguồn từ những cảm thức nghệ thuật tinh tế, sâu sắc được đúc rút từ quan niệm, quan điểm,
phương châm xử thế hợp tình, hợp lý " thuận mắt ta, ra mắt người" của cha ông ta xưa trước
hiện thực cuộc sống. Vì lẽ đó, chúng ta cũng khơng nên có quan niệm cho rằng: tranh, tượng dân
gian chỉ là bản năng. Nhát đục, nét vẽ của các cụ xưa vốn cũng rất hoạt, bởi lẽ: năng động, lạc
quan, yêu đời, dí dỏm, mộc mạc, chân chất là bản tính của người dân, nhưng khơng vì thế mà
khơng xuất phát từ một cơ sở thẩm mỹ có tầm khái quát lớn. Những tác phẩm điêu khắc dân
gian, tranh dân gian Việt Nam là những minh chứng cho thành tựu rực rỡ của nền mỹ thuật cổ
truyền nhưng không kém phần hiện đại và bác học về tầm tư tưởng và quan niệm thẩm mỹ của
cha ơng chúng ta.
Tính minh triết trong tranh dân gian Đông Hồ chia ra nhiều mảng chúc tụng và thờ cúng ở
mỗi thể loại các nghệ nhân đi sâu khắc hoạ những nét tiêu biểu, tinh thần sinh hoạt và đời sống
tâm linh của người dân làng Hồ; những bức tranh như Đàn lợn, một bức tranh thuộc về mảng
chúc tụng, vào những ngày tết người dân lạc việt mua về để dán vào những ngôi nhà làm vui nhà
vui của. Nghệ nhân đã khéo khắc hoạ hình tượng đàn lợn to béo ủn nũng, sự nhấn và tạo tạc trên
hình thể các con lợn, hình tựơng vịng xoáy âm dương khắc hoạ ý đồ minh triết rất cụ thể qua tác
phấm “ chính vịng âm dương và hình tượng con lợn đã chứng tỏ một nội dung liên quan chặt

chẽ đến thuyết âm dương ngũ hành. Sự sắp xếp các con lợn quay quần bên nhau, giữa đàn lợn
con và lợn mẹ hoà nhịp vào nhau thể hiện sự sinh sôi nảy nở, tạo ra một bố cục chặt chẽ. Sự phân
chia mảng lớn và mảng nhỏ, cách bố trí các mảng màu “ trong như xanh tự nhiên –chàm –vàng
hoa hiên, đỏ -son trắng -điệp, đen –tro than, nâu -củ nâu “ phối hợp vào nhau tạo ra gam màu “
tươi sáng nội dung vui vẻ, ngộ nghĩnh, đơn giản hoá các khái niệm của triết học và tinh thần“
thông qua bức tranh đàn lợn đã thể hiện được quan niệm triết lí của người việt cổ, họ biết khái
qt cơ động các hình tượng của đời sống những con vật để thể hiện tính khát vọng cầu mong
cho cuộc sống của họ. “Không những thế tranh đàn lợn cịn chứng tỏ ngun lí trong sự vận
động của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành “.
Khi khai thác và phát triển vốn cổ tạo hình dân tộc trong học tập và sáng tác mỹ thuật đối
với các nghệ sĩ tạo hình nói chung, sinh viên mỹ thuật nói riêng địi hỏi sự nghiên cứu nghiêm
túc, thấu đáo. Chúng ta cần phải hiểu đến nơi đến chốn những tư tưởng, quan niệm, cách nhìn khi
phản ánh hiện thực cũng như tư duy tạo hình và quan niệm thẩm mỹ của cha ông ta xưa mới thấy
hết giá trị đích thực của nền mỹ thuật dân gian để có thể kế thừa và phát triển trong thời đại ngày
nay một cách có hiệu quả.
Chúng ta có thể bàn đến một khái niệm "Không gian" của tranh tượng dân gian chẳng
hạn. Nổi bật lên ở đây là cách nhìn ước lệ, khái quát, bất chấp quy luật thị giác thông thường,
khác hẳn nhận thức vật lý chật chội. Nếu ta mở rộng thêm nghĩa của khơng gian thì có thể nói
rằng, khơng gian trong tranh tượng dân gian còn mang nội dung xã hội, nội dung triết học nữa.
Đó là một khơng gian tạo hình khơng chấp nhận những công thức thị giác thông thường, được
mở ra mọi chiều, mọi hướng để chứa đựng một không gian xã hội - tư tưởng. Mặt khác, nếu
nghệ thuật là một hệ thống tín hiệu thì nghệ thuật tạo hình dân gian có hàm lượng thơng tin rất
lớn. Những nụ cười châm biếm vừa sắc sảo vừa tế nhị như những tin phóng sự đi sâu vào tâm
tình của những người lao động...
17


Trong không gian chật hẹp của thôn xã Việt Nam xưa kia, ơng cha ta chỉ cịn một hướng
hành động duy nhất: nhìn thẳng vào cuộc sống hiện thực thấm đẫm nước mắt và mồ hơi. Do đó,
họ đã phát hiện ra một phương tiện mới- một tiếng nói tạo hình mới, khác hẳn tiếng nói tạo hình

của cung đình và tơn giáo. Đó là chất hiện thực và hiện đại hiện rõ trên điêu khắc đình làng, trên
các dịng tranh dân gian quen thuộc.
Như vậy, yếu tố có thể khai thác của nền nghệ thuật tạo hình dân gian truyền thống Việt
Nam để xây dựng tiếng nói tạo hình của thời đại chúng ta, đối với những người học tập và sáng
tác mỹ thuật không phải là một ngoại hình ngộ nghĩnh hay ngây thơ, một khơng gian đơn giản,
ước lệ nào đó mà là một thái độ, một quan niệm mới về không gian, cả không gian tạo hình lẫn
khơng gian xã hội - nhân văn. Tìm hiểu để khai thác nền nghệ thuật tạo hình dân gian truyền
thống cịn biết bao vấn đề, biết bao khía cạnh, có thể rất lý thú và bổ ích mà chúng ta chưa kịp
lưu ý đến. Điều đó cũng khơng có nghĩa: nền nghệ thuật ấy là một cái kho bị bỏ quên mà chúng
ta có thể tuỳ hứng nhặt nhạnh trong đó một vài chất liệu để nhằm phục vụ kịp thời hay lâu dài
một ý tưởng nào đó của những người cùng thời với mình. Những nghệ sĩ tạo hình Việt Nam,
những sinh viên đang học mỹ thuật ngày nay cần phải tìm cho mình chất liệu trong cuộc sống
thời nay và biết khai thác, phát huy những bài học của nền nghệ thuật tạo hình dân gian truyền
thống một cách nghiêm túc, sáng tạo với một thái độ trân trọng chứ không phải sự phục chế hay
nệ cổ một cách dễ dãi, ngây ngô và hời hợt.
Tranh dân gian
Có 2 dịng tranh dân gian tiêu biểu và nổi bật nhất trong vốn cổ dân tộc ta, đó là dịng
tranh dân gian Đơng Hồ và dịng tranh dân gian Hàng Trống.
Tranh Đồng Hồ phổ biến nhất là tranh chúc tụng, tranh thờ, tranh sinh hoạt, tranh khôi
hài, tranh châm biếm, tranh phong cảnh và trang trí, tranh lịch sử, tranh truyền thuyết rút ra trong
truyện thơ lưu truyền từ xưa trong nhân dân. Tất cả những loại tranh này đều được bán ra trong
dịp Tết Nguyên đán. Tranh Đồng Hồ với kỹ thuật in nhiều bản, tuy không được đánh giá cao như
một tác phẩm hội hoạ độc bản, song từ lâu đã nổi tiếng bởi một vẻ đẹp riêng, độc đáo phù hợp
với thẩm mỹ và tâm thức người Việt. Bao gồm các khâu: vẽ mẫu, khắc ván, in tranh. Dù đã có
trên dưới 500 năm tồn tại và phát triển nhưng những nguyên tắc về kỹ thuật khắc ván, in tranh
vẫn được người Đông Hồ bảo lưu, giữ gìn.
Tranh Đơng Hồ: màu dùng để in tranh điệp gọi là thuốc cái, hoàn toàn được chế biến từ
nguyên liệu và thảo mộc trong tự nhiên. Ví dụ như than lá tre, lá chàm, hoa hoè, hoa hiên, son,
điệp, gỗ cây vang... Vì là những màu tự nhiên nên khi in có chất chắc đanh, nhưng lại mềm xốp,
khơng bị phai màu. Chất điệp óng ánh làm cho màu trong và sâu, khiến những màu nguyên chất

trở thành những màu qúi giá.
Tranh Hàng Trống chủ yếu là tranh thờ dùng trong sinh hoạt tín ngưỡng phục vụ đền
phủ của Đạo giáo nhất là tranh thờ của Đạo Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh) như tranh Tứ Phủ cộng đồng,
Bà chúa thượng ngàn, Mẫu Thoải, Ngũ Hổ, Ơng Hồng cưỡi cá, cưỡi ngựa, cưỡi rắn, Ơng Hồng
Mười, Bà Chúa Ba, Đức Thánh Trần... rất đẹp . Loại tranh này thường được các cụ chạm bằng
vàng hay bạc thật dát mỏng. Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ q... Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ
thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình, cịn màu là thuốc nước, tơ bằng bút lơng mềm
rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, cịn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ
thuật vờn màu.
Hoạ tiết, hoa văn, chữ của tranh
18


Hoạ tiết, hình ảnh trong tranh dân gian thường là những con vật, gia súc, vật nuôi, cây cỏ
quen thuộc trong đời sống như gà, lợn, trâu, cá chép, rùa, cây dáy, cây tre, hoa sen, hoa mai,
hoa cúc, cây trúc, cây tùng…
Con hổ tượng trưng cho sức mạnh và sự thiêng liêng trong tín ngưỡng Việt cổ. Gà trống
là con vật tương ứng với tháng giêng và ngày mồng một đầu tháng, tiếng gà gáy sớm không chỉ
là báo hiệu một ngày mới đã đến mà còn ẩn chứa sắc thái tín ngưỡng, tiếng gà xua đi bóng đêm
và đón nhận ánh sáng mặt trời.
Cách kết hợp các mơ-típ người, vật, hoa cỏ và chữ Hán thường mang ý nghĩa ẩn dụ,
tượng trưng, phản ánh quan niệm của người phương Đơng. Đó là mối quan hệ tồn tại giữa con
người và tự nhiên trong một thể thống nhất.
Chữ trên tranh có thể là câu thơ, câu đối, lời chúc tụng hay chỉ là câu nói thường ngày
nhưng ý nghĩa lại rất rộng và sâu xa. Chữ trên tranh không chỉ có tác dụng làm rõ thêm ý nghĩa,
nội dung mà cịn đóng vai trị quan trọng trong việc sắp xếp bố cục tranh sao cho cân đối, chặt
chẽ.
C) TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Phạm Thị Chỉnh (2005), Lịch sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb ĐHSP.
2. Tạ Phương Thảo (2005), Giáo trình Trang trí, Nxb ĐHSP.

3. Thái Bá Vân, Chu Quang Trứ (1980), Tranh dân gian Việt Nam, NXB Văn hóa.
4. Phạm Quang Vinh và nhóm tác giả (2000) Nghệ thuật Việt Nam, NXB Kim Đồng.
5. Viện Nghệ thuật - Bộ văn hóa (1975), Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam (qua các bản rập).
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG
- Sinh viên nghiên cứu, sưu tầm và vẽ lại hoa văn thời Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gị Mun và
Đơng Sơn.
- Sinh viên chép lại 02 đồ án hình người, tiên, quái vật trong chạm khắc thời Lý -Trần
- Sưu tầm các đồ án Tứ linh, Bát quả, Tứ thời.
- Viết bài so sánh 02 dịng tranh dân gian Đơng Hồ và Hàng Trống có những đặc điểm gì giống
và khác nhau về nguồn gốc, hoạ tiết, màu sắc, đề tài, kỹ thuật làm tranh…

19


CHƯƠNG 2
Phương pháp nghiên cứu vốn cổ
Số tiết: 12 (Lí thuyết: 6 tiết; Kiểm tra: 2; Thực hành: 4 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Có hiểu biết và phương pháp nghiên cứu họa tiết trong chạm khắc đơn giản, phức tạp,
tượng tròn và phù điêu cổ.
+ Nét độc đáo, phong phú của vốn cổ dân tộc, tính dân tộc và tâm hồn người Việt Nam.
- Kỹ năng:
+ Ghi chép được một số họa tiết đẹp trong vốn cổ dân tộc theo yêu cầu của giảng viên.
- Thái độ:
+ Yêu mến và biết giữ gìn di sản văn hóa dân tộc.
B) NỘI DUNG
2.1. Nghiên cứu họa tiết chạm khắc đơn giản
Ngôi đình làng là địa điểm diễn ra nhiều hoạt động quan trọng của làng xã trong thời
trung cận đại. Đây là nơi thờ Thành hoàng Làng để cầu mong được chở che, ngăn tai giáng phúc,

là nơi diễn ra lễ hội Nhập tịch Tàng câu của làng, nơi kỳ lão chức sắc hội họp bàn bạc và giải
quyết việc làng, nơi tất cả đinh nam trong làng cùng thực hiện lễ Hương ẩm tửu mỗi khi có việc
tế tự cầu cúng. Nơi tiếp đón quan lại triều đình khi có việc công hoặc khách khứa của làng…
Điều này cho thấy ngơi đình làng là một địa điểm cơng cộng quan trọng không thể thiếu của
cộng đồng làng xã xưa kia.
Trước khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, các tín ngưỡng dân gian đã ngự trị trong đời
sống tinh thần người Việt. Để chấn an mình trước những hiện tượng tự nhiên không thể lý giải,
để được che chở, để có cuộc sống bình n, người Việt cổ từ lâu đời đã thờ cúng các vị Nhiên
thần như các thần núi sông, cây đá, đặc biệt, do là vùng đất nhiều sông nước, người dân sống
bám dọc theo các triền sông nên thủy thần là vị thần được thờ phụng khắp nơi. Việc thờ cúng
ban đầu diễn ra ngoài trời, ngay tại gốc cây, bờ nước, về sau khuynh hướng nhân hóa thần linh
phát triển, người chết có những biểu hiện thiêng bắt đầu được thờ cúng, nhiều vị đã trở thành
phúc thần bảo hộ cho cộng đồng, người ta đã dựng lên những ngôi miếu, ngôi đền nhỏ để thờ.
Dần dần những nơi này trở thành địa điểm sinh hoạt cộng đồng, không chỉ cầu cúng xin được
chở che, đừng gây tai giáng họa mà các hoạt động khác trong cộng đồng như xử lý các vi phạm
luật lệ của cộng đồng, ăn thề, xử các vụ tranh chấp nhỏ… cũng diễn ra tại đây trước sự chứng
kiến của thần linh và dân làng.
Sau khi Phật giáo du nhập và phát triển, các ngôi chùa cũng là nơi diễn ra một số hoạt
động cộng đồng. Kể cả thời kỳ đầu, khi ngôi chùa làng chưa phổ biến như từ thời Trung hưng về
sau, thời kỳ này, tại những địa phương có chùa, sân chùa cũng là một địa điểm dành cho hoạt
động cộng đồng, nhưng chủ yếu là lễ hội vui chơi hát xướng vào các dịp lễ tiết. Cho đến nay ở
những ngôi chùa cổ vùng Kinh Bắc vẫn còn dấu vết về các hoạt động này như chùa Dâu, chùa
Nành...
Vào đầu công nguyên, khi bị nhà Hán xâm lược, văn hóa Hán dần xâm nhập vào nước ta,
tín ngưỡng thờ Xã thần du nhập theo chân các cư dân Hán. Các đàn thờ xã thần (xã đàn) được
lập lên tại các làng xóm. Xã ban đầu chỉ là một cái nền đất đắp cao, xung quanh trồng một số
loài cây làm biểu tượng cho sự no đủ. Hàng năm vào các tháng trọng xuân và trọng thu, người ta
tổ chức cúng tế tại đây để báo đáp công sinh dưỡng vạn vật của đất đai. Về sau, tín ngưỡng xã
20



thần diễn biến dần, chuyển hóa thành tín ngưỡng thờ thần đất (thần thổ địa) – vị thần có quyền
lực chở che coi sóc cho một địa phương, mang nhiều chức năng xã hội hơn. Dần dần, miếu thờ
Thổ địa được dựng lên thay thế Xã đàn. Cùng với những miếu thờ thần linh bản địa khác, miếu
Thổ địa trở thành một trong những địa điểm sinh hoạt cộng đồng của làng. Vào các dịp lễ tết,
dân chúng tụ tập đến trước những đền miếu này làm lễ tế thần, ca hát vui chơi.
Đầu thế kỷ XV, tục thờ Thành hoàng làng cũng bắt đầu phát triển. Trên thực tế, tín
ngưỡng Thành hồng đã được truyền đến nước ta vào thời Đường - Tống, tuy nhiên cho đến thế
kỷ XIV, vẫn chỉ có Đơ thành hồng, chưa có Thành hồng làng. Để tín ngưỡng Thành hồng trở
thành tục thờ Thành hồng làng đậm màu sắc Việt thì phải tính từ thế kỷ XV sau khi nhà Minh
chiếm được nước ta. Một số chính sách về thờ cúng tế tự được ban hành, trong đó mệnh lệnh lập
thêm Thành hồng ở các phủ châu huyện được thực thi, kể từ đó tín ngưỡng Thành hồng phát
triển mạnh ở nước ta và đây chính là thời kỳ Thổ địa và Phúc thần địa phương được nâng cấp
thành Thành hoàng làng.
Vậy là cho đến trước khi có dấu vết tồn tại của ngơi đình (cuối thế kỷ XV), lễ Nhập tịch
Tàng câu, tục thờ Thành hoàng và các sinh hoạt cộng đồng khác của người Việt như xử lý việc
làng, bao gồm xử các tranh chấp kiện cáo nhỏ trong làng, các hành vi vi phạm lệ làng, giải quyết
các vấn đề về thuế má quan dịch. Cả việc tập họp dân làng để nghe các lệnh lệ của triều đình đều
đã tồn tại và được thực hiện từ lâu đời tại các địa điểm công cộng của làng như các đền miếu thờ
thần linh, thổ địa và sân chùa, trên thực tế, nhu cầu về một địa điểm dành cho tất cả các hoạt
động này khơng đến mức buộc phải có. Vậy điều gì thúc đẩy sự xuất hiện của ngơi đình làng?
Mơ hình Thân minh đình thời thuộc Minh và Lê sơ. Ở lễ hội này, người ta tế thần, chúc
tụng, vui chơi, hát xướng, yến hưởng… Hầu hết các hoạt động vốn có trong cộng đồng thường
được thực hiện ở đền miếu trước khi có sự xuất hiện của ngơi đình thì vào cuối thế kỷ XV đã
được diễn ra tại đình làng. Điều đó có nghĩa là trước thời Lê chưa thấy sự xuất hiện của ngơi
đình, nhưng chỉ sau vài chục năm, ngơi đình đã hiện diện tại hầu khắp các làng xã và mang trong
nó rất nhiều chức năng xã hội quan trọng. Điều này cho phép suy luận, có thể đình làng được
diễn biến từ một hiện tượng văn hóa hoặc được ra đời theo một mệnh lệnh nào đó ở thời kỳ này.
Kiến trúc ngơi đình thế kỷ XVI khá giản đơn, chỉ có một tịa nhà ba gian hai chái với sân
đình phía trước và trước sân có giếng, chưa có hậu cung, cũng chưa có tịa tiền tế để cúng thờ

Thành hồng. Rõ ràng là ngơi đình thế kỷ 16 được dựng lên chưa có chức năng thờ Thành
hồng, bởi thần đã có miếu để thờ, điều đó cũng có nghĩa là ở thời Mạc ngơi đình chưa mang
chức năng tơn giáo. Thực tế ngơi đình ở thời kỳ mới xuất hiện (thế kỷ XV - XVI) chỉ dùng làm
nơi thực hiện lễ Kỳ phúc hàng năm và để tổ chức lễ hội, đồng thời, việc phân ngôi thứ để thụ lộc
và hội họp đã xuất hiện ở đình Làng từ thời kỳ này.
Khi chỉ mang những chức năng hành chính, ngơi Thân minh đình đương nhiên chỉ được
làm đơn giản, điều này lý giải về kiến trúc đơn giản của ngơi đình thời Mạc. Nhiều văn bia cũng
cho biết, trước khi dựng ngơi đình kiên cố, ngơi đình cũ chỉ bằng tranh tre nứa lá. Đồng thời lễ
Kỳ phúc cũng như việc phân ngôi thứ để thụ lộc và hội họp ở ngơi đình thời Mạc đều hồn tồn
khớp với những gì diễn ra tại Thân minh đình với lễ Hương ẩm tửu thời thuộc Minh và Lê sơ.
Do mỗi lần có việc, cả làng tụ họp rất đơng, vì vậy Thân minh đình thường được dựng
lên ở những nơi rộng rãi và thuận tiện qua lại. Về sau để lấy bóng mát, người ta cho trồng các
loại cây lớn như cây đa, cây muỗm, sau nhiều năm tháng, cây đa dần trở thành một bộ phận gắn
bó với ngơi đình. Khi Thân minh đình đã trở thành một địa điểm quen thuộc của làng, dần dần để
tiện gọi, Thân minh đình chỉ cịn được gọi ngắn gọn là “đình”.
21


Về sau mỗi khi làng vào đám (Nhập tịch Tàng câu), người ta rước Thành hoàng làng đến
đây làm lễ tế, rồi nhiều làng để thuận tiện cho việc cúng tế, để ngơi đình trở nên uy nghiêm hơn
đã cho nhập hẳn miếu Thành hồng vào đình, mở thêm phần hậu cung làm chỗ thờ thần. Như
vậy qua nhiều diễn biến của phong tục, tập qn, ngơi đình làng mới dần mang thêm chức năng
tôn giáo.
Vào thế kỷ XVII - XVIII, cùng với sự phát triển mạnh của kinh tế văn hóa, tại hầu khắp
các làng xã, người ta đua nhau xây dựng đình làng với kiến trúc to lớn vững chãi. Kể từ giai
đoạn này, ngơi đình làng mới thực sự hoàn thiện cả về kiến trúc cũng như các chức năng xã hội
của nó, trở thành một biểu tượng văn hóa đặc sắc của làng xã Việt Nam.
Trong các đình của người Việt, ta biết rằng đình chắc chắn đã có từ thế kỷ 15. Về vật
chất của đình Làng, niên đại sớm nhất ta mới tìm thấy từ năm 1531, đó mới chỉ là niên đại trùng
tu ở đình Thụy Phiêu (Ba Vì), và sau đó là các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh…

Các đình đã dính đến thờ thần thành hồng Làng thì dần dần người ta lấy cái đó là yếu tố
tín ngưỡng thờ cúng rất cao. Từ đó, kiến trúc đình mang tư cách ba tầng của vũ trụ. Ví dụ, tầng
mái gắn với tầng trời, tầng giữa là tầng người và thần linh quan hệ và tầng dưới là tầng đất. Ngơi
đình Làng là sản phẩm thuần khiết gắn với văn hoá làng, hội tụ biểu tượng cao độ về đời sống
vật chất và tinh thần của Làng. Giá trị của nó nằm ở thành tựu kiến trúc và điêu khắc trang trí cổ
Việt Nam, ở đó đã kế thừa và phát triển cao, độc đáo nghệ thuật điêu khắc truyền thống của
người Việt.
Những ngơi đình Làng này, tuỳ theo từng thời đại mà mức độ chạm khắc có khác nhau
kỹ thuật khi chạm nông, lúc chạm nổi, chạm kênh, chạm bong, chạm lộng... nhưng tất cả đều đã
thể hiện tài nghệ của các nghệ nhân xưa vừa giỏi kiến trúc vừa tài hoa chạm khắc.
Tầng mái gắn với tầng trời, ngói và linh vật gắn với tầng trời. Đơi rồng chầu có 5 tóc đều
có nghĩa: 5 là sấm chớp đánh về 5 phương Đơng, Tây, Nam, Bắc và trung phương), có ước vọng
nhờ vũ ở trong này đem hạnh phúc về với trần gian sức mạnh. Tất cả mọi thứ đều xoay quanh cái
âm dương đối đãi. Rồng biểu hiện cho mưa, mưa là tinh dịch của trời trao cho đất, cho mn lồi
sinh sơi. Ở thế kỷ thứ 17, có rất nhiều hình điêu khắc con vật nhỏ leo trèo trên con rồng, vì con
rồng là mưa, con vật leo trèo biểu hiện ước vọng phồn thực.
Con lân là con vật đứng kiểm soát tâm hồn của kẻ hành hương bởi nó cũng là con vật linh
ở trên trời, là hiện thân của trí tuệ, hiện thân của sức mạnh thần linh. Cửa giữa là lối của thần đi,
có đường linh thường đặt bằng đá, còn hai bên là lối đi của người dân.
Ngói lợp đình thường là loại ngói ở đầu mũ có nổi lên hình chữ U, có các vạch chạy
xuống là tia sáng tượng trưng cho các vị tinh tú.
Kiến trúc thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17 thường là các đầu rồng quay vào gian giữa, còn các
thời khác là quay ra. Hình tượng rồng thời Mạc thường có đao dài, mảnh đè cả lên trên thân. Các
di tích sau này khi tu bổ đã thường bỏ qua.
Đình cũng có chức năng gắn với triều đình là cơ bản. Ở đây nó cũng chia ra thành tầng
trời. Ở các đầu các then nó thường hay có các tượng, có khi tượng có cánh, các xà đai nối ở các
đầu các cột quân và đầu cột cái, trên các xà có các ván gió. Trong những ván gió ấy có các tượng
có các then chạy ra đứng ở đấu ba chạc, trên then đó được tạc một tượng tròn của thiên thần. Vậy
ở trên những xà đai này (của cột cái và của cột quân) nó tượng trưng cho tầng trời.
Thời Mạc và kiến trúc đầu thế kỷ 17, thường có vân xoắn và những đao bay ra. Các vân

xoắn hội lại tạo thành nguồn phát sáng, các đao bay ra là các tia sáng. Ở đây còn có rất nhiều
hình tượng mang ý nghĩa dân gian.
22


Hoạt cảnh, hình thức là tiên cưỡi rồng, nhưng chính thực nó là vũ nữ thiên thần đang múa
trong mây, có lân mỏ chim, hình cá hóa long, rồng cá (đình Thổ Hà, đây là hình cá hóa long có
niên đại sớm nhất nước ta).
Tính mộc mạc, gần gũi chính là lý do để ngơi đình Làng gắn bó với tâm hồn người Việt.
Các phù điêu và chạm khắc trang trí đình Làng là biểu tượng độc nhất vơ nhị về truyền thống
nghệ thuật của ông cha ta. Một sáng tạo độc đáo của nghệ thuật đình Làng khơng thể thấy ở kiến
trúc cổ nào của Việt Nam là sự sắp xếp các phù điêu gắn vào khung gỗ chịu lực phía trên của
đình. Phía trên các vì kèo và các xà ngang là (nơi gắn với tầng trời) điêu khắc đình Làng ngự trị.
Nó gắn kết các cấu kiện gỗ ngang, dọc và chéo theo mái, lấp đầy các khoảng trống giữa các cấu
kiện. Sự kết hợp tôn trọng và bổ sung cho kết cấu kiến trúc gỗ là đặc điểm thứ nhất của điêu
khắc đình Làng. Và các bức phù điêu được chạm khắc một cách mạnh mẽ, đơn giản với quan
niệm không gian thoải mái khác hẳn so với điêu khắc nơi chùa chiền hay cung điện.
Chạm lộng có sự kế thừa và phát triển, là đỉnh cao của điêu khắc trang trí đình Làng. Nhờ
những sáng tạo của các nghệ nhân, chạm lộng đã tiến một bước tiến tạo nên sự độc đáo. Chạm
lộng là hình thức nghệ thuật mang tính kế thừa nghệ thuật điêu khắc truyền thống, sự phát triển
ngày càng nhiều đình Làng với quy mô ngày càng lớn đã đánh thức tiềm năng sáng tạo của
những nghệ nhân dân gian trong việc đào luyện thể hiện tác phẩm tạo nên những hiệu quả thẩm
mỹ mới, cảm thụ cao hơn trong không gian kiến trúc trang trí. Bởi vậy, điêu khắc chạm lộng
chính là sự sáng tạo trong quá trình lao động nghệ thuật cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao của
xã hội đương thời. Các phù điêu được đẩy lên cao dành không gian cho sinh hoạt, ánh sáng tự
nhiên hắt mạnh từ nhiều phía. Từ những mảng chạm nơng chuyển dần sang chạm bong, kênh với
kỹ thuật chạm sâu vào bên trong khối gỗ, tạo thành nhiều lớp không gian mà dường như khơng
cịn khái niệm về nền. Đó là bước tiến của chạm khắc truyền thống với những ưu thế: tạo chiều
sâu không gian, hiệu quả tương phản sáng tối, có thể đục một, hai tầng tạo nên sự uyển chuyển
sinh động, cảm giác nhẹ nhàng thanh thoát mà khơng ảnh hưởng đến kết cấu cơng trình... Kỹ

thuật chạm lộng kht sâu trong lịng thân gỗ, mảng chạm khơng còn cảm giác về nền mà uyển
chuyển trong mối quan hệ sinh động về đời sống về sinh hoạt mang đậm phong vị dân gian và
giàu tính lãng mạn. Thủ pháp không gian, thời gian đồng hiện trong chạm lộng nhằm thể hiện
nhiều hình ảnh, đề tài về cuộc sống thường ngày được coi là đặc trưng đậm nét của điêu khắc
đình làng. Cái đẹp của tự nhiên, sự mộc mạc mang tính cởi mở, chứa đựng vẻ đẹp nhân hậu của
tâm hồn khiến cho sự ''phi lý'' về tỉ lệ thơng thường lại trở nên thuận lý nhờ tính phóng khống,
mạnh mẽ mang lại cảm thụ mới mẻ chiêm nghiệm sâu lắng. Cách chạm tự nhiên thoải mái, hứng
khởi rõ ràng đã tạo được một phong cách, giàu hơi thở cuộc sống. Gắn chặt với kết cấu kiến trúc,
chạm lộng chú trọng phương pháp thể hiện khái quát chủ yếu diễn tả nội dung, tạo điểm nhấn
phóng dụ, bố cục ln ln chú ý sự liên hồn giữa các nhân vật, giữa các bộ phận các mảng
đặc, thủng được cân nhắc tạo sự hài hoà mềm mại nhưng vẫn đảm bảo sự vững chắc của bề mặt
tác phẩm.
Nghệ nhân Làng bằng cảm hứng phong phú đã tìm thấy sự biến hoá của nhát đục chạm
với những hiệu quả lớn về nghệ thuật. Trong đình Làng, hầu như tất cả các mặt gỗ trừ cột và cân
đầu, đều được đục chạm đủ dạng: Rường, xà, cốn, lá gió các thanh kẻ, bẩy, v.v… Các đầu dư
phía trên cột các đầu bẩy, đầu kẻ dưới gờ mái, ván lá gió và các cốn cũng như ván lá đề, đều là
đế gỗ rộng cho nghệ nhân thả sức tung hồnh chạm khắc.
Hình ảnh con người ở chạm khắc đình làng con người là trung tâm của nghệ thuật, đặc
biệt là người lao động luôn được khắc hoạ với dáng vẻ hồn nhiên, yêu đời. Hình chạm khắc
23


không cầu kỳ nhưng đầy vẻ đẹp và sức sống. Dáng vẻ cốt cách tâm hồn của người Việt chuyển
động, tàng ẩn trong từng nét chạm đục mạnh mẽ và tinh tế của các nghệ nhân.
Các bức chạm nối tiếp nhau đan xen khung cảnh và đề tài với cách thức biểu cảm đặc
sắc. Tất cả việc làng, chuyện làng, đời sống làng với những ước nguyện được các nghệ sĩ Làng
thể hiện tuỳ hứng. Sự không ràng buộc đã làm cho các nghệ sĩ dân gian phát huy được hứng khởi
tài năng và sáng tạo nghệ thuật. Những mảng thủng trong điêu khắc chạm lộng đã tạo nhịp điệu,
sự cân bằng về mặt thẩm mỹ trong tác phẩm.
Sự độc đáo của nghệ thuật điêu khắc trang trí đình Làng thể hiện ở tính khái quát cao

trong thủ pháp xây dựng tác phẩm: nhấn mạnh trọng tâm, chọn những vấn đề quan tâm nhất để
diễn tả, phản ánh, giản lược về hình thức.
Nội dung chủ yếu trong chạm khắc trang trí đình Làng là những đề tài ước vọng về cuộc
sống phồn thực, ca ngợi tình cảm đằm thắm của con người với con người, con người với thiên
nhiên, muông thú, như: cảnh trai gái vui đùa, tắm sen, đấu vật... Khơng chỉ riêng tình cảm của
con người mà tình cảm của con vật cũng được biểu hiện sinh động mạnh mẽ.
Con rồng trong dân gian gắn với vũ trụ, với những ước vọng của người dân. Chạm khắc
dân gian khơng thể hiện qua lời nói mà được thể hiện ở những hình chạm hoa văn về những biểu
hiện của tự nhiên, của cuộc sống và những sinh hoạt thường ngày của người dân được thể hiện
một cách rõ nét.
Nghệ nhân xưa kia đã biết tìm tịi, sáng tạo những đường nét tuy đơn giản nhưng lại sống
động và hấp dẫn. Tiêu biểu cho trang trí trên kiến trúc là đình Tây Đằng. Nét độc đáo trang trí ở
đình Tây Đằng là những bức chạm khắc trong các cấu kiện kiến trúc với những đề tài về thiên
nhiên, hoa cỏ và đặc biệt là mảng đề tài thiên về hoạt động của con người ở làng xã Việt Nam
thế kỷ 16 như: thầy đồ dạy học, mẹ gánh con, lễ hội, bơi thuyền, uống rượu... tất cả đều tự nhiên,
mộc mạc bộc lộ cá tính của tác giả và mang đậm tính chất dân tộc.
Những hình tượng rồng, phượng, hoa lá, đặc biệt là chim thú, con người được thẩm mỹ
dân gian chấp nhận để trở thành mẫu mực trang trí. Với sự phát triển mạnh mẽ thẩm mỹ dân
gian, những hình chạm thế kỷ 17, 18 đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình cổ Việt Nam.
Trong trang trí, tính chất dân dã thể hiện qua đề tài con người là sâu đậm nhất. Hầu như
trong bất kể hình thức nào tính chất đó cũng được bộc lộ rõ ràng. Và khi đi vào cuộc sống
thường nhật như: cảnh đánh cờ, chèo thuyền, đấu vật, ôm gà... tất cả đều nói lên một giá trị điêu
khắc rõ rệt với các khối được diễn tả căng no đủ trong một hình thức đơn giản, khái quát cao, thể
hiện tinh thần vui chơi, hồn hậu của truyền thống dân tộc.
Nhìn một cách khái quát, nghệ thuật điêu khắc đình Làng phát triển từ những bước đầu
tiên ở thế kỷ 16, đạt dấu ấn rực rỡ đỉnh cao ở thế kỷ 17, chững lại, chín muồi ở thế kỷ 18. Điêu
khắc đình làng của 2 thế kỷ này đại diện điển hình nhất cho tồn bộ nghệ thuật điêu khắc ở đồng
bằng Bắc Bộ.
Điêu khắc, trang trí đình Làng là tác phẩm của những nghệ nhân nông dân. Nghệ thuật
của họ xuất phát từ đời sống và cái nhìn có tính bản năng thuần phác của người nơng dân. Trong

họ đồng thời có 2 con người: người nghệ nhân với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện và người nghệ
sĩ với sự tự do trong tưởng tượng, phản ánh, bộc lộ cái cảm tự thân về hiện thực, bằng bất kỳ thủ
pháp nào mà họ cho là phù hợp. Nhiều thủ pháp tạo hình được sử dụng để sáng tạo ra các
bứcchạm khắc, thể hiện cái nhìn hồn nhiên, mộc mạc, hóm hỉnh, đầy sức sống như cái nhìn của
trẻ thơ.
24


Trong chạm khắc trang trí người nghệ nhân xưa đã kết hợp hai yếu tố của cõi huyền và
cõi thực thơng qua thủ pháp kết hợp trang trí và tả thực vào trong một bố cục, tạo nên đặc trưng
độc đáo của điêu khắc đình Làng. Ngay từ những chạm khắc của những ngơi đình từ thế kỷ XVI
đã thể hiện rõ tư duy này.
Ta có thể nhận thấy nghệ thuật chạm khắc dân gian có một lịch sử phát triển khá phong
phú với những hình tượng độc đáo về thiên nhiên, về con người Việt Nam từng thời kỳ dưới
dạng thần linh hay con người thế tục. Mỗi một thời kỳ, họa tiết chạm khắc trang trí lại mang một
phong cách đặc trưng riêng.
Nghệ thuật chạm khắc trang trí đình Làng chứa đựng những giá trị tạo hình độc đáo, thể
hiện xu hướng có tính lưỡng ngun, đó là xu hướng nhập thế và thoát ly. Hai xu hướng này đan
xen vào nhau, tuy đậm nhạt có mỗi lúc khác nhau. Thế kỷ 16, 17 xu hướng nhập thế thể hiện tính
trội, khi các hoạt cảnh của đời sống tràn vào các ngơi đình với cảm hứng dạt dào. Chính nó đã
làm nên giá trị độc đáo nhất của điêu khắc đình làng. Từ thế kỷ 18 trở đi, xu hướng nhập thế
giảm dần nhường chỗ cho xu hướng thốt ly có nhiều nhiều yếu tố tâm linh, tín ngưỡng. Xu
hướng thoát ly được tăng cường cùng với việc sử dụng nhiều mơ típ trang trí có tính biểu tượng,
nhằm sùng bái và linh thiêng hóa vị Thành hồng Làng.
Trong các đình của người Việt, ta biết rằng đình chắc chắn đã có từ thế kỷ 15. Về vật
chất của đình Làng, niên đại sớm nhất ta mới tìm thấy từ năm 1531, đó mới chỉ là niên đại trùng
tu ở đình Thụy Phiêu (Ba Vì), và sau đó là các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh…
Các đình đã dính đến thờ thần thành hồng Làng thì dần dần người ta lấy cái đó là yếu tố
tín ngưỡng thờ cúng rất cao. Từ đó, kiến trúc đình mang tư cách ba tầng của vũ trụ. Ví dụ, tầng
mái gắn với tầng trời, tầng giữa là tầng người và thần linh quan hệ và tầng dưới là tầng đất. Ngơi

đình Làng là sản phẩm thuần khiết gắn với văn hoá làng, hội tụ biểu tượng cao độ về đời sống
vật chất và tinh thần của Làng. Giá trị của nó nằm ở thành tựu kiến trúc và điêu khắc trang trí cổ
Việt Nam, ở đó đã kế thừa và phát triển cao, độc đáo nghệ thuật điêu khắc truyền thống của
người Việt.
Những ngơi đình Làng này, tuỳ theo từng thời đại mà mức độ chạm khắc có khác nhau
kỹ thuật khi chạm nông, chạm nổi, chạm kênh, chạm bong, chạm lộng... nhưng tất cả đều đã thể
hiện tài nghệ của các nghệ nhân xưa vừa giỏi kiến trúc vừa tài hoa chạm khắc.
Tầng mái gắn với tầng trời, ngói và linh vật gắn với tầng trời. Đơi rồng chầu có 5 tóc đều
có nghĩa: 5 là sấm chớp đánh về 5 phương Đơng, Tây, Nam, Bắc và trung phương), có ước vọng
nhờ vũ ở trong này đem hạnh phúc về với trần gian sức mạnh. Tất cả mọi thứ đều xoay quanh cái
âm dương đối đãi. Rồng biểu hiện cho mưa, mưa là tinh dịch của trời trao cho đất, cho mn lồi
sinh sơi. Ở thế kỷ thứ 17, có rất nhiều hình điêu khắc con vật nhỏ leo trèo trên con rồng, vì con
rồng là mưa, con vật leo trèo biểu hiện ước vọng phồn thực.
Con lân là con vật đứng kiểm soát tâm hồn của kẻ hành hương bởi nó cũng là con vật linh
ở trên trời, là hiện thân của trí tuệ, hiện thân của sức mạnh thần linh. Cửa giữa là lối của thần đi,
có đường linh thường đặt bằng đá, còn hai bên là lối đi của người dân.
Ngói lợp đình thường là loại ngói ở đầu mũ có nổi lên hình chữ U, có các vạch chạy
xuống là tia sáng tượng trưng cho các vị tinh tú.
Kiến trúc thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17 thường là các đầu rồng quay vào gian giữa, còn các
thời khác là quay ra. Hình tượng rồng thời Mạc thường có đao dài, mảnh đè cả lên trên thân. Các
di tích sau này khi tu bổ đã thường bỏ qua.
25


×