Khoá luận tốt nghiệp
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
1
Khoá luận tốt nghiệp
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
2
Khoá luận tốt nghiệp
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
3
Khoá luận tốt nghiệp
Phần 1: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế kỉ 20 chấm dứt, nhân loại bước vào thế kỉ 21 - một thế kỉ sẽ được
chứng kiến nhiều biến đổi to lớn cụ thể khoa học và công nghệ sẽ có những
bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia…Vì vậy, đi vào thiên niên kỉ
mới này, tất cả các quốc gia đều chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa
học - công nghệ, coi đây là con đường và biện pháp cơ bản để chấn hưng đất
nước, phát triển kinh tế - xã hội.
Đất nước Việt Nam chóng ta trong quá trình giao lưu, hội nhập và phát
triển tất nhiên cũng không tránh khỏi vòng quay này. Có thể nói sau hơn 15
năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, nước ta đã thu được những thành
tựu rất đáng khích lệ, mọi mặt, mọi lĩnh vực đều có sự thay đổi mạnh mẽ góp
phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - một mục
tiêu lớn mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang cố gắng thực hiện.
Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng đã
xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: "Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất, văn
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
4
Khoá luận tốt nghiệp
hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". [7;252]
Yêu cầu trên đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân ta nhưng cũng
đòi hỏi một sự phấn đấu rất cao nếu chúng ta nhìn từ thực tiễn đất nước hiện
nay. Để đạt được mục tiêu này nhân dân ta phải hết sức nỗ lực trong đó ngành
giáo dục - đào tạo có một vai trò đặc biệt quan trọng.
Thực tế, trong nhiều thập kỉ qua, Đảng và nhà nước ta luôn chăm lo
đến sự nghiệp "trồng người", toàn dân tham gia giáo dục vì lợi Ých của mỗi
gia đình, mỗi cộng đồng và của toàn xã hội. Bước sang thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giáo dục - đào tạo ngày càng được đÒ cao
hơn nữa với quan điểm: "giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu", "lấy việc
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho phát triển nhanh và bền
vững".
Với những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước, ngành giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay đã có sự biến chuyển
rõ rệt. Nếu như trước đây, học sinh, sinh viên hoàn toàn học theo phương
pháp thụ động có nghĩa là thầy giảng, trò ghi, thầy dạy như thế nào thì học trò
chỉ biết có như thế Êy thì ngày nay, đổi mới phương pháp dạy và học đã và
đang được áp dụng trên tất cả các cấp học ở mọi nơi trên khắp đất nước…
Bên cạnh sự đổi mới về phương pháp kể trên, chúng ta còn thấy sự thay đổi
về chương trình đào tạo, về trình độ của các giáo viên… Những sự thay đổi
trên ngày càng được thể hiện rõ nét trong đời sống xã hội mang lại những
khuynh hướng mới cho ngành giáo dục - đào tạo.
Trong các cấp học thì giáo dục tiểu học có vai trò rất to lớn không chỉ
đối với quá trình học nói riêng mà còn đối với đời sống của mỗi một con
người nói chung. Người ta thường nói: "Vạn sự khởi đầu nan" vì thế chất
lượng giáo dục phổ thông phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng giáo dục tiểu
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
5
Khoá luận tốt nghiệp
học. Khi chóng ta hoàn thành tốt bậc tiểu học đó sẽ là nền tảng vững chắc để
chúng ta vững bước trong những bậc học tiếp theo.
Trong thời gian vừa qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và nhà
nước, giáo dục tiểu học của ta đã có những thành tựu rất đáng biểu dương.
Chúng ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và đang tiến tới phổ cập
trung học cơ sở trong cả nước. Những thành tựu trên đã khiến cho chóng ta
rất vui mừng và tự hào về nền giáo dục nước nhà đặc biệt là giáo dục tiểu học
nhưng bên cạnh đó cũng nảy sinh rất nhiều vấn đề khiến cho nhiều người phải
lên tiếng trong đó có hiện tượng học thêm, dạy thêm đang xuất hiện tràn lan
nổi bật là ở các vùng đô thị phát triển. Quả thật, học thêm dạy thêm đang là
một vấn đề bức xúc của nền giáo dục nước ta hiện nay. Thực chất, học thêm
dạy thêm là một hiện tượng đã tồn tại lâu đời ở nhiều nền giáo dục trên thế
giới đặc biệt ở các nước châu Á, học thêm dạy thêm là khá phổ biến nhưng
không gây khó chịu trong dư luận xã hội bởi chúng ta không thể không thừa
nhận những giá trị tích cực của việc học thêm dạy thêm trong việc góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, đây vẫn đang là
một vấn đề gây "đau đầu" cho những người làm công tác giáo dục bởi học
thêm dạy thêm đã và đang trở thành một vấn nạn của xã hội. Tại sao lại nh
vậy? Học thêm dạy thêm ở nước ta có khiếm khuyết gì mà khiến cho rất nhiều
người phải lên tiếng nh thế?
Sở dĩ học thêm dạy thêm đang trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã
hội ta hiện nay là bởi nó đã bị lạm dụng do mục đích không lành mạnh và
không dựa trên một nhu cầu có thực. Có thể thấy rằng đã có rất nhiều người
trong quá trình đi học không tham dự bất cứ một buổi học thêm nào nhưng ra
đời vẫn trở thành một con người rất thành đạt. Nh vậy vấn đề chỉ nằm trong
tâm lí của mỗi người mà thôi. Bất cứ một bậc cha mẹ nào cũng muốn con
mình được học tốt, được học những thứ mà con của những người khác cũng
được học. Đây là một nhu cầu chính đáng của các bậc cha mẹ nhưng từ những
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
6
Khoá luận tốt nghiệp
mong muốn đó mà bắt Ðp con mình phải học thêm nhiều môn, nhiều buổi thì
nó lại trở thành nhu cầu giả tạo. Chính nhu cầu giả tạo này "buộc học sinh
phải học thêm ngoài giờ: trên lớp, học tư, học cả ngày và cả tối dẫn đến thãi
quen dựa dẫm vào thầy, ngại tự học, ngại tìm tòi, suy nghĩ độc lập, cho nên
cứ dời thầy, dời trường ra là cứ lơ ngơ như một chú gà công nghiệp, mới ra
khỏi chuồng lại luống cuống tìm cách chui lại vào chuồng…" [20]. Bên cạnh
đó, hàng loạt thầy cô giáo "lãng phí công sức vào việc dạy thêm lu bù, không
còn thời gian nâng cao trình độ, làm nghiên cứu khoa học cải tiến công việc
của mình" [20]. Hơn nữa, do dạy thêm có thu tiền ở trong nhà trường, hoặc
ngoài nhà trường của người giáo viên đã dẫn đến hiện tượng một số giáo viên
có biểu hiện sa sút về phẩm chất. Nhiều giáo viên dạy sơ sài ở trên lớp rồi
bằng nhiều thủ đoạn trực tiếp và gián tiếp đã "bắt Ðp học sinh của mình phải
học thêm chính môn của mình dạy ở lớp chính khóa" [20]. Với việc học thêm
theo một cái đích giả tạo nh thế, tài năng sáng tạo và tuổi trẻ đáng quí của
hàng triệu học sinh đang bị lãng phí. Nhiều học sinh học thêm bù đầu bù óc
đã không còn thời gian quan tâm đến những người thân trong gia đình, ngoài
xã hội, chúng trở nên vô cảm, thờ ơ với người thân, bạn bè, và xã hội đặc biệt
trong đó không Ýt học sinh có một cái nhìn căm thù và khinh thường đối với
giáo viên bắt Ðp mình học thêm.
Mặc dù chính phủ đã ra chỉ thị cấm từ hơn chục năm nay (Quyết định
số 242/TTg ngày 24/5/1993 của thủ tướng chính phủ về việc dạy thêm ngoài
giờ của giáo viên các trường phổ thông công lập): "các trường công lập
không được tổ chức dạy thêm đồng loạt đối với học sinh ở các lớp học phổ
thông và không được dùng các biện pháp trực tiếp hoặc gián tiếp Ðp buộc
học sinh phải học thêm ngoài giờ học" nhưng tình trạng học thêm - dạy thêm
vẫn tiếp tục phát triển và ngày một phát triển hơn. Một triết gia đã từng nói:
"Cái gì tồn tại phải có hạt nhân hợp lí của nó". Vậy "hạt nhân hợp lí" của
việc học thêm và dạy thêm là ở đâu?
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
7
Khoá luận tốt nghiệp
Chóng ta hãy cùng nghĩ xem? Phải chăng không học thêm thì chúng ta
sẽ không hiểu được bài, không được điểm cao, không có thành tích học tập
tốt?
Bậc tiểu học - bậc học đầu tiên mà mỗi học sinh lần đầu được biết đọc,
biết viết được tiếp xúc với bạn bè, thầy cô, nhà trường, là lứa tuổi đang cần
được chăm lo nhiều nhất, liệu việc học thêm ở ngay bậc tiểu học có trở nên
quá tải đối với học sinh tiểu học không? Đánh giá của các bậc cha mẹ về vấn
đề này nh thế nào? Đối với những bậc cha mẹ cho con tham gia các lớp học
thêm, họ nhìn nhận như thế nào về học thêm của học sinh tiểu học hiện nay:
lợi hay hại? Họ ủng hộ hay không ủng hộ? Nguyên nhân gì khiến họ để cho
con mình tham gia các lớp học thêm?
Trăn trở trước những vấn đề trên đồng thời có mong muốn tìm hiểu,
đánh giá và phán xét, tôi đã chọn đề tài: "Thực trạng học thêm của học sinh
tiểu học hiện nay và đánh giá của các bậc phô huynh" làm đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
2.1. Ý nghĩa khoa học
Thông qua đề tài nghiên cứu, tôi muốn mọi người hiểu rõ hơn về thực
trạng học thêm của học sinh tiểu học hiện nay, nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng này và đặc biệt hơn là thấy được đánh giá của các bậc cha mẹ đối với
vấn đề.
Qua đề tài nghiên cứu, tôi muốn khẳng định hơn nữa những lí thuyết xã
hội học đã được học trong nhà trường nh lí thuyết hành động xã hội, lí thuyết
trao đổi và lí thuyết tương tác biểu trưng.
Với quy mô và thời gian nghiên cứu hạn hẹp nên trong báo cáo của
mình tôi không thể chuyển tải hết các khía cạnh của vấn đề học thêm. Vì thế
những kết quả trong báo cáo này sẽ phần nào gợi mở cho những nghiên cứu
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
8
Khoá luận tốt nghiệp
tiếp theo trong việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề đang thu hút được sự
quan tâm chú ý của rất nhiều người trong xã hội hiện nay.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ cho chóng ta một cái nhìn toàn diện về thực
trạng học thêm của học sinh tiểu học hiện nay, nguyên nhân của hiện tượng
này và đánh giá của các bậc cha mẹ. Ngoài ra, đề tài của tôi còn có một ý
nghĩa thực tiễn rất quan trọng là nhìn nhận những mặt tích cực cũng như
những mặt tiêu cực của vấn đề học thêm bởi hiện tại nhiều người vẫn cho
rằng đây là một hiện tượng không tốt cần phải dẹp bỏ. Thông qua việc phân
tích những thông tin thu được sẽ giúp cho các nhà quản lí giáo dục, những
nhà hoạch định chính sách có cái nhìn khoa học và thực chứng về hiện tượng
này để phát huy những mặt tích cực cũng như hạn chế những mặt tiêu cực từ
đó góp phần to lớn vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo của đất nước.
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu mức độ quan tâm của các bậc cha mẹ đến việc học tập của
con cái.
Tìm hiểu thực trạng học thêm của học sinh tiểu học hiện nay, nguyên
nhân khiến cho các bậc cha mẹ cho con mình học thêm từ đó xem xét đánh
giá của các bậc cha mẹ đối với vấn đề này.
Đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp cho vấn đề học thêm của học
sinh tiểu học hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích các cơ sở lí thuyết và phương pháp cho việc nghiên cứu thực
trạng học thêm của học sinh tiểu học và thái độ của các bậc cha mẹ đối với
vấn đề này.
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
9
Khoá luận tốt nghiệp
Phân tích thực trạng cũng nh nguyên nhân học thêm của học sinh tiểu
học hiện nay.
Phân tích và xem xét đánh giá của các bậc phụ huynh về vấn đề học
thêm của học sinh tiểu học.
ĐÒ xuất một số khuyến nghị và giải pháp.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng học thêm của học sinh tiểu học hiện
nay và đánh giá của các bậc phô huynh.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Các bậc cha mẹ có con học tại trường PTCS
Kim Liên - Hà Nội
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Trường PTCS Kim Liên
Thời gian: Tháng 4 năm 2004
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu: Trong quá trình viết báo cáo, tôi có sử
dụng một số bài viết về vấn đề học thêm trên các báo, tạp chí… phục vụ cho
nghiên cứu của mình.
5.2. Phương pháp định lượng: Tiến hành thu thập thông tin bằng cách
phỏng vấn qua bảng hỏi.
Bảng hỏi của tôi gồm 20 câu với hai phần câu hỏi rất rõ ràng:
Phần câu hỏi về thực trạng học thêm
Phần câu hỏi về thái độ của các bậc cha mẹ
5.3. Phương pháp định tính: Trong quá trình thu thập thông tin, tôi đã tiến
hành phỏng vấn sâu 8 người trong đó không chỉ có các bậc cha mẹ mà còn có
cả giáo viên trong trường và sinh viên đang dạy thêm.
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
6.1. Giả thuyết 1:
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
10
Khoỏ lun tt nghip
Bc sang nn kinh t th trng khi tt c mi ngi u bn rộn vi
cụng vic ca mỡnh thỡ h vn luụn ginh thi gian quan tõm, ụn c vic
hc tp ca con cỏi. Tuy nhiờn ngoi gi hc chớnh trờn lp v gi hc bỏn
trỳ, hin nay cú rt nhiu em hc sinh tiu hc ó phi i hc thờm.
6.2. Gi thuyt 2:
Cỏc bc phụ huynh cú nhng lí do nht nh nh: mun con hc gii,
s con b im kộm, mun con bit thờm nhiu iu mi quyt nh cho
con mỡnh i hc thờm.
6.3. Gi thuyt 3:
Cỏc yu t nh gii tớnh, ngh nghip, thu nhp ca cỏc bc ph
huynh ó chi phi rt nhiu n cỏch nhỡn nhn ca h v vn hc thờm
ca con cỏi.
7. KHUNG L THUYT
Nguyn Hong Nga - K45 XHH
11
Các yếu tố kinh tế chính trị
văn hoá xã hội
Nhà
tr ờng
Gia
đình
Cộng
đồng
Môi tr ờng
xã hội
Nhận thức của các bậc phụ huynh
về vấn đề học thêm
Thực trạng học thêm của học sinh
tiểu học hiện nay và đánh giá của
các bậc phụ huynh
Khoá luận tốt nghiệp
Phần 2: NỘI DUNG CHÍNH
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Phương pháp luận Mac - xit: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản cho mọi khoa
học nói chung và xã hội học nói riêng. Vận dụng tổng hợp những lí luận này
chúng tôi tuân theo các nguyên tắc sau:
• Tuân thủ nguyên tắc lịch sử cụ thể: nghiên cứu vấn đề trong điều kiện
lịch sử cụ thể về không gian, thời gian, vùng, miền, khu vực.
• Những sự kiện, hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại trong sự liên hệ,
trong sự vận động và phát triển không ngừng theo những qui luật vốn có của
nó.
• Xem xét các sự vật, hiện tượng xã hội phải hướng tới cái bản chất,
không hướng tới cái ngẫu nhiên, bất bình thường.
Tôi nghiên cứu đề tài mà mình đã chọn một cách khách quan đặt trong
mối liên hệ với nhiều hiện tượng xã hội khác. Thêm vào đó, đặt hiện tượng
này trong bối cảnh lịch sử cụ thể để hướng tới cái bản chất của hiện tượng.
1.2. Các lí thuyết nghiên cứu
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
12
Khoá luận tốt nghiệp
a. Lí thuyết hành động xã hội
Các lí thuyết xã hội học về hành động xã hội có nguồn gốc từ V.
Pareto, M. Weber, G. Mead, T. Parsons và nhiều nhà xã hội học khác. Những
lí thuyết này đều coi hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con
người và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người. Mặc
dù mỗi nhà xã hội học đều tiếp cận hành động xã hội ở các góc độ khác nhau
song họ đều thống nhất ở một số điểm:
• Hành động xã hội bao giờ cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức dù ở
mức độ khác nhau có nghĩa là chủ thể luôn gắn cho hành động một ý nghĩa
chủ quan nhất định.
• Hành động xã hội có tính định hướng mục đích
• Hành động xã hội là hành động hướng tới người khác
Trên thực tế không phải hành động nào cũng có tính xã hội hay đều là
hành động xã hội. Những hành động chỉ nhằm tới các sự vật mà không tính
đến hành vi của người khác như việc hai người đi xe đạp vô tình va quệt vào
nhau trên đường phố không phải hành động xã hội, hành động giống nhau của
các cá nhân trong một đám đông như hành động mọi người cùng mặc áo mưa
khi tự nhiên trời đổ mưa cũng không được coi là hành động xã hội… Với
những hành động nh thế này, chúng ta thấy hầu nh không có sự tham gia của
yếu tố ý thức mà đó chỉ là sự phản ứng tự nhiên trước hoàn cảnh mà thôi.
Chúng ta thực hiện hành động đó hoàn toàn không có sự suy nghĩ. Thêm nữa
những hành động này thường diễn ra bất chấp ý chí hay mong muốn chủ quan
của chúng ta. Các nhà xã hội học gọi đây là hành động vật lí - bản năng.
Lí thuyết hành động xã hội ra đời nhằm phản ứng lại quan điểm của các
nhà hành vi luận cho rằng chúng ta không thể nghiên cứu được những yếu tố
bên trong qui định hành vi của các cá nhân mà chỉ có thể biết đến những phản
ứng bên ngoài. Theo các nhà xã hội học, chúng ta không đơn thuần chỉ nghiên
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
13
Khoỏ lun tt nghip
cu phn ng ca cỏc cỏ nhõn trc cỏc kớch thớch m chỳng ta hon ton cú
th nghiờn cu nhng gỡ ang din ra bờn trong, nhng gỡ tim ẩn trong mi
cỏ nhõn.
minh chng cho quan im ca mỡnh, cỏc nh xó hi hc ó a ra
mụ hỡnh sau:
[1;129]
Mụ hỡnh trờn ó cho chúng ta thy cu trỳc ca hnh ng xó hi. Cỏc thnh
t ny khụng h tỏch di nhau m cú mi liờn h mt thit vi nhau.
Vn dng lớ thuyt ny, chỳng ta thy rng hnh ng cho con tham gia
cỏc lp hc thờm ca cỏc bc cha m l hnh ng xó hi. õy l mt hnh
ng cú ý thc, cú s cõn nhc k cng ca cỏc bc cha m (ch th hnh
ng). Xut phỏt t nhu cu mun con hc tp tht tt ó ny n ng c
cho con tham d cỏc lp hc thờm. Cỏc thy cụ - nhng ngi dy trong cỏc
lp hc thờm chớnh l cụng c, phng tin giỳp cho cỏc bc cha m t c
mc ớch ca mỡnh. Chỳng ta cú th hiu c hnh ng ny ca cỏc bc cha
m bi nhng ngi lm cha lm m ai cng cú mong mun con mỡnh hc
tt, c bng bn bng bố. Cú th cú nhiu ý kin cho rng hc thờm l
khụng cn thit c bit l vi bc tiu hc nhng trờn thc t, cỏc bc cha m
trong thi i ngy nay b chi phi bi rt nhiu iu. Cú ngi cho con i
Nguyn Hong Nga - K45 XHH
14
Nhu cầu
Hoàn cảnh
Chủ thể Mục
đích
Công cụ ph
ơng tiện
Động cơ
Khoá luận tốt nghiệp
học thêm là do sự "gợi ý" khéo léo của các giáo viên nhưng cũng có người
cho con đi học thêm là do nhu cầu của chính bản thân họ. Đây chính là tính
định hướng mục đích của hành động cho con học thêm. Đặt trong "hoàn
cảnh" của hành động xã hội, việc cho con đi học thêm tất nhiên chịu tác động
của các giá trị, chuẩn mực xã hội vì vậy không thể không khẳng định rằng
việc cho con đi học thêm không hướng tới những người khác đặt trong tương
tác với chủ thể hành động.
b. Lí thuyết trao đổi của Homans
Trung tâm của thuyết trao đổi của Homans nằm trong một tập hợp các
định đề chủ yếu. Một số định đề của ông cũng đề cập đến tương tác giữa hai
cá thể nhưng ông vẫn đề cao các nguyên tắc tâm lí học xã hội trong quan hệ
trao đổi. Theo ông thì các quá trình tâm lí của chủ thể khi hành động trao đổi
có liên quan đến yếu tố chức năng xã hội của nó vì thế Homans đã phê phán
thuyết chức năng là bỏ qua các yếu tố, các phẩm chất cá nhân của chủ thể
hành động. Những yếu tố liên quan đến quá trình trao đổi như tương tác, điều
kiện, phương tiện của hành động đã được Homans xây dựng trên cơ sở của
thuyết hành vi. Mặt khác ông thừa nhận rằng hành vi của con người phức tạp
hơn nhiều so với hành vi của con vật. Ông nêu ra một số định đề nh sau:
• Định đề thành công: Đối với mọi hành động do các cá nhân thực hiện,
một hành động cụ thể của một cá nhân càng được ban thưởng nhiều càng có
khả năng cá nhân sẽ thực hiện hành vi đó.
• Định đề kích thích: Nếu trong quá trình kích thích hoặc một tập hợp
kích thích làm cho chủ thể hành động thành công thì khi xuất hiện những kích
thích tương tự chủ thể có xu hướng hành động hoặc sẽ hành động tương tự
như trong quá khứ.
• Định đề giá trị: Kết quả hành động của một cá nhân càng có giá trị đối
với anh ta càng có khả năng anh ta sẽ thực hiện hành động đó.
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
15
Khoá luận tốt nghiệp
• Định đề thiếu thốn - thoả mãn: Trong một quá khứ gần chủ thể càng
nhận được nhiều phần thưởng thì phần thưởng đó trở nên kém giá trị đối với
anh ta.
• Các định đề về gây hấn - bằng lòng:
Định đề A: Khi hành động của một cá nhân không nhận được phần
thưởng như anh ta mong đợi, hay lại nhận được sự trừng trị mà anh ta không
mong đợi, anh ta có khả năng thực hiện hành vi gây hấn và các kết quả của
hành vi đó trở nên có giá trị hơn đối với anh ta.
Định đề B: Khi hành động của một cá nhân nhận được ban thưởng anh
ta kì vọng đặc biệt là một ban thưởng lớn hơn so với kì vọng của anh ta, hoặc
không nhận được một sự trừng trị anh ta mong đợi, anh ta sẽ hài lòng và anh
ta có khả năng hơn để thực hiện hành vi bằng lòng. Các kết quả của hành vi
đó trở nên có giá trị hơn đối với anh ta.
• Định đề hợp lí: Trong quá trình lựa chọn hành động, chủ thể hành động sẽ
lựa chọn những hành động nào mà anh ta cho là hợp lí nhất để đạt tới kết quả,
mục tiêu đã đặt ra. [4; 413].
Đất nước ta chuyển mình sang thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước với việc đặt con người ở vị trí trung tâm thì hơn bao giờ hết, ngành giáo
dục - đào tạo càng phải phát huy hết những thế mạnh của mình. Làm sao đất
nước có thể có được những nhân tài, những nhân lực giỏi với trình độ cao?
Đây là một câu hỏi lớn giành cho ngành giáo dục. Và để có được những con
người nh thế thì ngay từ bậc giáo dục tiểu học, việc dạy dỗ các em học sinh là
cực kì quan trọng. Ngày nay, lo lắng cho tương lai của con trong một "xã hội
học tập" phát triển không ngừng, nhiều bậc cha mẹ đã cho con đi học thêm để
nâng cao và bồi bổ kiến thức. Ở đây, việc con họ học giỏi tôi cho đó là "phần
thưởng" và tất nhiên để đạt được phần thưởng này, các bậc cha mẹ sẽ tự lựa
chọn cho con mình cách thức để đạt được phần thưởng đó. Nếu cách thức đó
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
16
Khoá luận tốt nghiệp
phát huy được tác dụng, các bậc cha mẹ sẽ tiếp tục lặp lại cách thức đó và
ngược lại. Theo quan điểm của nhiều vị phụ huynh, rõ ràng trong một chừng
mực nào đó việc học thêm đã mang lại những hiệu quả nhất định vì thế họ
cho con mình tham dự các lớp học thêm. Ngược lại, một số vị phụ huynh lại
không thấy được tác dụng của việc học thêm, cho rằng học thêm chỉ khiến
cho con họ mất thời gian vui chơi và nghỉ ngơi vì vậy đã có thái độ phản ứng
lại việc học thêm. Đây chính là nguyên nhân lí giải cho thái độ của các vị phụ
huynh đối với việc học thêm.
c. Lí thuyết tương tác biểu trưng:
Lí thuyết tương tác biểu trưng gắn với tên tuổi của Herbert G. Mead là
một trong những lí thuyết quan trọng của khoa học xã hội học. Trên lập
trường quan điểm của mình, Mead cho rằng: Con người không những chịu áp
lực từ phía xã hội như Durkheim đã nói mà nó còn chịu tác động ngay từ phía
nội tâm của chủ thể hành động. Tuy nhiên cuộc đấu tranh của thế giới nội tâm
cũng không phải là hoàn toàn tuân thủ nguyên tắc bản năng như Freud đã nói
mà là sự dung hoà giữa một bên là các thôi thúc bản năng và một bên là áp
lực của xã hội. Hơn nữa hành động của con người không chỉ đơn thuần là
những hành vi mà chúng ta có thể quan sát trực tiếp được mà còn bao gồm cả
những khía cạnh bên trong, "ngấm ngầm" trong khoảng thời gian khi các kích
thích được phát ra và trước khi có phản ứng đáp lại.
Trong thực tế cuộc sống, khi con người tiếp xúc với thế giới đối tượng,
thế giới hiện thực - nơi các cá nhân có khả năng thoả mãn nhu cầu của mình
thì đối tượng hoạt động của con người không phải là các sự vật mà quan trọng
nhất là các chủ thể khác. Vì vậy để tồn tại và phát triển, để đạt được mục đích,
mỗi cá nhân buộc phải có sự trao đổi với người khác về hành động của mình
cụ thể để hiểu được các chủ thể khác, bản thân chủ thể hành động phải đặt
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
17
Khoá luận tốt nghiệp
nhận thức của mình thông qua ý nghĩa biểu trưng vào cái mà các chủ thể khác
đang hành động. Sự trao đổi này diễn ra dựa trên việc các chủ thể nhận thức
nh thế nào về ý nghĩa hành động của nhau. Bên cạnh đó là việc chủ thể hành
động điều chỉnh hành vi của mình theo ý nghĩa biểu trưng mà anh ta học được
trong quá trình tương tác với người khác.
Trong thế giới hiện thực của chúng ta, tồn tại cả biểu trưng có ý nghĩa
và biểu trưng không có ý nghĩa. Biểu trưng có ý nghĩa là khi "chúng gợi ra ở
các cá thể thực hiện chúng một phản ứng giống nh (không cần phải đồng
dạng) phản ứng gây ra ở những người mà các điệu bộ này không hướng tới.
Mead coi hành động là "đơn vị cơ bản" nhất trong lí thuyết của mình.
Ông chia hành động thành 4 giai đoạn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:
• Giai đoạn 1: Sự thôi thúc: bao gồm một "kích thích tức thời mang tính
cảm giác", và phản ứng của chủ thể với kích thích, nhu cầu làm một việc gì
đó về nó. Điều này có nghĩa là khi con người có một nhu cầu nào đó đối với
một vấn đề hay một sự việc nào đó con người đòi hỏi phải có những tác động
trực tiếp lên các giác quan. Sau tác động của các kích thích lên các giác quan
chủ thể sẽ phản ứng trên các kích thích đó.
• Giai đoạn 2: Sự nhận thức: Trước các kích thích, chủ thể sẽ có sự nhận
thức nhưng không trả lời các kích thích này một cách trực tiếp mà trả lời một
cách gián tiếp thông qua các biểu trưng. Sự nhận thức của chủ thể về các kích
thích nh thế nào phụ thuộc vào số lượng cũng nh chất lượng của các biểu
trưng. Thêm vào đó, con người có xu hướng chấp nhận tất cả những gì từ thế
giới bên ngoài mang lại nhưng chấp nhận một cách có lựa chọn. Khi các kích
thích được lựa chọn và phân tích thông qua các biểu trưng dựa vào kinh
nghiệm và tư duy của chủ thể, các động cơ đó sẽ trở thành mục tiêu của hành
động.
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
18
Khoá luận tốt nghiệp
• Giai đoạn 3: Sù thao tác: ở đây, chủ thể cần phải cân nhắc, lựa chọn các
thao tác hành động trong những tình huống cụ thể.
• Giai đoạn 4: Thực hiện hành động: Khi tình huống đã được thao tác
xong, chủ thể quyết định thực hiện hành động. Vì hành động đã được thực
hiện từ 3 giai đoạn trước nên về cơ bản khi kết thúc hành động, con người đã
được thoả mãn nhu cầu của mình. [4; 297].
Qua những phân tích của Mead, có thể thấy rõ một điều rằng cái có ý
nghĩa quyết định đến kết quả của hành động chính là việc chủ thể hành động
diễn giải ý nghĩa của các biểu trưng nh thế nào. Làm được điều này hoàn toàn
phụ thuộc vào vốn văn hoá hay hệ giá trị của mỗi một chủ thể hành động.
Vận dụng lí thuyết này, chúng ta thấy cho con đi học thêm là một biểu
trưng có ý nghĩa trong đời sống hiện nay cụ thể:
• Giai đoạn 1: Sự thôi thúc: Trong xã hội hiện nay, học tập của con là
một vấn đề được các bậc cha mẹ quan tâm chú ý. Với mong muốn con mình
học tốt, nhiều bậc cha mẹ đã cho con tham gia các lớp học thêm. Như vậy,
việc cho con đi học thêm được hình thành từ sự kết hợp giữa việc giáo dục
được lưu tâm trong xã hội và mong muốn nảy sinh từ trong trạng thái nội tâm
của các bậc cha mẹ.
• Giai đoạn 2: Sự nhận thức: Khi quyết định cho con đi học thêm, chắc
chắn trong thế giới nội tâm của các bậc cha mẹ sẽ diễn ra quá trình phân tích,
lí giải ý nghĩa của việc học thêm: Học thêm có cần thiết không? có mang lại
lợi Ých gì không? nếu không học thêm thì con mình sẽ như thế nào. Tất
nhiên, quá trình diễn ra ở mỗi người là khác nhau do hệ giá trị của mỗi người
là khác nhau. Tuy nhiên, khi họ lựa chọn việc này có nghĩa đây là cái "đáng
ước muốn", cái cần phải thực hiện và nó đã thúc đẩy hành động của họ.
• Giai đoạn 3: Sù thao tác: Nh trên đã nói, khi các bậc cha mẹ quyết định
cho con đi học thêm thì theo họ đó là cái "đáng ước muốn". Tuy nhiên khả
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
19
Khoá luận tốt nghiệp
năng đáp ứng cho việc này là một điều hoàn toàn không dễ. Để biến mục tiêu
của mình thành hành động, mỗi bậc cha mẹ sẽ có những cách thức riêng của
mình. Chúng ta biết rằng học thêm sẽ rất tốn kém nếu không có sự cân nhắc
kĩ lưỡng của các bậc cha mẹ. Thêm vào đó có thể sẽ không thu được kết quả
gì. Bởi vậy, trước khi cho con đi học thêm, mỗi bậc phụ huynh sẽ luôn luôn
phải cân nhắc kinh tế của gia đình, lựa chọn và xem xét người sẽ dạy cho con
mình… từ đó sẽ có sự lựa chọn đúng đắn mang lại hiệu quả cho bản thân con
mình và gia đình mình.
• Giai đoạn 4: Thực hiện hành động: Tất nhiên với việc chuẩn bị kĩ càng
từ 3 giai đoạn trước, mỗi bậc phụ huynh sẽ cho con đi học thêm và dần sẽ đạt
được mục đích của mình.
Các giai đoạn trên có mối quan hệ tương hỗ với nhau vì thế để đạt được
mục đích của mình, mỗi bậc cha mẹ phải cân nhắc và có sự chọn lựa kĩ càng
bởi trên thực tế, không Ýt trường hợp cho con đi học thêm nhưng không
mang lại lợi Ých gì mà chỉ thấy các em học sút đi và mệt mỏi hơn mà thôi. Vì
thế, khi có sự cân nhắc và lựa chọn đúng đắn, chắc chắn việc học thêm sẽ phát
huy được tác dụng của mình không chỉ đối với các em học sinh mà con đối
với các bậc cha mẹ - những người luôn luôn chăm lo đến việc học tập của con
mình.
2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Đất nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do đại hội
Đảng 6(12/1986) đề ra: Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước đã có sự thay đổi
mạnh mẽ về mọi mặt. Chúng ta không thể phủ nhận những thành công mà nền
kinh tế thị trường mang lại như thu nhập đầu người tăng, đời sống của đại bộ
phận nhân dân được cải thiện đáng kể cả về vật chất lẫn tinh thần nhưng bên
cạnh đó, những hậu quả mà nền kinh tế thị trường đem đến cũng không Ýt
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
20
Khoá luận tốt nghiệp
đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Hiện tượng học thêm dạy thêm
cũng có thể coi là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Có cầu thì ắt sẽ có
cung. Trong thời đại mà tri thức có vị trí quyết định nh ngày nay thì nhu cầu
được hiểu sâu, biết rộng, học lên cao là chính đáng và bức thiết. Vì thế, học
thêm ra đời cũng phần nào đáp ứng nhu cầu vô bờ bến này của con người.
Tuy nhiên, làm thế nào để học thêm có thể làm thoả mãn mục đích của con
người?
Ở nhiều nước, học thêm dạy thêm không trở thành một vấn nạn mà là
một hiện tượng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Chính vì thế đây là
một hiện tượng lành mạnh và được nhiều người hưởng ứng nhưng ở nước ta,
do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường mà hiện tượng này đã bị biến dạng đi
khá nhiều. Với sự chi phối của đồng tiền, nhiều giáo viên đã mở các lớp học
thêm chỉ để phục vụ cho mục đích kiếm tiền và trong trường hợp học sinh nào
không đi học thêm sẽ có hình thức "trừng phạt ngầm"với học sinh đó. Dẫu
biết rằng đồng lương giáo viên là Ýt ỏi và nhiều người đã phải đi dạy thêm để
kiếm thêm phụ giúp cho gia đình nhưng việc các giáo viên biến nơi học thêm
thành nơi để kiếm tiền thì không thể nào chấp nhận được. Người ta thường
nói: nghề giáo là nghề của những "kĩ sư tâm hồn" hay thậm chí giáo dục
không chỉ là một nghề thông thường mà là một sự nghiệp cao cả nhưng quốc
nạn học thêm dạy thêm đã làm cho nhiều thế hệ học sinh sớm thất vọng ở
những điÒu cao đẹp bởi hàng ngày trước mặt học sinh là các hình ảnh méo
mó của không Ýt thầy cô chạy theo dạy thêm, kiếm tiền thậm chí làm giàu
một cách tàn nhẫn thông qua quyền lực giáo viên.
Tuổi thơ phải được học hành, vui chơi, lao động một cách hài hoà, cân
đối mới mong trong tương lai có được những công dân phát triển bình
thường, khỏe mạnh. Học thêm không tạo điều kiện cho trí thông minh phát
triển mà tạo thói quen lao động trí óc không theo cách tìm tòi, sáng tạo. Học
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
21
Khoá luận tốt nghiệp
thêm suốt ngày làm cho thể lực học sinh suy thoái, không còn sức lực để làm
những việc khác nữa. Tôi đã từng chứng kiến một cậu học sinh líp 4 ngoài giờ
học chính trên lớp, giờ học bán trú thì trong một tuần, cậu bé đó phải học
thêm 4 buổi nữa. Một học sinh tiểu học, lứa tuổi cần được phát triển hài hoà
cả thể chất lẫn tinh thần nay lại phải chịu những áp lực quá lớn từ gia đình của
chính cậu. Cậu là một học sinh chậm hiểu và bố mẹ cậu vì lo lắng cho cậu nên
đã tìm thầy cho cậu học thêm. Theo lời của gia sư, cậu bé này chẳng tiến bộ
được mấy mà lại có những biểu hiện mệt mỏi sau mỗi giờ học. Chúng ta hoàn
toàn có thể hiểu được thực tế trên bởi cậu bé này hoàn toàn không có thời
gian để nghỉ ngơi và vui chơi sau mỗi giờ học chính trên lớp. Bên cạnh hình
ảnh trên, tất nhiên còn có rất nhiều hình ảnh các em học sinh có thành tích học
tập rất tốt sau mỗi giờ học thêm. Đó là kết quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà trường, thầy cô và gia đình. Như vậy, nếu như có sự quản lí chặt chẽ của
những người làm công tác giáo dục trong việc cưỡng chế hoạt động học thêm
dạy thêm, biết tận dụng những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm chắc
chắn việc học thêm sẽ không trở thành một "quốc nạn" mà trở thành một hiện
tượng góp phần to lớn vào việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Học thêm dạy thêm là một hiện tượng xuất hiện ở nước ta từ khá lâu và
cũng đã có rất nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này. Có người thì cho rằng
đây là một hiện tượng cần thiết vì nó mang lại những lợi Ých nhất định như:
giúp cho những học sinh yếu kém học tốt hơn, trang bị cho học sinh những
kiến thức mới mà trên lớp không dạy…Một số người khác thì cho rằng hiện
tượng này chỉ mang lại sự mệt mỏi, căng thẳng cho học sinh, khiến học sinh
học vẹt, học tủ…
Với tầm quan trọng đến như vậy nên học thêm dạy thêm được rất nhiều
người quan tâm cụ thể trên các báo xuất hiện một loạt bài viết về học thêm
dạy thêm cụ thể là: Dạy thêm học thêm - chuyện buồn nói mãi (Ngọc Anh -
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
22
Khoá luận tốt nghiệp
báo giáo dục và thời đại), Khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan
(Trần bá Giao - báo nhân dân), Giải pháp nào cho dạy thêm học thêm
(Nguyễn thị Trâm - báo giáo dục và thời đại)…Mặc dù có nhiều bài báo cũng
như có rất nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này nhưng đối với khoa học xã
hội học thì đây vẫn còn là một lĩnh vực còn khá mới mẻ. Những đề tài nghiên
cứu về vấn đề này còn rất Ýt và vẫn còn bỏ ngỏ. Tôi mới chỉ được đọc hai đề
tài nghiên cứu về vấn đề này đó là: "Dư luận xã hội của các bậc cha mẹ về
vấn đề học thêm của học sinh trung học cơ sở hiện nay", "Nguyên nhân và
ảnh hưởng của vấn đề học thêm đối với học sinh tiểu học". Nh vậy, nghiên
cứu về vấn đề học thêm của học sinh tiểu học cũng chưa có nhiều có lẽ một
phần là do đây là lứa tuổi Ýt đi học thêm hơn so với các lứa tuổi còn lại. Khác
với hai đề tài trên, đề tài của tôi tập trung làm rõ thực trạng học thêm của học
sinh tiểu học qua đó cho thấy thái độ của các bậc cha mẹ đối với vấn đề này.
Tôi hi vọng nghiên cứu của mình sẽ có những phát hiện mới về vấn đề học
thêm đặc biệt là vấn đề học thêm của học sinh tiểu học hiện nay từ đó góp
phần khẳng định và làm giàu cho những nghiên cứu về vấn đề học thêm.
3. VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT
3.1. Địa bàn nghiên cứu
Trường tiểu học Kim Liên nằm trên địa phận quận Đống Đa - thành
phố Hà Nội là một trường tiểu học có tiếng hàng năm thu hút được rất nhiều
các bậc cha mẹ gửi gắm con vào ngôi trường này.
Trường được xây dựng trên nền tảng bề dày truyền thống nhà trường
gắn liền với địa phương cán bộ dân trí lão thành cách mạng - đại đa số là con
em cán bộ công nhân viên chức, gia đình lão thành cách mạng.
Hiện nay số học sinh của trường là 3376 học sinh với 59 líp trong đó:
nam là 1653 học sinh và nữ là 1723 học sinh cụ thể:
• Khối 1: 13 lớp với số học sinh là 721 em
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
23
Khoá luận tốt nghiệp
• Khối 2: 13 lớp với số học sinh là 726 em
• Khối 3: 12 lớp với số học sinh là 692 em
• Khối 4: 9 lớp với số học sinh là 520 em
• Khối 5: 12 lớp với số học sinh là 717 em
Tổng số giáo viên của nhà trường là 66 giáo viên trong đó 33 giáo viên
có trình độ đại học và 27 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm (9 đồng chí
đang theo học đại học tại chức). 31 giáo viên có chuyên môn dạy tốt và 29
giáo viên có chuyên môn dạy khá.
Với truyền thống sẵn có, trường tiểu học Kim Liên vẫn duy trì phong
trào thi đua "hai tốt" đạt kết quả cao - giữ vững nề nếp kỉ cương của nhà
trường.
Toàn trường là một khối tập thể đoàn kết cùng quyết tâm phấn đấu xây
dựng, giữ vững danh hiệu trường lá cờ đầu bậc tiểu học của thành phố -
trường tiên tiến xuất sắc nhiều năm - trường có phong trào vở sạch chữ đẹp.
Trong hoạt động dạy và học, giáo viên nhà trường thực hiện nghiêm túc
chương trình, qui chế chuyên môn. Thực hiện có hiệu quả, cải tiến trong quá
trình giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học cho cả 9 môn. Thực hiện tốt
chương trình giảm tải.
Phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi được chú trọng ngay từ đầu năm
học, qua nhiều kì thi học sinh giỏi cấp quận, thành phố trường vẫn đạt giải
đồng đội ở các cấp.
Phong trào phấn đấu trở thành giáo viên giỏi các môn đã được tập thể
giáo viên hưởng ứng. Đội ngũ giáo viên có nề nếp chuyên môn, có ý thức
phấn đấu.
Công tác đoàn đội được quan tâm, thường xuyên và phát triển mạnh
mẽ, tích cực tham gia các phong trào của trường, quận, thành phố.
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
24
Khoá luận tốt nghiệp
Chi hội cha mẹ học sinh đã phối hợp với ban giám hiệu nhà trường suốt
quá trình năm học, tạo điều kiện phối hợp chặt chẽ cùng nhà trường đẩy mạnh
các hoạt động giáo dục.
Chi bộ có 25 đồng chí Đảng viên là lực lượng nòng cốt, gương mẫu
trong mọi phong trào (là chi bộ vững mạnh liên tục trong nhiều năm).
Trường được sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ của Uỷ ban nhân dân từ
phường đến quận, các phòng ban chức năng, phòng giáo dục - đào tạo quận
Đống Đa cho phép nâng cấp dần khang trang sạch đẹp.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, trường còn có rất nhiều khó khăn
trong việc nâng cao chất lượng học tập như: cơ sở vật chất còn thiếu, khung
cảnh sư phạm nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu… Đây là những khó
khăn nhà trường đang phấn đấu khắc phục để đạt tới mục tiêu trở thành
trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia - lá cờ đầu của bậc tiểu học trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
3.2. Đối tượng khảo sát
Đối tượng được chọn để tiến hành khảo sát là các bậc cha mẹ đang có
con học tại trường tiểu học Kim Liên - Hà nội và được chọn theo nguyên tắc
ngẫu nhiên. Tổng số phiếu phát ra là 300 phiếu trong đó có 252 phiếu hợp lệ
cụ thể:
- Cơ cấu giới :
• Nam: 119 phiếu, chiếm 47,2 %.
• Nữ: 133 phiếu, chiếm 52,8%.
- Cơ cấu tuổi:
• Độ tuổi 20 - 30: 20 phiếu, chiếm 7,9%.
• Độ tuổi 31 - 40: 145 phiếu, chiếm 57,5%.
• Độ tuổi 41 - 50: 87 phiếu, chiếm 34,5%.
- Cơ cấu trình độ học vấn:
Nguyễn Hoàng Nga - K45 XHH
25