Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Vai trò của nhà nước Đối với công nghiệp hoá, hiện Đại hoá ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 218 trang )


1
LỜI MỞ ðẦU

1. Tính cấp thiết của ñề tài luận án
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện ñại hóa (CNH, HðH) ñã
và ñang diễn ra ở nhiều nước ñang phát triển. Ngày nay, khi toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới diễn ra sâu rộng do tác ñộng của cách mạng khoa học - công
nghệ thời ñại thì CNH, HðH chỉ có thể thành công và ñược rút ngắn khi có chiến
lược ñúng ñắn, gắn với các chính sách, giải pháp ñiều hành phù hợp với những
biến ñộng của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Thực tế, một số quốc gia
và lãnh thổ ñã sớm thành công trong công nghiệp hoá và gia nhập hàng ngũ
NIEs, trong ñó có ðài Loan. Sự thành công của ðài Loan có nguyên nhân rất
quan trọng là sự ñịnh hướng và ñiều tiết của nhà nước. ðiều ñó ñã ñể lại những
bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HðH theo ñường lối ñổi mới của ðảng ta ñạt
ñược những thành tựu quan trọng. ðất nước ñã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế -
xã hội và bước sang giai ñoạn ñẩy mạnh CNH, HðH nhằm mục tiêu ñưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện ñại vào năm 2020. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế ñang diễn ra ngày một mạnh mẽ thì yêu
cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở nước ta ñang ñứng trước những
thời cơ và thách thức to lớn ñối với CNH, HðH trong ñiều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. ðiều ñó càng khẳng ñịnh vai trò cần thiết
của nhà nước trong ñịnh hướng, ñiều hành CNH, HðH ở nước ta.
ðó là lý do nghiên cứu sinh chọn ñề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà
nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá ở ðài Loan trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận
dụng vào Việt Nam”.

2


2. Tổng quan các công trình ñã nghiên cứu có liên quan ñến luận án
Về vai trò của nhà nước ñối với quá trình CNH, HðH trong hội nhập kinh
tế quốc tế ñã ñược nhiều nhà nghiên cứu ñi sâu phân tích. Nghiên cứu về ðài
Loan ở nước ngoài, có thể nêu ra các công trình như: Chính sách và thể chế
trong quá trình tăng trưởng nhanh của Dahlman & Ousa (1997) [91]; Vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế ðài Loan của Jocl (1994) [89]; Sự can
thiệp của nhà nước trong phát triển hướng ngoại: Lý thuyết tân cổ ñiển và thực
tiễn ðài Loan của Wade (1988) [96]; ðiều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và
vai trò của chính phủ ở các nền kinh tế công nghiệp hoá mới ðông Á của Wade
(1990) [97]; Một số nghiên cứu ñược tập hợp trong công trình Suy ngẫm lại sự
thần kỳ ðông Á của Ngân hàng thế giới (2002) [57] có ñề cập ñến vấn ñề kinh
nghiệm về vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp hóa, hiện ñại hóa ở một số
nước ðông Á. Gần ñây, công trình Nghịch lý của chiến lược ñuổi kịp – Tư duy
lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước của Li Tan (2008) [71] ñã tập
trung nghiên cứu mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước ñể luận giải về vai
trò quan trọng của nhà nước ñối với công nghiệp hoá ở một số nước như Liên Xô
và các nền kinh tế mới nổi ở khu vực ðông Á, trong ñó có ðài Loan…
Ở trong nước, một số nghiên cứu có ñề cập ñến vai trò của nhà nước với
tư cách là một nhân tố tác ñộng ñến tiến trình công nghiệp hoá, hiện ñại hoá ở
một số nước và vùng lãnh thổ ở ðông Á như: Kinh tế ðài Loan - Tình hình và
chính sách của Phạm Thái Quốc (1997) [66]; Công nghiệp hoá ở NIEs ðông Á
và bài học kinh nghiệm ñối với Việt Nam của Lê Bàn Thạch & Trần Thị Tri
(2000) [72]. ðặc biệt, nhiều công trình nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam như: Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước ñang phát triển châu
Á của ðỗ ðức ðịnh (1991) [31]; Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá: Những bài học
thành công của ðông Á do Nguyễn Thị Luyến chủ biên (1998) [50]; Công
nghiệp hoá, hiện ñại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh nghiệm của các nền kinh

3
tế ñang phát triển ở châu Á của ðỗ ðức ðịnh (1999) [32]; Lựa chọn sản phẩm và

thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế ðông
Á do Nguyễn Trần Quế chủ biên (2000) [65]; Một số vấn ñề về công nghiệp hoá,
hiện ñại hoá ở Việt Nam của ðỗ Hoài Nam (2004) [56]; Kinh tế học phát triển
về công nghiệp hoá và cải cách nền kinh tế của ðỗ ðức ðịnh (2004) [34]… ñã
ñề cập và nghiên cứu về các chính sách của nhà nước nhằm thúc ñẩy CNH, HðH
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số nước ðông Á, trong có có ðài Loan và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Tuy nhiên, ñến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có tính
hệ thống về vai trò của nhà nước ðài Loan ñối với CNH, HðH trong hội nhập
kinh tế quốc tế theo giác ñộ lịch sử kinh tế.
3. Mục tiêu của ñề tài luận án
- Làm rõ vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH ở ðài Loan trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước ñối với CNH,
HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài Loan có ý nghĩa thực tiễn với nước ta
hiện nay.
4. Những ñóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH
trong hội nhập kinh tế quốc tế, ñặc biệt với những nước có nền kinh tế ở ñiểm
xuất phát thấp ñang thực hiện CNH, HðH nhằm ñẩy nhanh tiến trình phát triển.
- Tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng về vai trò nhà nước ñối với
CNH, HðH ở ðài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 -
2003) ñể rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong CNH,
HðH.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước ñối với CNH, HðH trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của ðài Loan

4
với nước ta hiện nay. ðồng thời, ñề xuất một số kiến nghị ñể tăng thêm tính khả

thi trong vận dụng các kinh nghiệm ñó.
5. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- ðối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước ñối với CNH,
HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài Loan.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của nhà nước với CNH, HðH trong hội
nhập kinh tế quốc tế bao hàm nhiều vấn ñề nhưng luận án chỉ tập trung nghiên
cứu về việc lựa chọn chiến lược CNH, HðH và các chính sách, giải pháp của
nhà nước tác ñộng vào tiến trình CNH, HðH.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1961 ñến năm 2003. Luận án lựa chọn thời
gian nghiên cứu như vậy vì từ ñầu những năm 1960, ðài Loan ñã chuyển sang
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và từng bước hội nhập
vào ñời sống kinh tế quốc tế. ðến năm 2003, ðài Loan chính thức là thành viên
của WTO ñược khoảng 2 năm (ðài Loan trở thành thành viên chính thức của
WTO từ 01/01/2002). Mục ñích của luận án là làm rõ những ñiều chỉnh trong
chính sách, giải pháp của nhà nước ðài Loan cho phù hợp với những quy ñịnh
của WTO và tác ñộng của nó ñến tình hình kinh tế - xã hội. ðiều này tương ñồng
với Việt Nam khi Việt Nam mới trở thành thành viên của WTO từ 01/01/2007.
Tuy nhiên, về vai trò của nhà nước ðài Loan từ sau năm 2003 ñến nay cũng
ñược luận án nghiên cứu ñể làm rõ vai trò tích cực của nhà nước ñối với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức trong hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án ñã kết hợp sử dụng các phương pháp
lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp ñối chứng so sánh và phương pháp
phân tích kinh tế ñể làm rõ nội dung nghiên cứu. ðồng thời trong nghiên cứu, tác

5
giả ñã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số học giả trong
nước và quốc tế, chủ yếu là kết quả phân tích kinh tế lượng.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài lời mở ñầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
ñược kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp
hoá, hiện ñại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài Loan (thời kỳ 1961 - 2003) và bài học kinh
nghiệm.
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài
Loan vào nước ta hiện nay.


6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ðỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ðẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. NHỮNG VẤN ðỀ VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ðẠI HOÁ TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá
Trong lịch sử xã hội loài người, công nghiệp hoá là con ñường tất yếu ñể
phần lớn các quốc gia trên thế giới phát triển và tiến tới hiện ñại, văn minh. Thực
tiễn ở nhiều nước cho thấy, công nghiệp hoá diễn ra rất phong phú, ña dạng về
mô hình bởi nó là quá trình phức tạp và bao hàm phạm vi rộng lớn. Do thời ñiểm
xuất phát và phương thức tiến hành khác nhau nên bản thân khái niệm công
nghiệp hoá cũng ñược quan niệm theo những cách tiếp cận khác nhau. Theo tổng
kết của UNIDO thì có ñến 128 cách ñịnh nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá.
Thực tế, công nghiệp hoá là một khái niệm mang tính chất lịch sử. Tuỳ
theo góc ñộ nhìn nhận mà người ta nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của công

nghiệp hoá ñể ñưa ra những quan niệm khác nhau. Những quan niệm ñó có thể
quy về một số dạng cơ bản sau:
- Cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp bắt ñầu ở nước Anh và
sau ñó lan sang các nước tư bản khác thì công nghiệp hoá ñược hiểu là ñưa ñặc
tính công nghiệp cho một hoạt ñộng; trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà
máy, các loại công nghiệp [40, tr. 48]. Do vậy, các nước này chủ yếu tập trung
vào phát triển các ngành công nghiệp và sự chuyển biến về kinh tế - xã hội khác
chỉ là hệ quả của phát triển công nghiệp. Quan niệm này có nhiều mặt không hợp
lý: nó không cho thấy mục tiêu cần ñạt của quá trình công nghiệp hoá; nó gần

7
như ñồng nhất quá trình công nghiệp hoá với phát triển công nghiệp; và nó
không thể hiện ñược tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá.
- Khi nền công nghiệp chuyển biến nhanh chóng từ kỹ thuật cơ khí giản
ñơn với máy hơi nước làm ñộng lực sang cơ khí phức tạp với ñộng cơ ñốt trong,
ñiện năng làm ñộng lực thì quan niệm công nghiệp hoá ñã ñược mở rộng, không
chỉ ñơn thuần là phát triển nền công nghiệp thành lĩnh vực ñóng vai trò chủ ñạo
trong nền kinh tế, mà còn là biến tất cả các hoạt ñộng sản xuất khác thành loại
hình hoạt ñộng công nghiệp.
- Từ 1926, Liên Xô bắt ñầu thực hiện công nghiệp hoá theo mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Mặc dù trước ñó chủ nghĩa tư bản ñã phát triển ở mức
ñộ nhất ñịnh nhưng nếu so với phương Tây lúc ñó thì Liên Xô vẫn thiếu một hệ
thống công nghiệp nặng hoàn chỉnh và kinh tế tiểu nông vẫn còn tồn tại khá phổ
biến. Bên cạnh ñó, Liên Xô còn bị phương Tây bao vây phong toả về kinh tế.
Trong bối cảnh ấy, mục tiêu của công nghiệp hoá là tập trung cao ñộ cho phát
triển công nghiệp nặng. ðiều này bao hàm cả ý nghĩa kinh tế và quốc phòng. Do
vậy, công nghiệp hoá ñược quan niệm là “Quá trình xây dựng nền ñại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. ðó là sự phát triển công
nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy…” [40, tr. 49]. Quan niệm này
phù hợp với ñiều kiện của Liên Xô thời kỳ ñó. Trong quá trình thực hiện, mặc dù

có sự chú trọng nhất ñịnh ñến công nghiệp nhẹ và nông nghiệp nhưng bao giờ
công nghiệp nặng cũng ñược coi như một tiền ñề có ý nghĩa quyết ñịnh ñến sự
toàn thắng của công nghiệp hoá cũng như sự sống còn của ñất nước.
- Năm 1963, UNIDO ñưa ra khái niệm: "Công nghiệp hoá là một quá trình
phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
cải quốc dân ñược ñộng viên ñể phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong
nước với kỹ thuật hiện ñại. ðặc ñiểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận
chế biến luôn thay ñổi ñể sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng,
có khả năng ñảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp ñộ cao, ñảm bảo

8
ñạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội". Quan niệm này chứa ñựng sự dung hoà các
ý kiến cho rằng quá trình công nghiệp hoá bao trùm toàn bộ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội nhằm ñạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà còn cả sự tiến bộ
về mặt xã hội [40, tr. 51].
Nhìn chung, mỗi cách quan niệm về công nghiệp hoá trên ñây ñều có
nhân tố hợp lý, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và gắn với những yêu cầu ñặt
ra trong phát triển. Tuy nhiên, những quan niệm này mới chỉ ñề cập ñến khía
cạnh vật chất - kỹ thuật mà chưa ñề cập ñến một vấn ñề cũng rất quan trọng là
khía cạnh cơ chế, thể chế. Bởi ngoài mục tiêu, những nội dung chủ yếu thì
phương thức thực hiện hay cách thức, cơ chế phân bổ sử dụng các nguồn lực
cũng là một vấn ñề hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp ñến sự thành bại
trong công nghiệp hoá.
Từ thực tế ấy, tác giả của luận án cho rằng: Công nghiệp hoá là quá trình
chuyển biến một nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự cấp, tự túc khép kín với
lao ñộng thủ công là chủ yếu sang một nền kinh tế công nghiệp, vận hành theo
cơ chế thị trường dựa trên sự phân công lao ñộng xã hội phát triển ở trình ñộ
cao, với lao ñộng bằng máy móc, kỹ thuật và công nghệ hiện ñại trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế nhằm tăng năng suất lao ñộng xã hội và thúc ñẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.

Với quan niệm như vậy, công nghiệp hoá là quá trình cải biến toàn diện
nền kinh tế. Ở khía cạnh vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hoá là quá trình chuyển
biến căn bản trình ñộ kỹ thuật của nền kinh tế, từ tình trạng lạc hậu, dựa vào
phương pháp thủ công là chủ yếu sang nền kinh tế sản xuất dựa vào tiến bộ khoa
học - công nghệ mới nhất ñem lại năng suất, chất lượng và hiệu suất cao. Còn ở
khía cạnh cơ chế, thể chế thì công nghiệp hoá là quá trình cải biến thể chế và cấu
trúc của nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, từ nền kinh tế hiện vật - tự cấp, tự
túc, khép kín sang nền kinh tế dựa trên nguyên tắc thị trường. Cả lý thuyết và
thực tiễn ñều ñã chứng minh, cơ chế thị trường thường là một phương thức tốt ñể

9
tổ chức hoạt ñộng kinh tế, nó cho phép phân bổ các nguồn lực xã hội một cách
hiệu quả. Phát triển kinh tế thị trường không chỉ là ñiều kiện tiền ñề mà là ñiều
kiện không thể thiếu cho cả quá trình công nghiệp hoá không chỉ ở các nước phát
triển ñi trước mà cả ở các nước ñang phát triển ngày nay.
ðến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau trong việc xác
ñịnh hệ thống các tiêu chí ñánh giá về công nghiệp hoá bởi các quan ñiểm ñược
ñưa ra bao quát một diện rộng nhưng lại thiếu sự phân loại và xác ñịnh rõ chuẩn
mực với từng lĩnh vực, từng yếu tố. Mặc dù vậy, tác giả luận án cho rằng, có thể
dựa vào 3 nhóm tiêu chí chủ yếu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phát triển bền vững ñể ñánh giá về trình ñộ công nghiệp hoá. ðây là những
yếu tố cơ bản phản ánh tính chất và nội dung của quá trình công nghiệp hoá,
chúng vừa phản ánh ở tầm khái quát, vừa phản ánh ở giác ñộ cụ thể, ño lường
ñược cả những thay ñổi về lượng và những biến ñổi về chất.
Những tiêu chí của từng nhóm này bao gồm: i) Nhóm tiêu chí về tăng
trưởng: tăng trưởng GDP (%), tăng trưởng GDP theo ñầu người (%), GDP bình
quân ñầu người; ii) Nhóm tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu: cơ cấu ngành kinh tế,
cơ cấu công nghiệp (hàng chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu xuất khẩu (hàng
chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu lao ñộng và dân cư, cơ cấu vùng (mức ñộ ñô
thị hoá)…; iii) Nhóm tiêu chí về phát triển bền vững: công bằng xã hội, xoá ñói

giảm nghèo, tỷ lệ việc làm hay thất nghiệp, giáo dục, chất lượng sống, môi
trường chính trị - xã hội - kinh tế, năng lực thể chế, môi trường tự nhiên (mức ñộ
huỷ hoại, phục hồi). Ngoài ra có thể có các tiêu chí tham khảo khác: Chỉ số TFP;
Chỉ số phát triển người (HDI); Vị trí trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh.
1.1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá
Hiện ñại hoá ñược hiểu là toàn bộ các quá trình, các dạng cải biến, các
bước quá ñộ từ các trình ñộ kinh tế - kỹ thuật khác nhau ñang tồn tại lên trình ñộ
mới cao hơn dựa trên những thành tựu của khoa học - công nghệ. Ngày nay, hiện

10
ñại hoá ñược thừa nhận rộng rãi và ñược hiểu theo nghĩa rộng không chỉ ñơn
thuần là hiện ñại hoá công nghiệp mà còn là hiện ñại hoá nền kinh tế. Do vậy,
khi xét về bản chất, khái niệm hiện ñại hoá thường ñược các nhà lý luận cho là
hình thức ñặc biệt của sự phát triển xã hội.
Thực tế cho thấy, công nghiệp hoá luôn gắn chặt với hiện ñại hoá và chính
hiện ñại hoá là tiền ñề quyết ñịnh sự thành công của công nghiệp hoá. Các nhà
kinh tế học hiện ñại thường dùng phạm trù công nghiệp hoá như một tiêu chuẩn
phân ñịnh xã hội truyền thống và xã hội hiện ñại cũng như ñể phân ñịnh các thời
kỳ, các dạng hiện ñại hoá ñã và ñang diễn ra trong lịch sử xã hội loài người.
Thế kỷ XX ñã chứng minh, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ ñã ñưa
ñến những bước nhảy kỳ diệu trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và ñưa
xã hội loài người lên trình ñộ phát triển mới. Khoa học ñã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, nó thấm sâu vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất và thường
xuyên tạo ra những biến ñổi về chất trong phát triển. Chính sự phát triển của
khoa học và công nghệ ñã ñánh dấu và mở ra những bước ngoặt mới trong công
nghiệp hoá. Cách mạng khoa học – công nghệ là hình thức phổ biến trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất và ñời sống xã hội. Do ñó, khoa học – công
nghệ là một trong những phương tiện quan trọng nhất ñể giải quyết các vấn ñề
xã hội, là con ñường hiện ñại hoá của các quốc gia trên thế giới.
Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế cho thấy, bản thân công

nghiệp hoá ñã bao hàm yêu cầu ñạt tới trình ñộ phát triển kinh tế hiện ñại nhất
hiện có vào thời ñiểm tiến hành. Quá trình ấy thúc ñẩy việc giải quyết nhanh
chóng những nhiệm vụ mà thực tiễn ñặt ra, ñồng thời ñẩy nhanh sự ứng dụng
những thành tựu của nó vào sản xuất. Trình ñộ của các hoạt ñộng sản xuất không
cố ñịnh theo một chuẩn mực kỹ thuật – công nghệ cứng mà nó luôn ñược nâng
cao, ñược hiện ñại hoá theo sự tiến triển của thời ñại. Như vậy, công nghiệp hoá
luôn phải ñi ñôi với hiện ñại hoá.

11
Người ðài Loan quan niệm CNH, HðH là quá trình chuyển biến từ một
xã hội trong ñó nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một xã hội hiện
ñại, ở ñó các ngành kinh tế, ñặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ liên tục
ñược nâng cấp về trình ñộ kỹ thuật – công nghệ theo sự tiến triển của thời ñại,
mang lại giá trị gia tăng cao, cơ cấu kinh tế hiện ñại, nhằm mục ñích cao nhất là
ñạt tới trình ñộ của một nền kinh tế phát triển.
Theo quan ñiểm của ðảng ta, “CNH, HðH là quá trình chuyển ñổi căn
bản toàn diện các hoạt ñộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao ñộng thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao ñộng cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện ñại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học và công nghệ, tạo ra năng
suất lao ñộng xã hội cao” [25, tr. 43].
1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ở hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, làn sóng toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ
và tác ñộng ñến mọi mặt của ñời sống kinh tế – chính trị – xã hội trên toàn thế
giới. Trong ñó, toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và là ñộng lực
thúc ñẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung và cũng là xu thế
thể hiện rõ nhất. ðiều này biểu hiện ở sự mở rộng mức ñộ và quy mô thương mại
thế giới; sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao ñộng trên phạm vi toàn cầu; sự
gia tăng các quá trình liên kết, hội nhập theo hướng tự do hoá làm xuất hiện hàng

loạt các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực dưới nhiều cấp ñộ; sự kết nối các nền
kinh tế quốc gia và khu vực thành một mạng trên quy mô toàn cầu. Về mặt bản
chất, toàn cầu hóa kinh tế xuất hiện gắn liền với xu thế vận ñộng, phát triển của
nền sản xuất xã hội, ñược thúc ñẩy bởi lợi ích của phân công lao ñộng quốc tế,
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ và tính xã hội hoá ngày càng
cao của lực lượng sản xuất.

12
Thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế ñã xuất hiện trong vài thập kỷ gần ñây.
Mặc dù cho ñến nay quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn có những
ñiểm chưa thống nhất nhưng tựu chung lại, có thể cho rằng: Hội nhập kinh tế
quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham
gia vào các ñịnh chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự
do hoá thương mại, ñầu tư và các hoạt ñộng kinh tế ñối ngoại khác; là sự gắn
kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới,
trong ñó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những quy ñịnh
chung của các tổ chức ñó.
Xét về bản chất thì hội nhập kinh tế quốc tế là sự ñan xen, gắn bó và lệ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. ðó cũng là
quá trình xoá bỏ từng bước và toàn bộ các rào cản về thương mại và ñầu tư giữa
các quốc gia, góp phần khơi thông các luồng di chuyển nguồn lực trong và ngoài
nước, tạo ñiều kiện cho việc mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ.
Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ những cơ sở kinh
tế xã hội hiện thực của thế giới hiện ñại, mang tính khách quan không phụ thuộc
vào ý chí của một quốc gia nào. ðiều ñó khẳng ñịnh hội nhập kinh tế quốc tế
như một tất yếu mang tính thời ñại.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như: tham gia
vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế; tham gia và mở rộng thương mại quốc
tế; tham gia vào các hoạt ñộng tài chính quốc tế v.v Tham gia các hình thức
liên kết kinh tế là một biểu hiện của hội nhập kinh tế quốc tế. ðó là việc chính

phủ các quốc gia ký kết với nhau các hiệp ñịnh tạo nên khuôn khổ chung cho sự
phối hợp, ñiều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các nước với các hình thức chủ yếu là:
Hiệp ñịnh thương mại song phương, Khu vực mậu dịch tự do, Liên minh thuế
quan, Thị trường chung, Liên minh tiền tệ Tuy nhiên, mỗi hình thức trên ñây
cũng có những ñiểm khác cơ bản và ñiều ñó thể hiện cấp ñộ và mức ñộ hội nhập.

13
Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế tế quốc tế ñang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và có tác ñộng nhiều mặt ñến sự phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới. Trong bối cảnh ñó, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển ñến ñâu
cũng ñều có xu hướng ñẩy mạnh các quan hệ thương mại và ñầu tư quốc tế.
Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng
chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã hội nhập thiếu sự chuẩn
bị những ñiều kiện cần thiết, không phát huy ñược nội lực hoặc không chủ ñộng
hội nhập cũng ñã bị trả giá.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang ñến những cơ hội nhưng cũng ñặt ra những
thách thức to lớn, ảnh hưởng ñến tất cả các bộ phận trong nền kinh tế: cá nhân,
hộ gia ñình, công ty, ngành, quốc gia và vùng lãnh thổ.
Những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại là rất lớn: Các nước,
nhất là các nước ñang phát triển, có thể tiếp nhận những nguồn lực vật chất,
những tri thức và kinh nghiệm trong hoạt ñộng thực tiễn ở cả tầm vĩ mô và tầm
vi mô; Có ñiều kiện nắm bắt thông tin và tiếp nhận chuyển giao những thành
tựu, những ñột phá về khoa học – công nghệ, về tổ chức và quản lý sản xuất kinh
doanh; Tạo khả năng mở rộng thị trường mới, mở rộng quan hệ với những ñối
tác mới cho các nước khi những hàng rào hạn chế ñối với các hoạt ñộng thương
mại và ñầu tư quốc tế ñược dỡ bỏ.
Bên cạnh ñó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang ñến những thách thức to
lớn mà các nước phải ñối mặt và tìm cách vượt qua nhất là sức ép buộc các quốc
gia, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường ngày
càng khắc nghiệt và nguy cơ gia tăng sự bất công, bất bình ñẳng thu nhập trong

nội bộ từng nước và giữa các nước.
ðối với các nước ñang phát triển, khi nền kinh tế còn yếu kém, sức cạnh
tranh còn thấp, trình ñộ quản lý còn nhiều hạn chế thì hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu là một tất yếu mang tính khách quan. Nó ñưa ñến những kỳ vọng về sự

14
gia tăng quy mô, nhịp ñộ tăng trưởng, nâng cấp các ngành kinh tế ñồng thời có
cơ hội ñể giải quyết vấn ñề ñói nghèo và bất bình ñẳng xã hội từ việc khai thác,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Do vậy, các nước ñang phát triển
một mặt cần phải chủ ñộng, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ñể khai thác, tận
dụng những cơ hội ñó nhưng mặt khác cũng phải hết sức chú trọng tới hình thức
và bước ñi trong quá trình hội nhập nhằm ñảm bảo các lợi ích của quốc gia cả về
kinh tế – chính trị và xã hội của mình.
Thời gian qua, hầu hết các nước ñang phát triển ñều thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế nhưng kết quả ñạt ñược lại không hoàn toàn giống nhau. Vấn ñề
ñặt ra với các nước này là cần phải có phương thức và cách thức quản lý quá
trình hội nhập ñể ñạt ñược mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ñề ra ñó là ñẩy
nhanh tốc ñộ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước
ñi trước, nâng cao chất lượng ñời sống nhân dân và khẳng ñịnh vị thế của mình
trong nền kinh tế thế giới.
1.1.2.2. Mục tiêu của CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế
CNH, HðH là một quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực của
ñời sống kinh tế – xã hội của mỗi nước với mục tiêu chung là thúc ñẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phát triển xã hội, cải thiện ñời sống vật chất
và tinh thần của dân cư. Trong ñiều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, mục tiêu cụ
thể của CNH, HðH là:
- Thứ nhất, trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các hoạt ñộng
trong nền kinh tế nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về lực lượng sản xuất
dựa trên việc tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, các tri
thức mới trong sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất, nâng cao trình ñộ của người

lao ñộng ñể nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của các ngành sản xuất,
phát triển ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

15
- Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu nội tại mỗi ngành
kinh tế theo hướng hiện ñại. Trong giai ñoạn ñầu CNH, HðH, xu hướng là tỷ
trọng của ngành nông nghiệp sẽ giảm dần tuy giá trị tuyệt ñối vẫn tăng. Công
nghiệp phát triển mạnh, dần vươn lên chiếm vị trí hàng ñầu và ñưa nền kinh tế
chuyển sang trạng thái của nền kinh tế công nghiệp. Cơ cấu công nghiệp cũng sẽ
dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp chế biến. Ở giai ñoạn tiếp
nối, tỷ trọng của công nghiệp sẽ giảm dần nhưng trong cơ cấu nội tại của nó, tỷ
trọng các ngành dựa trên kỹ thuật, công nghệ cao sẽ tăng nhanh. ðồng thời, tỷ
trọng giá trị ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế sẽ ngày càng gia tăng, các loại
hình dịch vụ trình ñộ cao như dịch vụ ngân hàng – tài chính, bảo hiểm, tư vấn,
khoa học và công nghệ, y tế, giáo dục – ñào tạo sẽ phát triển mạnh và chiếm
ưu thế trong cơ cấu ngành dịch vụ.
- Thứ ba, tạo ra những chuyển biến cơ bản về thể chế và xã hội. Việc thực
hiện CNH, HðH sẽ ñưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu kém
phát triển, ñồng thời tạo nên những biến ñổi hết sức sâu sắc về mặt thể chế kinh
tế và xã hội. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ mang nặng tính chất tự cung, tự
cấp sẽ dần chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển; cấu trúc lao ñộng xã hội
và dân số cũng có sự biến ñổi theo hướng tăng tỷ trọng của lao ñộng phi nông
nghiệp, lao ñộng kỹ thuật, dân cư ñô thị; hình thành tư duy và nếp sống công
nghiệp Nói cách khác, sự biến ñổi về mặt thể chế và xã hội trong quá trình
CNH, HðH là quá trình chuyển dần từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn
minh công nghiệp và hướng ñến nền văn minh trí tuệ.
- Thứ tư, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Ngày nay, quá trình tự do hoá
thương mại và quốc tế hoá sản xuất ñã tác ñộng sâu sắc ñến sự phát triển của hầu
hết các nước. Sự mở rộng của hoạt ñộng thương mại quốc tế, các mối liên kết
kinh tế quốc tế ñược thúc ñẩy và tăng cường ñã tạo ra những cơ hội to lớn cho

tăng trưởng nhờ ñịnh hướng xuất khẩu và mở ra cơ hội cho các nước tham gia
vào quá trình phân công lao ñộng quốc tế. Nền kinh tế mỗi quốc gia trở thành

16
một bộ phận của nền kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của những biến ñộng kinh
tế – chính trị – xã hội của thế giới và có tác ñộng tương hỗ ở những mức ñộ khác
nhau với nền kinh tế của các quốc gia khác. Mỗi nền kinh tế, dù lớn hay nhỏ, ñã
phát triển cao hay ñang phát triển, nếu biết phát huy các lợi thế của mình sẽ trở
thành một bộ phận không thể thiếu ñược trong nền kinh tế thế giới. Như vậy, các
nước ñang phát triển ngày nay cần phải biết gắn nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, phải hướng tới khai thác lợi thế so sánh của ñất nước trong mối
liên kết kinh tế với các quốc gia thuộc mọi trình ñộ ñể phát triển. Việc mở rộng
các quan hệ kinh tế quốc tế vừa là nội dung, vừa là phương thức thực hiện CNH,
HðH. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước là một trong những ñiều kiện trọng
yếu ñể phát triển các ngành kinh tế. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế sẽ tạo ñiều
kiện khai thác các nguồn lực từ bên ngoài, giải quyết khó khăn về vốn ñầu tư, về
công nghệ và kinh nghiệm quản lý ñể ñẩy nhanh quá trình CNH, HðH,.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng ñến CNH, HðH trong hội nhập kinh tế
quốc tế
Trong lịch sử kinh tế thế giới, một số nước như Liên Xô giai ñoạn 1926 –
1937, Trung Quốc trước năm 1978, một số nước ASEAN và một số nước ở châu
Mỹ Latinh trong những năm 1950, 1960 ñã tiến hành công nghiệp hoá theo mô
hình khép kín, tự cấp tự túc, không hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thực chất
ñó là mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (công nghiệp hoá hướng nội).
Với mô hình này, sự thành công hay thất bại của quá trình công nghiệp hoá hoàn
toàn phụ thuộc vào các nguồn lực trong nước, phụ thuộc vào cơ chế, chính sách
huy ñộng, phân bổ sử dụng các nguồn lực của nhà nước ở các nước này. Thực tế
chỉ có rất ít nước thành công với mô hình này và chỉ trong một thời gian nhất
ñịnh, còn lại ñại ña số các nước ñều không ñạt ñược những mục tiêu ñề ra, thậm
chí còn rơi vào tình trạng trì trệ, tụt hậu trong phát triển.

Tiến hành CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế về thực chất là tiến
hành cuộc ñua tranh phát triển quốc tế. Quá trình này vừa chịu tác ñộng của

17
những nhân tố nội tại của nền kinh tế vừa chịu tác ñộng của những nhân tố bên
ngoài. Các nhân tố bên trong bao gồm các nguồn lực (vốn, công nghệ, nhân lực),
thể chế, cơ chế huy ñộng và phân bổ sử dụng các nguồn lực, dung lượng thị
trường ðặc biệt trong hội nhập kinh tế quốc tế, các nhân tố bên ngoài ngày
càng có ảnh hưởng to lớn ñến quá trình CNH, HðH. ðó là:
- Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện ñại thúc ñẩy sự phát
triển của phân công lao ñộng quốc tế
Từ những năm 1950, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thời ñại diễn
ra mạnh mẽ tạo ra những bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Nó không chỉ
ñem lại sự phát triển của lực lượng sản xuất, hướng nền kinh tế một số nước phát
triển trên thế giới sang chiều sâu mà nó còn tác ñộng mạnh mẽ ñến phân công
lao ñộng ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế và dẫn ñến hình thành trật tự mới
về phân công lao ñộng quốc tế. ðồng thời, chính phân công lao ñộng quốc tế lại
tạo ra sự lệ thuộc giữa các quốc gia trong toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm và
cung cấp dịch vụ.
Sự hình thành mạng lưới sản xuất xuyên quốc gia ñược hỗ trợ bởi công
nghệ thông tin ñã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan
niệm về phân công lao ñộng quốc tế trong bối cảnh mới cũng ñược mở rộng:
không chỉ bổ sung cho nhau bằng cách mua bán các sản phẩm (dù ñó là sản
phẩm hoàn chỉnh, nguyên liệu thô hay bán thành phẩm và các linh kiện rời) mà
là sự phân công lao ñộng mang tính trực tiếp ở bất kỳ khâu nào của chu trình
hoạt ñộng sản xuất kinh doanh: kể từ ý tưởng, nghiên cứu, chế thử, sản xuất
hàng loạt, maketing, tiêu thụ, dịch vụ sau bán hàng Hoạt ñộng kinh tế hiện nay
ñã mang tính toàn cầu về mặt tổ chức. ðồng thời, xu hướng quốc tế hóa về sức
lao ñộng cũng ngày càng thể hiện rõ. Quá trình tự do hóa trong di cư lao ñộng và
xuất khẩu lao ñộng dần hình thành thị trường lao ñộng quốc tế. Nó trực tiếp ảnh

hưởng ñến cơ cấu lao ñộng của quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu lao ñộng và ảnh

18
hưởng trực tiếp ñến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội trong phát triển
của từng quốc gia.
Thực tế cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin ñã làm
cho không gian mất dần ý nghĩa. Tri thức, công nghệ, lao ñộng, quản lý, hàng
hóa, tiền tệ không bị bó hẹp trong biên giới một quốc gia. Việc tổ chức sản
xuất và khai thác thị trường trong phạm vi một nước ñã nhanh chóng chuyển
sang mục tiêu sản xuất và khai thác thị trường trên phạm vi toàn thế giới. Xu thế
ñó vừa là cơ sở, vừa là ñộng lực thúc ñẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển
và ngày càng trở nên ña dạng hơn. Việc trở thành bộ phận của phân công lao
ñộng quốc tế và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ ñem lại những lợi ích to
lớn ñối với các quốc gia. ðiều ñó cho thấy, các nước ñi sau trong CNH, HðH
cần phải xác ñịnh rõ mục tiêu, bước ñi trong phát triển ñể tham gia có hiệu quả
vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế, hội nhập và ñứng vững trong nền kinh
tế toàn cầu hoá.
- Thứ hai, các công ty xuyên quốc gia ngày càng phát triển mạnh, ñóng
vai trò then chốt và chi phối nền kinh tế thế giới
Từ nửa cuối thế kỷ XX, các công ty lớn của các nước tư bản ñã mở ñầu
làn sóng mở rộng hoạt ñộng vượt ra ngoài biên giới quốc gia, thực hiện kinh
doanh xuyên quốc gia, lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt ñộng chính. Thời
gian gần ñây xuất hiện xu hướng một số TNCs lớn sáp nhập với nhau hình thành
các tập ñoàn kinh tế xuyên quốc gia khổng lồ. TNCs cỡ lớn ñều có một hệ thống
kinh doanh lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng trên phạm vi rộng, hình thành
mạng lưới kinh tế toàn cầu, bao trùm hầu hết các khu vực, các quốc gia trên toàn
thế giới. Chính ñiều ñó ñã làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lẫn nhau và hội nhập
chức năng của nền kinh tế thế giới. Từ thực trạng này mà các nhà kinh tế ñã ñưa
ra thuật ngữ “chuỗi giá trị toàn cầu”. Nó ñược quan niệm là quá trình biến một
sản phẩm hay một dịch vụ phát triển từ ý tưởng, qua nghiên cứu thử nghiệm ñến

sản xuất rồi ñưa ñến tay người tiêu dùng và cuối cùng là các hoạt ñộng dịch vụ

19
do hàng loạt các hãng, các công ty khác nhau ñảm trách, tạo thành một mạng
lưới sản xuất, lắp ráp, phân phối nằm ở các quốc gia khác nhau trên thế giới.
ðiểm ñáng chú ý là TNCs ngày nay ñã có những biến ñổi lớn về chất.
Việc tập trung nỗ lực nghiên cứu ñổi mới hệ thống sản xuất nhằm làm giảm chi
phí ñầu vào, tăng khối lượng sản xuất và khuyến khích tiêu dùng hàng loạt
không còn là hướng ưu tiên. Các công ty hiện ñại ngày nay tập trung vào ñổi mới
sản phẩm nhằm gia tăng tốc ñộ tiêu dùng. ðể thu ñược lợi nhuận các công ty
nhất thiết phải có hệ thống sản xuất riêng của mình nhưng quy mô của các công
ty mẹ ñược giảm bớt và TNCs chỉ tập trung nắm giữ hệ thống tài chính và bản
quyền, những lĩnh vực ñem lại khoảng 70% trên tổng số lợi nhuận cho công ty từ
toàn bộ chu trình hoạt ñộng kinh doanh. Phần lớn hệ thống sản xuất, phân phối
của công ty ñược chuyển sang các nước kém phát triển hơn, nơi có chi phí sản
xuất thấp hơn và có thị trường tiêu thụ tại chỗ. Như vậy, sự hình thành và phát
triển mạng lưới sản xuất quốc tế ñã ñem lại cho hoạt ñộng sản xuất và dịch vụ
trên phạm vi toàn cầu những phương thức liên kết mới với vai trò ñầu tầu của
TNCs. Sự phát triển của phân công lao ñộng quốc tế ñã phát triển vượt qua giai
ñoạn chuyên môn hoá giữa các ngành và chuyển dần sang quá trình chuyên môn
hoá sâu trong nội bộ ngành, chuyên môn hoá theo ñối tượng, chi tiết.
Những xu thế trên có ảnh hưởng rất lớn ñến quá trình CNH, HðH ở các
nước ñang phát triển. Một mặt, nó cho phép các nước ñi sau ngay từ ñầu có thể
tham gia vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế, ñảm nhiệm những khâu riêng
biệt của một nhà máy toàn cầu cho dù chưa thể có một hệ thống công nghệ hoàn
chỉnh và hiện ñại. Nói cách khác, các nước ñang phát triển có thể tiếp nhận hệ
thống sản xuất và phân phối từ TNCs khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt
khác, xu hướng sáp nhập và bành trướng vai trò của TNCs cũng ñặt ra những
thách thức mới cho các nước ñang phát triển. Những biến ñổi cơ cấu kinh tế của
các nước này dường như khó tránh khỏi sự lệ thuộc vào chiến lược toàn cầu của

TNCs hay của các hãng ñầu tầu. Sự liên kết với TNCs sẽ tạo ñiều kiện phát triển

20
một số ngành công nghiệp mới và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của
các ngành ñó. Tuy nhiên, các hoạt ñộng ñầu tư và việc chiếm lĩnh thị trường của
TNCs có thể làm xuất hiện những nguy cơ với những nước ñang phát triển, ñó là
có thể mất khả năng kiểm soát và ñiều tiết ñối với một số ngành trong quá trình
hội nhập khi sức mạnh ñộc quyền và ñộc quyền nhóm ñược khai thác nhằm tăng
cường và củng cố sự kiểm soát của TNCs ñối với các nguồn lực và lợi nhuận.
- Thứ ba, sự gia tăng ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế
ñối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế
Thực tế, các ñịnh chế quốc tế ra ñời nhằm ñáp ứng ñòi hỏi của xu thế vận
ñộng của nền kinh tế thế giới và chính sự tồn tại và hoạt ñộng của chúng lại thúc
ñẩy hơn nữa quá trình toàn cầu hóa. Thông qua các quy ñịnh của mình, các tổ
chức kinh tế, tài chính thế giới tham gia vào ñiều chỉnh quan hệ kinh tế, tài
chính, thương mại thế giới, ñiều chỉnh chính sách của các quốc gia theo chuẩn
mực quốc tế.
Ngày nay, quá trình tự do hoá thương mại ngày càng gia tăng trong khuôn
khổ của các hiệp ñịnh thương mại trên phạm vi toàn cầu (WTO), khu vực
(NAFTA, AFTA, v.v ) cũng như các hiệp ñịnh thương mại tự do song phương
và ña phương (FTAs). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia có
chủ quyền không còn là chủ thể duy nhất có vai trò quyết ñịnh chính sách kinh tế
mà là sự tồn tại ñồng thời của nhiều ñịnh chế khác như EU, APEC, WB, IMF,
WTO Các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế có uy tín ñang chi phối hoạt ñộng
thực tiễn và có thể làm thay ñổi các chính sách kinh tế của quốc gia thành viên
hoặc các quốc gia có nguyện vọng gia nhập. Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia, các nền kinh tế sẽ phải tuân thủ những thỏa thuận chung. Một nước
hoặc một nền kinh tế sẽ không thể ñơn phương tự áp ñặt chính sách thuế quan
hay các biện pháp phi thuế quan ñể bảo hộ sản xuất trong nước mà phải tuân thủ
những thỏa thuận chung. ðiển hình như những quy ñịnh mới của WTO về xuất

nhập khẩu (thuế quan, trợ cấp xuất khẩu, thương quyền, hạn chế xuất khẩu,

21
v.v ), về ñầu tư nước ngoài (tỷ lệ nội ñịa hoá, tỷ trọng hàng xuất khẩu, v.v ),
về sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh và một số quy ñịnh khác có ảnh hưởng
rất lớn ñến các nước trong việc lựa chọn chính sách phát triển cũng như ảnh
hưởng ñến những hoạt ñộng của các doanh nghiệp ở các quốc gia ñó. Nói cách
khác, các quốc gia, các nền kinh tế thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ phải tự
ñiều chỉnh hệ thống luật pháp, chính sách cho phù hợp với chuẩn mực chung. ðó
là những thách thức to lớn với những nước tiến hành CNH, HðH từ ñiểm xuất
phát thấp, chưa ñủ sức cạnh tranh bình ñẳng trong nền kinh tế toàn cầu, thậm chí
ngay ở thị trường nội ñịa mà không thể áp dụng những biện pháp hỗ trợ, bảo hộ
như nhiều nước ñã thực hiện trước ñó. ðiều ñó cũng ñặt ra những yêu cầu về lựa
chọn lộ trình, bước ñi của hội nhập kinh tế quốc tế và chính sách CNH, HðH.
- Thứ tư, xu hướng ñối thoại, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia ngày càng
mở rộng và phát triển
Sau khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng ñối thoại, hợp tác ñã mở
ra một giai ñoạn phát triển mới của nền kinh tế thế giới. Hầu hết các quốc gia
ñều tập trung ñiều chỉnh chiến lược phát triển, trong ñó ưu tiên mọi nguồn lực
cho hợp tác và phát triển kinh tế. “ða dạng hoá và ña phương hóa” trong quan hệ
kinh tế quốc tế ñã trở thành phương châm chủ ñạo của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, cả các nước phát triển và các nước ñang phát triển. Liên kết và hợp tác
kinh tế ñã không ngừng mở rộng và phát triển trên quy mô toàn cầu. Như vậy,
với các nền kinh tế ñi sau trong CNH, HðH, việc hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế toàn cầu sẽ có cơ hội tiếp cận những nguồn lực quan trọng từ bên ngoài
và tham gia ñược vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế ñể thực hiện những
mục tiêu kinh tế – xã hội ñề ra.
Nói tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế cùng với sự phát triển của khoa học –
công nghệ hiện ñại, ñặc biệt là công nghệ thông tin ñã làm cho không gian kinh
tế mở rộng, các ñịnh chế kinh tế quốc tế ñược áp dụng một cách phổ biến hơn

vừa tạo ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trên phạm vi toàn thế

22
giới. Các nước công nghiệp phát triển ñang chuyển ñổi cơ cấu nền kinh tế sang
một trạng thái mới ñược ñặc trưng bằng sự gia tăng vượt trội của khu vực dịch
vụ so với hai khu vực sản xuất vật chất. Bước chuyển ñổi này ñang có xu hướng
gia tăng, kéo theo sự chuyển ñổi ở những nước chậm phát triển hơn và tạo ra làn
sóng chuyển ñổi cơ cấu lan truyền trên phạm vi toàn thế giới, xác ñịnh tính chất
chuyển ñổi sang xã hội “hậu công nghiệp” trên quy mô toàn cầu.


Trong bối cảnh mới, những dự ñịnh về phân bổ nguồn lực ñầu tư không
còn hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng nước. Sự phát triển và
dịch chuyển cơ cấu kinh tế của một quốc gia sẽ chủ yếu phụ thuộc vào sức cạnh
tranh ñể có ñược chỗ ñứng vững chắc trên thị trường và khả năng ñiều chỉnh linh
hoạt ñể có thể ứng phó, kịp thời thích nghi với những biến ñộng trên thị trường
thế giới. ðiều ñó cho thấy, sự nghiệp CNH, HðH ở các nước ñang phát triển
ngày nay cần ñược xem xét theo cách tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là
muốn thực hiện ñược các mục tiêu ñặt ra trong CNH, HðH thì ñiều quan trọng
trước tiên là các nước này phải biết xác ñịnh vị trí của mình và làm thế nào ñể
trở thành một mắt xích của chuỗi giá trị toàn cầu. Nó vừa là yêu cầu bắt buộc
nhưng cũng là cơ hội cho các nền kinh tế ñang phát triển. Tuy nhiên, vấn ñề ñặt
ra là làm thế nào ñể gia nhập, chen chân vào ñược mạng lưới thị trường vốn ñã
và ñang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Bên cạnh ñó, các nước ñang phát triển và
các doanh nghiệp của nó cũng cần phải liên tục nâng cấp, cải thiện vị thế cạnh
tranh của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách chuyển ñổi từ mắt khâu có
giá trị gia tăng thấp sang mắt khâu có giá trị gia tăng cao hơn hoặc bằng cách
nâng cao năng lực cạnh tranh ở chính ngay mắt khâu ñang chịu trách nhiệm.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, với các nước ñang phát triển ngày nay
tiến hành CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế thì việc xác ñịnh mục tiêu,

bước ñi của CNH, HðH cũng như lựa chọn những giải pháp thực hiện một mặt
phải căn cứ vào ñiều kiện cụ thể bên trong nhưng mặt khác cần hết sức chú ý ñến
những yếu tố tác ñộng từ bên ngoài. Vấn ñề quan trọng là các nước này cần phải

23
tạo ñược cơ chế thích hợp nhằm tận dụng có hiệu quả những tác ñộng tích cực
mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, nhất là việc huy ñộng những
nguồn lực về vốn, công nghệ tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm quản lý;
thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới ñể ñẩy nhanh tiến trình CNH, HðH.
ðồng thời, các nước này cũng cần có chính sách hội nhập với lộ trình, bước ñi
thích hợp và các chính sách ñiều chỉnh kinh tế nhằm hạn chế ñược những tác
ñộng tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế ñối với tiến trình CNH, HðH.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ðỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ðẠI
HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Vai trò của nhà nước ñối với sự phát triển kinh tế ñược thể hiện ngay
trong lôgic khách quan về sự ra ñời của nhà nước. Phạm trù vai trò của nhà nước
thể hiện khái quát các chức năng của nhà nước trong mối liên hệ giữa nhà nước
và xã hội, thể hiện ñặc trưng cho bản chất của nhà nước. Trong bất cứ chế ñộ xã
hội nào thì lĩnh vực kinh tế cũng là lĩnh vực ñóng vai trò quan trọng nhất vì nó là
nền tảng cho mọi lĩnh vực hoạt ñộng xã hội khác. Do vậy, trong mọi chức năng
của nhà nước ñều bao hàm các nội dung kinh tế, mang cái cốt vật chất là các
quan hệ kinh tế.
ðể thực hiện chức năng của mình ñối với sự phát triển kinh tế, nhà nước
có thể sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, kế hoạch, các công cụ tài
chính, tiền tệ, kinh tế nhà nước, bộ máy nhà nước v.v Nhưng xét cho cùng,
hoạt ñộng ban hành và thực thi chính sách thể hiện nội dung và phương thức
thực hiện chức năng của nhà nước, cũng chính là sự thể hiện vai trò của nhà
nước. Bởi chính sách của nhà nước là tổng thể các chủ trương, quan ñiểm chính
thức của nhà nước cũng như hoạt ñộng tổ chức thực thi các chủ trương, quan
ñiểm ñó. Kế hoạch, các công cụ tài chính, tiền tệ hay pháp luật cũng chính là các

dạng ñặc biệt của chính sách. Thông qua các chính sách nhà nước tác ñộng vào
nền kinh tế, có thể thúc ñẩy hoặc kìm hãm quá trình phát triển kinh tế.

24
1.2.1. Một số lý thuyết về vai trò của nhà nước ñối với sự phát triển kinh tế
Trong lịch sử, ñã có nhiều lý thuyết kinh tế bàn về vai trò của nhà nước
ñối với sự phát triển kinh tế với những quan ñiểm chưa ñồng nhất, thậm chí có
những khía cạnh là trái ngược nhau. Theo những cách tiếp cận khác nhau có thể
khái quát các trường phái lý thuyết ñề cập ñến vai trò của nhà nước như sau:
Thứ nhất, về các lý thuyết kinh tế học
Theo lý thuyết kinh tế chính thống, thị trường là phương thức hữu hiệu
nhất của xã hội loài người trong ñiều tiết các hoạt ñộng kinh tế và do vậy, nó là
công cụ hữu hiệu nhất ñối với các quốc gia kém phát triển ñể tiến lên hiện ñại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ XX, nhiều quốc gia phát triển ñi sau lại sử dụng nhà
nước như một công cụ phát triển lại ñạt ñược tốc ñộ tăng trưởng cao hơn và hiện
ñại hoá nhanh hơn những nền kinh tế dựa chủ yếu vào thị trường. Việc xuất hiện
những trường phái lý thuyết mới ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt
ñộng kinh tế một mặt ñã góp phần lý giải cho sự thành công trong phát triển kinh
tế của những nước ñi sau nhưng mặt khác cũng ñưa ra những gợi ý về mặt chính
sách cho những nước ñi sau trong quá trình phát triển kinh tế và tiến lên hiện ñại.
- Trường phái Keynes là một trong những trường phái lý thuyết tiêu biểu
ñề cao vai trò can thiệp của nhà nước ñối với sự phát triển kinh tế. Các nhà kinh
tế thuộc trường phái Keynes cho rằng, mặc dù thị trường thường là một phương
thức tốt ñể tổ chức các hoạt ñộng kinh tế nhưng trong một số trường hợp thị
trường không thể phân bổ các nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả và thị
trường có những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội bên cạnh mục
tiêu hiệu quả kinh tế. Từ ñó, họ ñề cao vai trò can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế thị trường và ñưa ra khuyến nghị nhà nước nên thực hiện các chức năng
chủ yếu sau: i) Xác lập những ñiều kiện cần thiết về thể chế và pháp lý cho việc
sản xuất và trao ñổi hàng hoá, dịch vụ; ii) Hoạch ñịnh và tổ chức thực hiện các

chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách

25
thu nhập và chính sách tỷ giá hối ñoái; iii) Cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất và
cung ứng các dịch vụ công cộng như giáo dục và y tế; iv) Kiểm tra và giám sát
các hoạt ñộng kinh tế; v) Nhà nước tham gia trực tiếp vào sản xuất hàng hoá và
dịch vụ [67, tr. 22-23].
Trong thực tế, lý thuyết của trường phái Keynes ñã thống trị trong các lý
thuyết kinh tế và trở thành cơ sở khoa học chủ ñạo cho việc thiết kế và ñiều hành
chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước công nghiệp phát triển trong suốt thời gian
từ sau chiến tranh thế giới II ñến những năm 1970. Mặc dù các quan ñiểm của
trường phái này bị phê phán kịch liệt do hậu quả từ những thất bại của các chính
sách của chính phủ nhưng trong thực tế ở nhiều nước, một số ñề nghị của
Keynes như tăng chi tiêu ngân sách ñể thúc ñẩy tăng trưởng kinh tế vẫn là một
trong những biện pháp ñược áp dụng cùng với các chính sách tiền tệ khác ở Nhật
Bản, Trung Quốc trong thời gian gần ñây.
- Trường phái Tân cổ ñiển ñã kế thừa lý thuyết “bàn tay vô hình” của
A.Smith và ñưa ra cơ sở lý thuyết cho nền kinh tế thị trường tự do với tư cách là
hình thức hiệu quả nhất trong hoạt ñộng của con người. Các tác giả thuộc trường
phái này ñã dựa vào những bằng chứng thực tế ñể kịch liệt phê phán những ñề
nghị của Keynes về sự can thiệp quá mức của nhà nước. Từ ñó, họ ñề nghị nhà
nước cần can thiệp càng ít càng tốt và chuyển giao hầu hết các chức năng cho thị
trường. Thực tế, lý thuyết của trường phái Tân cổ ñiển và các ñề nghị của họ
nhìn chung ñược chấp nhận rộng rãi trong các nhà hoạch ñịnh chính sách ở các
nước OECD, WB, IMF và nhiều tổ chức viện trợ song phương.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu ñã chỉ ra giới hạn nghiêm trọng của lý
thuyết Tân cổ ñiển là lý thuyết này giả ñịnh rằng chi phí giao dịch bằng không,
có nghĩa là không tồn tại chi phí giao dịch trên thị trường. Một giới hạn nữa của
lý thuyết này là bản chất tĩnh và tương ñối tĩnh trong lập luận chính và tính “phi
thể chế” trong mô hình phát triển của lý thuyết này [71, tr. 23-24].

×