Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường việc thực hiện luật Hôn nhân và Gia đình trên địa bàn thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.95 KB, 32 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
A- PHẦN MỞ ĐẦU
Cách mạng nước ta chuyển sang giai đọan mới, thời kỳ cả nước tiến
hành đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực nhằm đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh”.
Trong những năm qua công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng, nhất là đổi mới tư duy kinh tế thực hiện kinh tế thị trường đã đạt
được những kết qủa to lớn: kinh tế ngày một tăng trưởng, chính trị ổn định, đời
sống văn hóa của nhân dân được nâng lên, an ninh quốc phòng được giữ vững
đã tác động trực tiếp và tòan diện đến gia đình Việt Nam. Gia đình văn hóa
Việt Nam đang có những biến đổi theo hướng tích cực, tình cảm và ý thức xây
dựng gia đình của mỗi cá nhân với tư cách là một thành viên ở mọi tầng lớp xã
hội được nâng cao. Đặc biệt lợi ích của gia đình nhất là lơi ích kinh tế, đời
sống vật chất và tinh thần của phần lớn các gia đình được nâng lên và cải thiện
một cách rõ rệt. Các mối quan hệ trong gia đình đang ngày được dân chủ hóa.
Quan hệ về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa…của các gia đình với cộng
đồng và thiết chế ngòai xã hội nhiều hơn và cũng mang tinh thần bình đẳng
hơn về nghĩa vụ và quyền lợi. Kết cấu và qui mô gia đình có chiều hướng thu
hẹp để hình thành các gia đình hạt nhân.
Song bên cạnh đó nước ta còn trong tình trạng là một nước nghèo,
kém phát triển. Mặt trái của nền kinh tế thị trường tác hại không nhỏ đến gia
đình và xã hội. Hiện nay bình quân qui mô gia đình của nước ta vẫn còn lớn,
còn không ít gia đình sinh đẻ chưa có kế họach. Sự phân hóa giàu nghèo có xu
hướng tăng lên; đời sống của dân cư nông thôn miền núi trong đồng bào các
dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Định hướng gía trị cuộc sống và các
quan hệ tình cảm ở môt số gia đình bị coi nhẹ làm phát sinh những vấn đề mới
trong quan hệ gia đình, một số yếu tố về gia đình truyền thống bị phá vỡ; quan
hệ tình cảm giữa cha mẹ và con cái, quan hệ giữa vợ chồng ngày càng lỏng
lẻo, ít được chú trọng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các thế hệ, giữa vợ chồng
ngày một tăng dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, trẻ em bỏ học, hư hỏng…


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
còn nhiều, ly hôn có chiều hướng phát triển, người vợ, người mẹ còn qúa vất
vả với gia đình và lao động xã hội, người phụ nữ chưa bình đẳng thật sự.
Thành phố Đà lạt không thóat khỏi bối cảnh chung. Phần lớn các gia
đình vẫn giữ được những nét đẹp gia đình văn hóa truyền thống và phong
cách của người dân Đà Lạt. Song những năm gần đây do tác động của kinh tế
thị trường hàng năm du khách, sinh viên, lao động tự do hội tụ về Đà lạt để
nghỉ dưỡng, học tập, làm ăn ngày càng nhiều, dân số tăng theo cơ học, đây là
những điều kiện ảnh hưởng trực tiếp làm thay đổi nét đẹp truyền thống lâu đời
của người Đà Lạt, bên cạnh đó một số cấp ủy, chính quyền địa phương, đòan
thể còn chưa thật sự chú trọng đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình, nếu có cũng
chỉ là hình thức, đó chính là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm
các quan hệ về đạo đức, vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm những quan
hệ về hôn nhân và gia đình nói riêng làm cho luật hôn nhân và gia đình chưa
thật sự đi vào cuộc sống một cách sâu rộng.
Trước thực trạng đó, tôi chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp nhằm
tăng cường việc thực hiện luật Hôn nhân và Gia đình trên địa bàn thành phố
Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng” làm khóa luận tốt nghiệp.
Để thực hiện khóa luận này, với điều kiện có hạn, bản thân tôi khó có
thể lý giải hết các vấn đề rộng lớn thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình mà chỉ
đi vào tìm hiểu một số nội dung cơ bản có liên quan đến việc thực hiện luật
hôn nhân và gia đình, đồng thời đánh giá đúng thực trạng, mặt mạnh cũng như
mặt hạn chế khi thực hiện luật hôn nhân và gia đình trên địa bàn thành phố Đà
Lạt kể từ khi luật hôn nhân gia đình năm 2000 có hiệu lực. Từ đó nhằm đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường việc thực hiện luật Hôn nhân và Gia đình
trên địa bàn thành phố Đà Lạt nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

B- PHẦN NỘI DUNG
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin và của Đảng và nhà nước
ta về hôn nhân và gia đình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, hôn nhân gia đình là một
hiện tượng mang tính lịch sử. Nó phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển
của xã hội lòai người. Hôn nhân gia đình phụ thuộc rất lớn vào các hình thái
kinh tế –xã hội, khi một hình thái kinh tế xã hội này chuyển sang hình thái
kinh tế xã hội khác cao hơn thì hôn nhân gia dình cũng có bước chuyển mình,
mô hình hôn nhân gia đình sau bao giờ cũng cao hơn mô hình hôn nhân gia
đình trước. Ở mỗi chế độ xã hội khác nhau và trong từng giai đọan lịch sử
khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nước và bằng pháp luật qui
định chế độ hôn nhân gia đình phù hợp với lợi ích của giai cấp mình
Ở Việt Nam, theo quan điểm của Đảng, và nhà nước hôn nhân gia đình
ghi nhận tại điều 64 hiến pháp. Hôn nhân gia đình được hiểu như sau:
Hôn nhân: là sự giao kết giữa nam và nữ trên cơ sở tự nguyện. bình
đẳng theo qui định của pháp luật, nhằm chung sống với nhau suốt đời để xây
dựng gia đình hạnh phúc.
Gia đình: là tập hợp những ngươi gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân,
do quan hệ huyết thống, do quan hệ nuôi dưỡng, trên cơ sở đó làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, cùng quan tâm, giúp đỡ nhau về vật
chất,tinh thần, xây dựng và nuôi dạy các thành viên trẻ trong gia đình dưới sự
giúp đỡ của nhà nước và xã hội.
Hôn nhân và gia đình là một hiện tượng xã hội, nên trong quá trình hôn
nhân gia đình hiện nay ở nước ta phát sinh nhiều quan hệ về nhân thân và tài
sản giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình
với nhau. Để điều chỉnh các quan hệ này, Nhà nước phải ban hành các qui
phạm pháp luật về hôn nhân, gia đình. Tổng hợp các qui phạm pháp luật về
hôn nhân, gia đình tạo thành ngành Luật Hôn nhân và Gia đình. Vậy luật Hôn
nhân và Gia đình có thể định nghĩa như sau:

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Luật Hôn nhân Gia đình là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt
nam. là tổng thể các qui phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành để điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh
trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình. Trên cơ sở định nghĩa luật Hôn nhân Gia
đình cho thấy đối tượng điều chỉnh của luật Hôn nhân Gia đình gồm hai nhóm
quan hệ xã hội, đó là nhóm quan hệ nhân thân và nhóm quan hệ tài sản.
Nhóm quan hệ nhân thân: Là những quan hệ phát sinh giữa các thành
viên trong gia đình về lợi ích nhân thân; chẳng hạn như quan hệ giúp đỡ nhau
giữa vợ chồng, quan hệ về trách nhiệm giữa cha mẹ và con cái, về sự kính
trọng của cháu chắt đối với ông bà.v.v..
Nhóm quan hệ về tài sản: Là những quan hệ phát sinh giữa các thành
viên trong gia đình về tài sản như quan hệ sở hữu giữa vợ chồng, quan hệ cấp
dưỡng giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa các thành viên trong gia
đình.v.v…
Ngòai ra Quan điểm về vấn đề hôn nhân và gia đình còn được Đảng và
Nhà nước ta thể hiện thông qua một số qui phạm pháp luật khác được điều
chỉnh ở những ngành luật khác.
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành
duy trì và củng cố trên cơ sở hôn nhân và huyết thống. Gia đình là tế bào của
xã hội. Gia đình và xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Quan hệ đó giống
như sự tương tác hữu cơ của quá trình trao đổi chất, duy trì sự sống giữa tế bào
và cơ thể sinh vật. Xã hội - cơ thể lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các
gia đình tiến bộ; còn gia đình – tế bào hạnh phúc góp phần phát triển hài hòa
xã hội.
2-Đặc điểm, tình hình thành phố Đà Lạt:
a-Đặc điểm chung:
 Về điều kiện tự nhiên:
Thành phố Đà Lạt là trung tâm kinh tế- văn hóa-xã hội của tỉnh Lâm

Đồng, là thành phố nằm phía nam Tây nguyên, có khí hậu mát mẻ, có rất nhiều
cảnh quan đẹp là một trong những trung tâm du lịch nghỉ dưỡng –học tập của
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cả nước, Đà Lạt có 12 phường và 3 xã, với diện tích tự nhiên là 391.04km
2
trong đó khu vực nội thành là 9km
2
.
 Về cơ cấu Kinh tế –Xã hội :
Thành phố xác định dịch vụ-du lịch là chủ yếu có tính chất chủ đạo của
thành phố chiếm tỷ trọng 77 đến 78% GDP, còn lại là nông nghiêp và các
ngành nghề khác.
Dân số Đà Lạt có khỏang 39.000 hộ với khoảng 180.000 dân (trong đó
dân tộc thiểu số chiếm gần 30.000 nguời), dân số chiếm 17% so với tòan tỉnh,
về cơ cấu dân số Đà Lạt có cơ cấu dân số trẻ, dưới 15 tuổi chiếm 33%, số
người trong độ tuổi chiếm tỷ lệ cao (khỏang 62%), trong đó lực lượng lao
động trẻ từ 15 đến 35 tuổi chiếm đa số. Phong cách người Đà Lạt hiền hòa
mến khách, cộng đồng dân cư Đà Lạt là một phức hợp hết sức độc đáo đó là
dân cư từ nhiều miền của đất nước về định cư làm ăn sinh sống, tạo nên bản
sắc văn hóa phong phú, đa dạng và đây là nguồn lực cơ bản phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế-xã hội của thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
 Về An ninh,quốc phòng:
Công tác an ninh quốc phòng luôn được Đảng bộ Thành phố lãnh đaọ
tòan diện về nhận thức và hành động, nên an ninh chính trị được giữ vững, trật
tự an tòan xã hội được bảo đảm.
 Về cơ cấu chính quyền:
Đảng bộ thành phố Đà Lạt có 74 tổ chức cơ sở Đảng với 2576 đảng
viên.Tổ chức bộ máy của các cấp chính quyền được bầu và thành lập theo luật

định và các đòan thể được cơ cấu và từng bước được kiện tòan và ổn định và
phát huy tốt nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
b-Đặc điểm cụ thể:
Bên cạnh những đặc điểm chung về tự nhiên còn có những đặc điểm có
ảnh hưởng tích cực đến việc thực hiện luật Hôn nhân và Gia đình.
Đó là dân số Đà Lạt có trình độ học vấn khá cao, tòan thành phố đã phổ
cập giáo dục phổ thông cơ sở, nên người dân nhận thức sâu sắc hơn về vị trí
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của mình đối với gia đình và xã hội; đối với gia đình các thành viên trong gia
đình có quan hệ bình đẳng và nề nếp, thương yêu và có trách nhiệm với nhau;
đối với xã hội thì xây dựng tốt các quan hệ với cộng đồng và tổ chức bên ngòai
gia đình. Trình độ am hiểu pháp luật ngày được mở rộng và nâng lên từ đó đã
hình thành trong họ ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật nói chung trong
đó có pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Về mặt kinh tế –xã hội trong năm qua kinh tế có bước tăng trưởng rõ
rệt, kinh tế phát triển năm sau tăng hơn năm trước, tốc độ tăng GDP bình quân
đạt 12%/ năm, thu nhập bình quân đạt trên 8 triệu đồng/ người/ năm. Đã từng
bước xã hội hóa một số lĩnh vực xã hội như y tế, giáo dục. Dân số… khai thác
được nhiều nguồn lực để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Đời sống mọi mặt
của nhân dân kể cả vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải
thiện.
Song cũng do điều kiện và môi trường sống nên phong cách người dân
Đà Lạt trầm, rụt rè, nhút nhát và bàng quan trước thời cuộc, mặt khác do tác
động mặt trái của nền kinh tế thị trường một số người vì cuộc sống mà chạy
theo lợi ích cá nhân đã gây mâu thuẫn trong nội bộ gia đình, xã hội, những
quan hệ xã hội mà luật Hôn nhân và Gia đình điều chỉnh không được họ tôn
trọng. Kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường kéo theo sự phân hóa giàu
nghèo ngày một lớn, một số gia đình kinh tế quá khó khăn, túng quẫn cũng là

một trong những nguyên nhân sâu xa gây ra mâu thuẫn trong nội bộ gia đình,
các quan hệ trong gia đình có nguy cơ bị xem nhẹ.
3- Thuận lợi và khó khăn
Trong thời kỳ đổi mới, với những đặc điểm trên đã có những thuận lợi
và khó khăn ảnh hưởng nhất định đến quá trình thực hiện luật Hôn nhân Gia
đình trong thời gian qua và trong thời gian tới.
a- Thuận lợi
Trong thời gian qua được sự quan tâm lãnh- chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội
đồng nhân dân Tỉnh, Ủy ban nhân Tỉnh, các ban ngành cấp trên. Đảng bộ
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thành phố Đà Lạt và các cấp uỷ Đảng đã chú trọng, quan tâm đến lĩnh vực hôn
nhân và gia đình. Trong các kỳ đại hội vấn đề gia đình đều được nêu trong
nghị quyết và trong chương trình hành động cụ thể.
Các cấp chính quyền, các ban ngành trên cơ sở nghị quyết của Đảng ủy
đã có kế họach tổ chức và hình thức thực hiện việc tuyên truyền luật Hôn nhân
và Gia đình và giải quyết các tranh chấp theo thẩm quyền. Các đoàn thể, tổ
chức chính trị- xã hội với chức năng, nhiệm vụ của mình đã tổ chức họat động
đưa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật về hôn nhân và gia đình đến
cơ sở.
Phần lớn nhân dân có ý thức chấp hành chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của nhà nước về lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Chính những thuận lợi này đã góp phần đưa luật hôn nhân và gia đình đi
vào cuộc sống.
b- Khó khăn:
-Một số cấp ủy, chính quyền cơ sở, đoàn thể còn xem nhẹ việc thực hiện
chủ trương, chính sách về lĩnh vực hôn nhân và gia đình nhất là vấn đề hôn
nhân
-Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ kịp thời giữa các ban ngành
trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và giải quyết những tranh

chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình.
- Công tác tuyên truyền pháp luật còn mang tính hình thức chưa thật sự
đến từng người dân, từng gia đình nhất là vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc ít
người.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên tuyền phần lớn chưa được đào tạo
bài bản. Một số cán bộ cơ sở còn coi nhẹ vấn đề hôn nhân và gia đình, coi đó
là của nội bộ gia đình không phải của xã hội.
-Cơ cấu dân cư phân bố không đồng đều giữa các vùng đã dẫn đến trình
độ dân trí và am hiểu pháp luật thấp, thu nhập kinh tế giữa các hộ gia đình có
chênh lệch nhau làm ảnh hưởng đến việc tiếp nhận thông tin về lĩnh vực hôn
nhân và gia đình.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Một số bộ phận dân cư chưa có sự chuyển biến tư tưởng nhận thức về
vấn đề hôn nhân và gia đình còn mang những tư tưởng phong kiến và tư sản về
hôn nhân và gia đình. Ngược lại cũng một lớp người mới lại mang tư tưởng,
lối sống qúa hiện đại xem nhẹ giá trị tình cảm gia đình nhất là ở tầng lớp trẻ
hiện nay.
II- THỰC TRẠNG THỰC HIỆN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT TỪ NĂM 2001-2005.
1-Thực trạng:
Trong xã hội, gia đình có vị trí quan trọng. Đó là cái nôi nuôi dưỡng con
người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách
của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành trang để họ hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng
xã hội, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xuất phát từ việc đánh giá đúng vai trò của gia đình, trong mọi thời kỳ
cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm to lớn đối với vấn đề
hôn nhân và gia đình, đã sớm có chủ trương thể chế hóa bằng pháp luật đối với
chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đế này. Thể hiện là sau Cách mạng
tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, trên cơ sở

Hiến pháp năm 1959, một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất là
luật Hôn nhân Gia đình.
Luật Hôn nhân Gia đình năm 2000 thay thế luật Hôn nhân gia đình
1986. Gồm 13 chương, 110 điều, được Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000 và
được Chủ tịch nước công bố ngày 22 tháng 6 năm 2000. Luật Hôn nhân gia
đình năm 2000 đề cao vai trò của gia đình trong xã hội hiện nay, củng cố và
xây dựng gia đình truyền thống Việt Nam, chống những ảnh hưởng của hôn
nhân gia đình phong kiến và tư sản, hạn chế những tác động tiêu cực của kinh
tế thị trường đối với quan hệ hôn nhân và gia đình. Nhìn chung, tại thành phố
Đà Lạt trong năm năm được sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp tổ chức tuyên
truyền và thực hiện của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội
luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã từng bước đi vào cuộc sống, Cụ thể:
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
a-Tình hình kết hôn:
Chương II luật hôn nhân gia đình năm 2000 qui định việc kết hôn, so
với luật năm 1986 có một số điểm mới như điều 10: ‘‘Những trường hợp cấm
kết hôn” có bổ sung điểm mới là cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính,
qui định này xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay đã có một số trường hợp
cặp nam, cặp nữ đồng giới tính có tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau như
vợ chồng, hay điều 11 qui định mới cần lưu ý là:‘‘ Nam nữ không đăng ký kết
hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công
nhận là vợ chồng”. Qua thống kê của Phòng Tư Pháp thành phố Đà Lạt từ
01/01/2001 đến 01/01/2006 có 6253 cặp đăng ký kết hôn (trung bình mỗi năm
có 1250 cặp đăng ký) cụ thể:
Năm : 2001 có 1206 cặp đăng ký kết hôn
Năm :2002 có 1370 cặp đăng ký kết hôn
Năm :2003 có 1317 cặp đăng ký kết hôn.
Năm :2004 có 1232 cặp đăng ký kết hôn

Năm :2005 có 1228 cặp đăng ký kế hôn.
Trong số 6253 cặp đăng ký có 112 cặp đăng ký trễ hạn, việc đăng ký trễ
hạn của số cặp vợ chồng nêu trên đã thể hiện sự quan tâm của cấp ủy của
chính quyền địa phương trong việc tuyên truyền pháp luật, trong đó có luật
Hôn nhân và Gia đình đến với đại đa số quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó vẫn còn tình trạng không đăng ký kết hôn, về nguyên nhân
của tình trạng này như nhận định ở phần đặc điểm cũng còn một số ít nhân dân
còn chưa am hiểu pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, do điều kiện
kinh tế, địa lý ở một số địa phương vùng sâu vùng xa điều kiện đi lại khó khăn
ngại đi đăng ký, họ chưa thấy rõ được hậu quả của việc không đăng ký kết
hôn, chưa chuyển hóa về tư tưởng, vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng cũ cho
rằng chỉ cần tổ chức lễ cưới long trọng là đủ nên không cần đăng ký kết hôn.
Chỉ cho đến khi sinh con hoặc khi có mâu thuẫn, có tranh chấp họ mới thấy
được hậu quả pháp lý của vấn đề không đăng ký kết hôn và điều này đã đi sâu
vào tiềm thức của phần lớn cộng đồng dân cư ở vùng nông thôn, vùng
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sâu,vùng xa. Hơn nữa do mặt trái của nền kinh tế thị trường dẫn đến môi
trường văn hóa không lành mạnh đã tác động đến lớp thanh niên trẻ (chưa đủ
tuổi kết hôn) có lối sống thực dụng, quan hệ tình dục bừa bãi, có thai buộc phải
tổ chức cưới (Theo thống kê hàng năm của Tòa án Thành phố Đà Lạt tình
trạng vi phạm, không đăng ký kết hôn vẫn còn, Tòa án vẫn còn thụ lý nhiều
trường hợp không công nhận vợ chồng). Điều này đã nói lên việc tuyên truyền,
giáo dục pháp luật của các cấp chính quyền chưa sâu rộng, chưa triệt để, nội
dung cụ thể của luật H ôn nhân và Gia đình chưa thật sự đến với người dân.
b-Về quan hệ giữa vợ chồng:
Quan hệ giữa vợ chồng đó là quyền và nghĩa vụ về nhân thân, là quyền
và nghĩa vụ về tài sản gia đình được qui định ở chương III từ điều 18 đến điều
33, được xác lập từ khi hai bên nam và nữ được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chứng nhận kết hôn. Mục đích kết hôn là nhằm xây dựng gia đình dân

chủ hòa thuận, hạnh phúc bền vững, song mục đích này không phải gia đình
nào cũng đạt được. Bước vào giai đọan mới, nhất là ngày nay khi các phương
tiện thông tin hiện đại đã đươc đa số nhân dân sử dụng nên từ bên ngòai nhiều
yếu tố tiến bộ và cả yếu tố tiêu cực của thời đại về quan hệ gia đình đã tác
động đến quan hệ giữa vợ chồng.
Thực tế trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Đà
Lạt nói riêng đa phần các gia đình vẫn luôn có ý thức xây dựng gia đình trong
đó vợ chồng chung thủy, thương yêu, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng
nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
Nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều gia đình đã không có ý thức xây dựng và
duy trì và vun đắp tình cảm tốt đẹp này.
Mặc dù Đảng và nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp tạo điều
kiện cho người phụ nữ được bình đẳng với nam giới, nhưng vẫn còn những
người chồng chưa có sự chuyển hóa về tư tưởng vẫn còn mang tư tưởng tiêu
cực trong quan hệ vợ chồng thời phong kiến” Chồng chúa vợ tôi” coi quan hệ
vợ chồng là bất bình đẳng, coi rẻ quyền lợi của người vợ. Người vợ phải phụ
thuộc và phục tùng người chồng. Người chồng không giúp đỡ, tạo điều kiện
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho người vợ tham gia học tập, tìm việc làm, tham gia các họat động chính trị,
kinh tế văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng, chỉ muốn người vợ ở
nhà chăm sóc con cái và gia đình.
Vẫn còn tư tưởng có vợ lẽ, vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng, buộc
người vợ phải chấp nhận cuộc sống tay ba, đa số các ngưới vợ không chấp
nhận điều kiện này nhưng cũng có trường hợp người vợ chấp nhận như trường
hợp bà Nguyễn Thị Trà My tại đường Phan bội Châu- Đà Lạt, chồng có vợ lẽ
buộc bà phải chấp nhận cho về sống chung một nhà, bà cũng chấp nhận, sau đó
bà xin ly hôn, Tòa án thụ lý giải quyết thì không rõ do áp lực nào mà bà lại rút
đơn chấp nhận cuộc sống tay ba.
Tình trạng vợ chồng không có sự quan tâm thiếu trách nhiệm trong việc

xây dựng gia đình còn xảy ra phổ biến; có người còn có tư tưởng quan hệ vợ
chồng chỉ cần kiếm tiền đưa cho vợ là đủ không có sự quan tâm, chăm sóc,
gắn bó nhau.
Vẫn còn tình trạng người chồng không lo làm ăn, kiếm tiền nuôi sống
gia đình mà để mặc mọi việc trong gia đình cho người vợ phải gánh vác, tự lo
liệu, ngược lại cũng có người vợ có quan niệm việc kiếm tiền nuôi sống gia
đình là của người chồng.
Khi một trong hai bên có người bị bệnh nan y hoặc tai nạn, trở thành
gánh nặng cho một bên thì bên kia bỏ mặc không có trách nhiêm gì với nhau.
Vẫn còn tình trạng vợ chồng không có sự tôn trọng nhau mà còn ngược
đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, uy tín của nhau dẫn đến bao lực trong
gia đình.
Do mặt trái của kinh tế thị trường dẫn đến sự xuống cấp về đạo đức,
tác động đến quan hệ vợ chồng, chung thủy là nét bản chất của tình yêu sau
hôn nhân, là yếu tố quan trọng để vợ chồng có hạnh phúc bền vững, nhưng sự
chung thủy với nhau đang bị phá vỡ, hiện tượng ngọai tình diễn ra ngày một
nhiều,ngọai tình không chỉ có ở người chồng mà còn xảy ra ở người vợ trong
giới trẻ mà cả ở người lớn tuổi. Những tình trạng trên là nguy cơ làm cho gia
đình không còn sự bền vững.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
c-Về Quan hệ giữa cha mẹ và con cái :
Là quan hệ phát sinh trên cơ sở huyết thống sinh đẻ và nuôi dưỡng
( nhận nuôi con nuôi). Được qui định tại chương IV từ điều 34 đến điều 46
vàđiều 56, 57, 67 luật hôn nhân gia đình.
Quan hệ này được hun đúc lâu đời, gắn liền với sự ra đời của gia đình
truyền thốngViệt Nam từ xưa cho đến nay vẫn còn giá trị đó là trách nhiệm
đối với nhau mà cha ông chúng ta đã đúc kết để nhắc nhở nhau “ Trẻ nhờ cha,
già cậy con”. Xã hội bước sang gia đọan mới quan hệ giữa cha mẹ và con cái
cũng mang tinh thần mới, quan hệ giữa cha mẹ và con cái không phải chỉ ràng

buộc về mặt tình cảm, đạo đức mà còn được pháp luật điều chỉnh đó là cha mẹ
yêu thương không phân biệt đối xử với con cái, tôn trọng và có hướng dẫn
những nhu cầu chính đáng của con cái, nuôi dạy con thành người có ích cho
gia đình và xã hội là nghĩa vụ thiêng liêng của cha mẹ.
Ngược lại con cái phải biết ơn, kính trọng, nghe lời khuyên nhủ của cha
mẹ và khi đã thành niên có nghĩa vụ cấp dưỡng và chăm sóc khi cha mẹ già
yếu không có khả năng lao động và tài sản để tự nuôi mình.
Ngày nay khi điều kiện kinh tế phát triển, xã hội có sự thay đổi lớn,
cuộc sống gia đình được cải thiện trong gia đình cha mẹ đều thấy rõ trách
nhiệm đối với con cái, họ có sự đầu tư có sự chuẩn bị về mọi điều kiện vật
chất, tinh thần về kiến thức xã hội để nuôi dưỡng và giáo dục con cái theo
mong muốn, theo yêu cầu phát triển chung của xã hội như xin cho con vào học
ở những trường điểm, học thêm ngoại ngữ, tin học, đi du học.v..v.
Song do tác động của kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo kéo
theo nhiều gia đình kinh tế khó khăn không có điều kiện nuôi dạy con nên tình
trạng trẻ em suy dinh dưỡng, không được đi học vẫn còn.
Trường hợp cha mẹ chỉ lo làm giàu không có quan tâm đến con cái hoặc
có điều kiện kinh tế khá giả nhưng lại nuông chiều con quá mức làm cho con
cái hư hỏng còn nhiều;tình trạng cha mẹ sau khi ly hôn một bên không chịu
cấp dưỡng nuôi con Tòa án phải xử buộc, sau khi buộc hoặc có thỏa thuận tự
cấp dưỡng nhưng đến giai đọan thi hành án cũng không tự nguyện phải cưỡng
12

×