Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích cơ sở đổi mới dạy học theo quan điểm dạy học định hướng phát triểnnăng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.58 KB, 21 trang )

NHIỆM VỤ 2
Câu 1. Phân tích cơ sở đổi mới dạy học theo quan điểm dạy học định hướng phát triển
năng lực.
Bước sang thế kỉ 21, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh chóng với những biến
đổi liên tục và sự tăng khối lượng tri thức một cách nhanh chóng, đặc biệt trong các lĩnh vực
thông tin truyền thông, công nghệ vật liệu, điện/điện tử tự động hóa, phương pháp tiếp cận nội
dung dần trở nên lạc hậu. Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách
thức của đời sống, vai trò của giáo dục ngày càng trở nên quan trọng. Thay đổi, sửa sang, cải
tiến chương trình, thậm chí cải cách giáo dục đã được nhiều nước tiến hành. Có khá nhiều vấn
đề đặt ra khi xem xét chỉnh sửa, đổi mới chương trình. Trước hết là việc xem xét, thiết kế lại cần
theo cách tiếp cận nào? Bản chất củacách tiếp cận ấy là gì? Và tại sao lại theo hướng tiếp cận
này?
Việt Nam luôn coi giáo dục là Quốc sách hàng đầu, do vậy giáo dục luôn được quan tâm
ưu tiên đầu tư. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục ở Việt Nam chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu
phát triển của xã hội. Thực trạng giáo dục ở Việt Nam hiện nay còn nặng về nội dung, chưa chú
trọng nhiều đến phát triển năng lực cho người học. Thực trạng đó xuất phát từ việc áp dụng
chương trình dạy học định hướng nội dung (hay định hướng đầu vào) tồn tại phổ biến trên thế
giới cho đến cuối thể kỷ XX và hiện nay vẫn còn tồn tại ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo dục định hướng nội dung là chú trọng việc truyền thụ
hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình dạy học.
Một xu hướng để đổi mới chương trình dạy học đang được bàn đến nhiều từ những năm
90 của thế kỷ XX ở nhiều quốc gia, đó là chuyển từ dạy học định hướng nội dung sang dạy học
định hướng phát triển năng lực, nói rộng hơn là giáo dục định hướng kết quả đầu ra
(Outcome-based Education - OBE). Việc đổi mới chương trình dạy học này hoàn toàn có cơ sở.
a. Ta phải chuyển từ dạy học định hướng nội dung sang dạy học định hướng phát
triển năng lực vì:
Định nghĩa tiếp cận nội dung : là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh
vực/môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người học cần
biết cái gì? Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung học vấn của một khoa học bộ
môn nên nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các
giai đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.


Định nghĩa Tiếp cận năng lực : là cách tiếp cận nêu rõ kết quả - những khả năng hoặc kĩ
năng mà người học mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một
môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người
học biết và có thể làm được những gì?
Cách tiếp cận nội dung dẫn tới tình trạng phổ biến tri thức một chiều: thầy giảng, trò
nghe; thầy đọc, trò ghi chép làm người học không phát huy được tính sáng tạo do chỉ làm theo
hướng dẫn của thầy, thiếu khả năng suy nghĩ độc lập và giải quyết các vấn đề thực tiễn, không
có khả năng tự học và thói quen tự tìm tri thức để học, thiếu kỹ năng làm việc nhóm do học một
cách thụ động.
Tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn
phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các
tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác phải gắn với thực tiễn đời sống. Nếu như tiếp cận
nội dung chủ yếu yêu cầu người học trả lời câu hỏi: Biết cái gì, thì tiếp cận theo năng lực luôn
đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết.Nói cách khác, nói đến năng lực là phải nói đến
khả năng thực hiện, là phải biết làm chứ không chỉ biết và hiểu .
Chương trình dạy học định hướng nội dung có nhiều ưu điểm như truyền thụ cho học
sinh một hệ thống tri thức khoa học và hệ thống. Tuy nhiên ngày nay, chương trình dạy học định
hướng nội dung không còn thích hợp, do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, tri thức thay đổi từng ngày và lạc hậu nhanh chóng. Vì vậy nội dung chương
trình cứng nhắc được cung cấp trong sách giáo khoa và những tri thức được tiếp thu trong nhà
trường cũng nhanh chóng bị lạc hậu. Có một câu nói ẩn dụ vui mà có có ý nghĩa thật sâu sắc:
Đừng cho học sinh cá, hãy đưa cho họ một chiếc cần câu. Có thể nói, việc rèn luyện phương
pháp học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng
học tập suốt đời.
Thứ hai, việc kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa vào khả năng tái hiện tri thức mà ít định
hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn. Biểu hiện cụ thể của
điều này, đó là phần nhiều đề kiểm tra hiện nay vẫn thiên về tái hiện kiến thức trên lớp mà chưa
gắn với đời sống thực tiễn hiện nay, thiếu phần liên hệ của học sinh trước kiến thức thực tế.
Thầy đọc, trò ghi, thi thuộc, nên cuối cùng chữ thầy lại trả thầy.
Thứ ba, phương pháp dạy học còn mang tính thụ động và ít chú trọng đến khả năng ứng

dụng nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo
và năng động. Ví dụ: Do giáo dục thiếu toàn diện nên một thực trạng đáng báo động trong việc
dạy học ở trường PT hiện nay đó là vẫn đang nặng về kĩ năng viết trong khi đó kĩ năng nói chưa
thực sự được chú trọng. Học sinh không tự tin giới thiệu về mình hoặc trình bày – thuyết trình
một vấn đề trước đám đông.
Điều đó có nghĩa là giáo dục chưa đáp ứng được đầy đủ mục tiêu đặt ra: giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo. Đầu ra giáo dục không đáp ứng được yêu cầu xã hội,
học sinh, sinh viên ra trường không xin được việc làm do thiếu kĩ năng mềm và thiếu kinh
nghiệm thực tiễn. Con đường giáo dục dường như đang đưa con người đi vào những lối mòn,
những ngõ cụt đầy bế tắc.
Xuất phát từ những yêu cầu của toàn cầu hóa và xã hội tri thức đối với giáo dục. Ngày
nay, xã hội ngày một phát triển nên nhiệm vụ xã hội đặt ra cho giáo dục ngày càng cao hơn.
Giáo dục cần phải giải quyết những mâu thuẫn tri thức ngày càng tăng mà thời gian đào tạo lại
có hạn.
Giáo dục cần đào tạo con người đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường lao động và
nghề nghiệp cũng như cuộc sống, có khả năng hòa nhập và cạnh tranh quốc tế, đặc biệt là:
- Năng lực hành động
- Tính sáng tạo năng động.
- Tính tự lực và trách nhiệm.
- Năng lực cộng tác làm việc.
- Năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp
- Khả năng học tập suốt đời.
Do đó, chúng ta cần phải chuyển sang dạy học định hướng phát triển năng lực để giúp
cho học sinh hoàn thiện bản thân mình một cách toàn diện về trí, đức, thể, mĩ và có thể vận dụng
được nội dung kiến thức đã học được để phát triển năng lực của bản thân và tạo điều kiện phát
triển chung cho toàn xã hội.
b. Phân tích khái niệm và cấu trúc của khái niệm năng lực
* Khái niệm năng lực
Năng lực có nguồn gốc tiếng La-tinh “competentia” có nghĩa là gặp gỡ. Ngày nay khái

niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Năng lực là một thuộc tính tâm lí phức
hợp, là điểm hội tụ nhiều yếu tố như tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành
động và trách nhiệm đạo đức. Năng lực là những khả năng và kĩ xảo học được hoặc sẵn có của
cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội và
khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những
tình huống linh hoạt.
Có nhiều loại năng lực khác nhau. Năng lực hành động là một loại năng lực. Khái niệm
phát triển năng lực ở đây cũng được hiểu đồng nghĩa phát triển năng lực hành động.
Tóm lại, năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động,
giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong
những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự
sẵn sàng hành động.
* Phân tích khái niệm năng lực
Ta thấy rằng năng lực không chỉ bao gồm tri thức mà còn bao gồm việc ứng dụng tri thức
đó như thế nào vào trong thực tiễn cuộc sống và giải quyết vấn đề.
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được sử
dụng như sau:
- Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu dạy học: mục tiêu dạy học của môn học
được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành;
- Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm
hình thành các năng lực;
- Năng lực là sự kết hợp của tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn ;
- Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ quan
trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hoạt động dạy học về mặt phương pháp;
- Năng lực mô tả việc giải quyết những nhiệm vụ trong các tình huống: ví dụ như đọc
một văn bản cụ thể Nắm vững và vận dụng được các phép tính cơ bản ;
- Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành cơ sở chung trong
việc giáo dục và dạy học;
- Mức độ đối với sự phát triển năng lực có thể được xác định trong các chuẩn: Đến một
thời điểm nhất định nào đó, HS có thể, cần phải đạt được những gì.

* Cấu trúc năng lực
- Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của bốn năng lực
thành phần sau: năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể.
- Năng lực chuyên môn: Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả
năng đánh giá kết quả chuyên môn một cách độc lập, có phương pháp và chính xác về mặt
chuyên môn. Trong đó bao gồm cả khả năng tư duy lô gic, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá,
khả năng nhận biết các mối quan hệ hệ thống và quá trình. Năng lực chuyên môn hiểu theo
nghĩa hẹp là năng lực nội dung chuyên môn“, theo nghĩa rộng bao gồm cả năng lực phương
pháp chuyên môn.
- Năng lực phương pháp: Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch, định hướng
mục đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề. Năng lực phương pháp bao gồm năng
lực phương pháp chung và phương pháp chuyên môn. Trung tâm của phương pháp nhận thức là
những khả năng tiếp nhận, xử lý, đánh giá, truyền thụ và trình bày tri thức.
- Năng lực xã hội: Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã hội cũng
như trong những nhiệm vụ khác nhau trong sự phối hợp sự phối hợp chặt chẽ với những thành
viên khác.
- Năng lực cá thể: Là khả năng xác định, đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như
những giới hạn của cá nhân, phát triển năng khiếu, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cá
nhân, những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các thái độ và hành vi ứng
xử.
Mô hình cấu trúc năng lực trên đây có thể cụ thể hoá trong từng lĩnh vực chuyên môn,
nghề nghiệp khác nhau. Mặt khác, trong mỗi lĩnh vực nghề nghiệp người ta cũng mô tả các loại
năng lực khác nhau. Ví dụ năng lực của GV bao gồm những nhóm cơ bản sau: năng lực dạy
học; năng lực giáo dục; năng lực đánh giá, chẩn đoán và tư vấn; năng lực phát triển nghề
nghiệp và phát triển trường học.
Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy giáo dục định hướng phát triển năng lực
không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, kỹ năng chuyên
môn mà còn phát triển năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Những năng
lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình thành
trên cơ sở có sự kết hợp các năng lực này.

c. Chỉ ra những đặc điểm của mục tiêu, nội dung, phương pháp, và đánh giá theo
quan điểm dạy học định hướng phát triển năng lực
* Mục tiêu
- Học sinh nắm được hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Chất lượng học tập đầu ra được bảo đảm, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các
phẩm chất nhân cách, chú trọng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn
bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
- Nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức, rèn cho
học sinh khả năng giải quyết vấn đề gắn với thực tiễn.
* Nội dung
Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ giới hạn trong tri thức và
kỹ năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực:
- Giáo dục cho học sinh nội dung chuyên môn: các tri thức chuyên môn (các khái niệm,
phạm trù, quy luật, mối quan hệ…); các kĩ năng chuyên môn; ứng dụng, đánh giá chuyên môn.
Từ đó giúp phát triển năng lực chuyên môn.
- Giáo dục cho học sinh phương pháp – chiến lược: lập kế hoạch học tập, kế hoạch làm
việc; các phương pháp nhận thức chung: thu thập, xử lí, đánh giá, trình bày thông tin; các
phương pháp chuyên môn. Từ đó phát triển năng lực phương pháp.
- Giáo dục cho học sinh giao tiếp xã hội: làm việc nhóm; tạo điều kiện cho sự hiểu biết về
phương diện xã hội; học cách ứng xử, tinh thần trách nhiệm, khả năng giải quyết xung đột. Từ
đó phát triển năng lực xã hội.
- Giáo dục cho học sinh tự trải nghiệm, đánh giá: tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu; xây
dựng kế hoạch phát triển cá nhân; đánh giá, hình thành các chuẩn mực đạo đức và văn hóa, lòng
tự trọng…Từ đó phát triển năng lực cá thể.
* Phương pháp
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá
HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình
huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành,
thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác
có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và

kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm
phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
* Đánh giá
Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm
tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập
cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau.
Câu 2. Đề xuất một số biện pháp đổi mới dạy học môn học theo định hướng phát triển
năng lực:
Để có thể thực hiện được các phương pháp đổi mới dạy học thì trước hết ngành giáo dục
cần xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên cốt cán của từng địa phương và phải bồi dưỡng, trang bị
đầy đủ cho đội ngũ giáo viên kiến thức về việc đổi mới PPDH đồng thời cải tiến những hình
thức và cách thức làm việc kém hiệu quả của GV và HS, sử dụng những hình thức và cách thức
hiệu quả hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát
triển năng lực của học sinh.
Trong nội dung này, nhóm chúng tôi đã thảo luận và thống nhất một số biện pháp đổi mới dạy
học môn học theo định hướng phát triển năng lực như sau:
1. Đổi mới việc thiết kế và chuẩn bị bài dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học cần bắt đầu từ việc đổi mới thiết kế và chuẩn bị bài dạy
học. Trong việc thiết kế bài dạy học, cần xác định mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng một
cách rõ ràng, có thể đạt được và có thể kiểm tra, đánh giá được.
Trong việc xác định nội dung dạy học, không chỉ chú ý đến các kiến thức kĩ năng chuyên
môn mà cần chú ý những nội dung có thể phát triển các năng lực chung khác như năng lực
phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể.
Trong việc thiết kế phương pháp dạy học cần bắt đầu từ bình diện vĩ mô: xác định quan
điểm, hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Từ đó xác định các phương pháp dạy học cụ thể và
thiết kế hoạt động của giáo viên và học sinh theo trình tự các tình huống dạy học nhỏ ở bình
diện vi mô
Sử dụng công nghệ thông tin, chẳng hạn sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint là một
phương hướng cải tiến việc thiết kế bài dạy học cũng như hoạt động dạy học.
Ví dụ: Tìm hiểu về Mặt phẳng nghiêng, giáo viên xác định rõ mục tiêu dạy học theo cấu trúc

năng lực:
- Năng lực chuyên môn:
+ Nêu ra được nhận xét sử dụng mặt phẳng nghiêng có thể kéo (đẩy) vật lên dễ dàng hơn.
+ Nêu ra được nhận xét mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng càng nhỏ thì kéo (đẩy) vật lên càng
dễ dàng.
+ Kể tên được một số ứng dụng của mặt phẳng nghiêng trong cuộc sống.
- Năng lực xã hội: Rèn luyện năng lực hoạt động nhóm để tìm ra phương án thí nghiệm, bố trí,
tiến hành và thu thập kết quả.
- Năng lực cá thể: Đưa ra các ý kiến đánh giá ưu, nhược điểm trong phương án thí nghiệm của
nhóm và phương án thí nghiệm của các nhóm khác trong lớp
- Năng lực phương pháp: Đưa được phương án lựa chọn mặt phẳng nghiêng hợp lí cho việc
giải quyết vấn đề được đặt ra.
2. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập luôn là
những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là
loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để
nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng.
Bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp
dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực sáng tạo
của học sinh. Chẳng hạn có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết
trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Khi dạy bài dòng điện trong các môi trường chất khí giáo viên có thể cho học sinh chia
nhóm nhận nhiệm vụ tìm hiểu qua các kênh thông tin từ đó thuyết trình để giải thích các hiện
tượng sét, hồ quang điện, cột thu lôi, cách tránh sét trong thực tế cuộc sống. Ngoài việc thuyết
trình theo phương pháp truyền thống học sinh cần hoạt động nhóm, sử dụng tranh ảnh, và các
ứng dụng công nghệ thông tin vào bài thuyết trình như trình chiếu powerpoint, video…
3. Kết hợp đa dạng các phương pháp, hình thức dạy học linh hoạt
Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mục tiêu và nội dung dạy học.
Mỗi phương pháp và nội dung dạy học có những ưu điểm và nhược điểm và giới hạn sử dụng
riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức trong quá trình dạy học là

phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.
− Tích hợp công nghệ thông tin vào các môn học
− Thường xuyên sử dụng các phương pháp kích thích tư duy và sự chủ động của người học
(PP nêu vấn đề, PP đàm thoại, dạy học dự án, dạy học theo tình huống )
− Tăng cường các hoạt động thực hành vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, chú trọng
giáo dục đạo đức, giá trị sống, rèn luyện kĩ năng sống, hiểu biết xã hội cho học sinh.
− Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, khuyến khích tổ chức bán trú cho
học sinh một cách linh hoạt, đa dạng hoạt động bán trú, có thể tổ chức các hoạt động như
xem phim, xem tivi, đọc sách, tham gia các trò chơi dân gian,… cùng với nghỉ trưa trong
thời gian giữa hai buổi học.
− Có thể sử dụng kết hợp các hình thức tổ chức học tập như sau: dạy học toàn lớp, dạy học
nhóm, nhóm đôi, dạy học cá thể Sử dụng các phương pháp chuyên biệt như đóng vai,
nghiên cứu trường hợp, dự án.
Ví dụ: Khi dạy học kiến thức vận tốc truyền âm trong không khí, có thể cho học sinh chia nhóm
tìm hiểu các ứng dụng của kiến thức này và có thể tạo ra những mô hình (thí nghiệm) đơn giản
như đàn nước, điện thoại ống bơ,… và sau tiết học tổ chức ngoại khóa một cuộc thi nhỏ sử dụng
chính những mô hình mà các em đã chế tạo. Như vậy, giáo viên đã sử dụng kết hợp linh hoạt
các phương pháp, hình thức dạy học như hoạt động theo nhóm, phương pháp đàm thoại, tổ chức
hoạt động ngoại khó
4. Vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề được xem như hệ thống các quy tắc áp dụng các
thủ pháp dạy học có tính đến logic của các thao tác tư duy và các quy luật của hoạt động nhận
thức của học sinh.
HS được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận
thức, thông qua việc giải quyết vấn đề giúp HS tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức.
Do vậy dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề không những phù hợp hơn với tinh thần
dạy học phát triển, với nhiệm vụ phát triển năng lực sáng tạo và tự lực nhận thức của học sinh,
biến kiến thức của họ không chỉ thành niềm tin mà còn phù hợp với đặc điểm của môn học
Ví dụ:
Vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề để thiết kế tiến trình xây dựng

kiến thức "Định luật bảo toàn động lượng" (theo Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực
hiện chương trình, SGK lớp 10 THPT, Vật lí nâng cao - Bộ GD&ĐT, HN.2006).
Làm nảy sinh vấn đề
- Xét bài toán tương tác giữa hai vật khối lượng
1
m
,
2
m
trong một hệ kín với vận tốc ban đầu
lần lượt là
1
v
ur
,
2
v
uur
. Sau khi tương tác với nhau, vận tốc của chúng thay đổi tương ứng thành
'
1
v
ur
,
'
2
v
uur
tức là chúng có thu được gia tốc.
Phát biểu vấn đề

- Có biểu thức nào biểu thị mối liên hệ giứa các vận tốc , và , của hai vật
1
m
,
2
m

trong hệ kín
trước và sau tương tác không?
Giải quyết vấn đề
a. GQVĐ nhờ suy luận lí thuyết:
- Suy đoán giải pháp GQVĐ: Từ mối liên hệ giữa các lực tương tác theo định luật 3 Niuton, biểu
diễn các lực theo định luật 2 Niuton (theo
a
), biểu diễn các
a
theo
v

,
v

theo
v
của vật
trước và sau tương tác, ta sẽ thấy được mối liên hệ giữa các vận tốc của hai vật trong hệ trước và
sau tương tác.
- Thực hiện giải pháp đã suy đoán:
+ Định luật 3 Niuton:
12 21

F F= −
uur uur
+ Định luật 2 Niuton:
12 1 1
F m a=
uur ur
;
21 2 2
F m a=
uur uuur
.
+ Biểu thức tính
a
:
'
1 1
1
v v
a
t

=

ur ur
ur
;
'
2 2
2
v v

a
t

=

uur uur
uur
.

' '
1 1 2 2
1 1 2 2 1 2
v v v v
m a m a m m
t t
− −
= − ⇔ = −
∆ ∆
ur ur uur uur
uur uuur
 Rút ra:
' '
1 1 2 2 1 1 2 2
m v m v m v m v+ = +
ur uur ur uur
b. Kiểm nghiệm kết quả suy ra từ suy luận lí thuyết nhờ thí nghiệm:
- Xác định nội dung cần kiểm nghiệm:
trường hợp vật 1 chuyển động không có ma sát với vận tốc
1
v

ur
va chạm mềm với vật 2 đứng
yên. Suy luận từ kết quả trên ra hệ quả:
'
1 1 1 2
( )m v m m v= +
ur r
 Sau tương tác, hai xe cùng chuyển động với
'
v
r
cùng chiều với
1
v
uur

'
1
1 2
m
s s
m m
=
+
(trong
cùng thời gian
t
)
- Thiết kế phương án thí nghiệm để kiểm nghiệm hệ quả: sử dụng thiết bị thí nghiệm cần rung
điện.

- Tiến hành thí nghiệm: đo
s

'
s
, xác nhận hệ quả trên là đúng.
Kết luận
Đối chiếu kết quả thí nghiệm với kết quả đã thu được từ suy luận lí thuyết, rút ra:
' '
1 1 2 2 1 1 2 2
m v m v m v m v+ = +
ur uur ur uur
- Khái niệm động lượng: động lượng của một vật chuyển động là một đại lượng vật lí vecto đặc
trưng cho khả năng truyền tương tác của vật, được đo bằng tích của khối lượng và vận tốc của
vật
p mv
=
ur r
.
- Định luật bảo toàn động lượng: Vector tổng động lượng của hệ kín được bảo toàn.
Căn cứ vào tiến trình nêu trên có thể xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể.
5. Vận dụng dạy học theo tình huống
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức
theo 1 chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình
học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho HS kiến tạo tri thức theo
cá nhân và môi trường tương tác xã hội và học tập.
Chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều môn học hoặc
lĩnh vực tri thức khác nhau gắn với thực tiễn. Việc dạy học này góp phần khắc phục tình trạng
xa rời thực tiễn của các môn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho HS năng lực tự giải quyết các
vấn đề phức hợp, liên môn.

Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của dạy học
theo tình huống, trong đó HS tự lực giải quyết một tình huống điển hình, gắn với thực tiễn thông
qua làm việc nhóm.
Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn
đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn
lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông.
Ví dụ: Khi dạy học về bài Mặt phẳng nghiêng giáo viên có thể đưa ra tình huống để bắt đầu vào
bài như sau: Đặt học sinh vào tình huống: Giả sử lớp chúng ta đang trên đường đi từ thiện, trên
xe có rất nhiều thùng đồ cho các bạn vùng cao như sách vở, quần áo, đồ ăn…Vì đường lên núi
nên rất xấu, có nhiều ổ gà và một bên là thung lũng, đột nhiên có một thùng đồ rất nặng trên xe
do chúng ta không cẩn thận làm rơi xuống một cái hố sâu? Làm thế nào để chúng ta có thể lấy
được thùng đồ đó lên được dễ dàng? Coi rằng chúng ta sẽ có tất cả những thứ cần thiết cho các
phương án. Từ tình huống này học sinh sẽ đưa ra rất nhiều phương án để giải quyết vấn đề.
Trong các phương án học sinh đưa ra sẽ liên quan đến các loại máy cơ đơn giản và trong đó có
nói tới sử dụng mặt phẳng nghiêng. Vậy từ những ý tưởng của học sinh, giáo viên có thể dẫn dắt
để đưa tới nhu cầu cần học bài Mặt phẳng nghiêng, từ đó kích thích được hứng thú, khả năng
sáng tạo,tạo phát triển các năng lực giải quyết vấn đề trong thực tiễn cho học sinh
6. Vận dụng dạy học định hướng hành động
Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và
hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Vận dụng dạy học ĐHHĐ có ý nghĩa quan trọng
cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà
trường và xã hội.
Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học ĐHHĐ, trong đó HS tự lực
thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý
thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận
dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như: thuyết kiến tạo, dạy học định hướng
HS, dạy học hợp tác, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định
hướng hành động.
Ví dụ: Khi tổng kết chương dao động cơ giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm xây dựng
các kiến thức cơ bản theo sơ đồ tư duy, từ đó giúp học sinh được kiến thức cơ bản của chương

và có kế hoạch ôn tập khoa học.
7. Vận dụng phương pháp dạy học theo trạm
Dạy học theo trạm là một phương pháp tổ chức dạy học trong đó người học tích cực, chủ
động thực hiện những nhiệm vụ học tập độc lập có liên quan đến nội dung bài học. Thông qua
quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập tại các trạm, ngoài mục tiêu truyền đạt kiến thức, dạy
học theo trạm còn kích thích hứng thú say mê nghiên cứu, rèn luyện năng lực giải quyết các vấn
đề phức hợp, gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, rèn luyện năng lực cộng tác làm
việc theo nhóm
8. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin trong dạy học.
Phương tiện dạy học (PTDH) có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy
học (PPDH), nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiêm thực hành trong dạy học.
Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy
học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng
trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn cần tăng
cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện
tử (E- Learning).
Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học
mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là dạy học sử
dụng mạng điện tử, trong đó HS khám phá tri thức trên mạng một cách có định hướng.
Hiện nay, ở nhiều trường học đã áp dụng những mô hình dạy học dựa trên giáo trình đã
được lập trình sẵn trên các bảng tương tác, bảng thông minh. Đặc biệt là bộ môn Tiếng Anh. Nội
dung bài học được số hóa và cấu trúc một cách khoa học. Với nhiều hình ảnh, âm thành sinh
động giúp học sinh hứng thú với bài học vì các em có cảm giác khám phá và như tham gia một
trò chơi.
Ví dụ: Khi dạy kiến thức đặc điểm của sự rơi tự do: Rơi tự do có phương thẳng đứng
bằng trực quan thì chúng ta không đủ cơ sở để đưa ra kết luận. Người giáo viên có thể sử dụng
phần mềm mô phỏng Galile để đưa ra hình ảnh trực quan từ đó giúp học sinh tự rút ra kết luận,
tránh việc tiếp nhận thông tin một cách thụ động bằng cách thông báo
9. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong các tình

huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là
đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học.
Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật dạy học đặc thù cho từng phương
pháp dạy học.
Ví dụ về các kỹ thuật dạy học như: kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại, kỹ thuật động
não, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật tia chớp. kỹ thuật 3 lần 3, kỹ thuật XYZ
Càng ngày càng có nhiều kỹ thuật mới chú trọng phát huy tính tích cực, sáng tạo của
người học được các nhà giáo dục phát hiện và khám phá.
10. Tăng cường các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn.
PPDH có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học.Vì vậy bên cạnh những phương
pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng các phương pháp đặc
thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn.
Ví dụ như đối với các bộ môn khoa học kĩ thuật: sẽ được ưu tiên sử dụng các phương
pháp dạy học trong dạy học kỹ thuật như trình diễn vật phẩm kỹ thuật, làm mẫu theo tác, phân
tích sản phẩm kỹ thuật, thiết kế mỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án trong dạy học kỹ thuật.
Đặc biệt với môn Vật lí phương pháp thực nghiệm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc
dạy học hiện nay
Với các bộ môn về khoa học xã hội như Văn, Sử, Địa thì các phương pháp truyền thống
như thuyết trình, nêu vấn đề đang chiếm ưu thế và hiện nay thì nhiều phương pháp mới được
sử dụng như phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, hỏi- đáp
11. Bồi dưỡng phương pháp học tập cho học sinh.
Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hóa,
phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp
thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm việc nhóm,
lại có những phương pháp học tập chuyên biệt cho từng bộ môn.
Bằng nhiều hình thức khác nhau, giáo viên cung cấp, hướng dẫn và truyền đạt cho học
sinh các phương pháp học tập để các em có thể tự lựa chọn một phương pháp học tập hiệu quả
và phù hợp với bản thân cũng như với từng môn học khác nhau.
Cũng nên tổ chức các buổi trao đổi, xemina hay tự học để giáo viên hướng dẫn học sinh
cách học và các em tự trao đổi, bàn bạc, học tập thầy cô, bạn bè đồng thời rút kinh nghiệm nếu

phương pháp học của mình chưa hiệu quả, chưa khoa học.
12. Cải tiến việc kiểm tra đánh giá
Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá trình dạy học
cũng như đổi mới việc kiểm tra đánh giá thành tích của học sinh.Giáo viên cần bồi dưỡng cho
học sinh những kỹ thuật thông tin nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến
quá trình dạy học.
Trong quá trình đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà
còn chú ý cả quá trình học tập của học sinh. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát
triển năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà còn chú trọng khả năng vận
dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Trong xu hướng xây dựng các bài tập cũng như các bài kiểm tra, bài thi theo quan điểm
phát triển năng lực người ta chia thành 3 mức độ chính của nhiệm vụ như sau:
+ Tái hiện: trọng tâm là tái hiện, nhận biết các tri thức đã học.
+ Vận dụng: trọng tâm là việc ứng dụng tri thức đã học để giải quyết các nhiệm vụ trong những
tình huống khác nhau; phân tích; tổng hợp; so sánh để xác định mối quan hệ giữa chúng.
+ Đánh giá: Trọng tâm là vận dụng tri thức, kỹ năng đã học để giải quyết vấn đề, đánh giá các
phương án khác nhau và quyết định. đánh giá, xác định các giá trị.
Giáo viên cần sử dụng phối hợp các hình thức và phương pháp kiểm tra, đánh giá khác
nhau. Kết hợp kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp giữa trắc nghiệm tự
khách quan và trắc nghiệm tự luận. Mỗi phương pháp lại có những ưu điểm và hạn chế khác
nhau, cũng phụ thuộc vào sở trường, sở đoản hay khả năng, tính cách, đặc điểm khác nhau của
học sinh.
Tóm lại, có rất nhiều phương hướng đổi mới dạy học môn học theo định hướng phát triển
năng lực như đổi mới về thiết kế, kế hoạch bài giảng, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức
và những cách tiếp cận khác nhau, trên đây là một số phương hướng chung.
Mỗi giáo viên tùy theo khả năng và kinh nghiệm, trình độ, hoàn cảnh của bản thân, môi
trường để xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và cả năng lực
cá nhân.
Câu 3. Trình bày một ví dụ phác thảo kế hoạch dạy học theo định hướng phát triển năng
lực trong đó thể hiện sự vận dụng một hay một số biện pháp đã nêu ở câu 2.

Áp dụng lí thuyết dạy học vào bài “Mặt phẳng nghiêng” – Vật Lí 6
BÀI 14 : Mặt phẳng nghiêng
I. Mục tiêu
Nhóm
năng lực
Mục tiêu cụ thể
Năng lực
chuyên
môn
- Nêu ra được nhận xét sử dụng mặt phẳng nghiêng có thể giúp kéo (đẩy) vật lên
dễ dàng hơn.
- Nêu ra được nhận xét mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng càng nhỏ thì kéo (đẩy)
vật lên càng dễ dàng.
- Giải được một số bài tập liên quan đến kiến thức Mặt phẳng nghiêng
Năng lực
về
phương
pháp
-Bằng kinh nghiệm thực tế, kể tên được một số mặt phẳng nghiêng được sử dụng
trong cuộc sống và chỉ ra mối quan hệ giữa độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng và
lực cần đưa vật lên.
-Đề xuất được giả thuyết: lực kéo vật lên theo mặt phẳng nghiêng nhỏ hơn trọng
lượng của vật.
-Đưa ra được phương án thí nghiệm kiểm tra giả thuyết, lập kế hoạch, bố trí, tiến
hành và xử lí được số liệu thu được.
-Đánh giá được kết quả thu được, từ đó rút ra kết luận về tính đúng đắn của giả
thuyết.
Năng lực
xã hội
-Rèn luyện được năng lực hoạt động nhóm trong nhiệm vụ cụ thể thông qua việc

trao đổi các thông tin, các kết quả, thảo luận các phương án thí nghiệm.
-Sử dụng được ngôn ngữ Vật Lí trao đổi với bố mẹ về việc lựa chọn mặt phẳng
nghiêng như thế nào sẽ giúp đẩy xe máy lên nhà dễ dàng hơn.
Năng lực
cá thể
-Đưa ra các ý kiến đánh giá ưu, nhược điểm trong phương án thí nghiệm của
nhóm và phương án thí nghiệm của các nhóm khác trong lớp.
-So sánh và đánh giá được các ứng dụng của mặt phẳng nghiêng trong cuộc sống:
thang cuộn siêu thị, cầu thang, đinh vít…
II. Phương pháp kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra, đánh giá năng lực chuyên môn: Gợi mở, vấn đáp, hoạt động nhóm, làm bài tập tự
luận và thông qua kết quả trình bày.
- Kiểm tra, đánh giá năng lực phương pháp: Quan sát, đánh giá thông qua rubric.
- Kiểm tra, đánh giá năng lực xã hội: Khả năng hoạt động nhóm, thảo luận và trao đổi thông tin,
bài tập tình huống.
- Kiểm tra, đánh giá năng lực cá thể: Thông qua số lượng và chất lượng các đánh giá.
III. Chuẩn bị
- Giáo viên: Giáo án, SGK, dụng cụ giảng dạy, phiếu học tập, video xây dựng kim tự tháp.
- Học sinh: Đọc trước bài
IV. Tiến trình bài học theo nội dung đổi mới
Nội dung
Hoạt động giáo viên và học
sinh
Lập luận về các mục tiêu
phát triển năng lực
Mặt phẳng nghiêng
giúp đẩy (kéo) vật lên
dễ dàng hơn.
-HS đã biết cấu tạo mặt phẳng
nghiêng từ bài trước, GV yêu

cầu HS kể ra hình ảnh mặt phẳng
nghiêng trong cuộc sống và công
dụng của nó.
HS có thể kể ra các ứng dụng
của mặt phẳng nghiêng với công
dụng có thể kéo vật lên dễ dàng
hơn hơn: mặt phẳng nghiêng
giúp bố mẹ em dắt xe máy lên dễ
dàng hơn.
-GV đặt câu hỏi: Mặt phẳng
nghiêng giúp đẩy (kéo) một vật
lên dễ dàng như thế nào?
Gợi ý: Lực kéo vật lên trên mặt
phẳng nghiêng như thế nào so
với trọng lượng của vật?
(HS đã biết từ bài trước: Khi kéo
vật lên theo phương thẳng đứng
thì cần tác dụng một lực ít nhất
bằng trọng lượng của vật.)
-HS đưa ra dự đoán: Khi dùng
mặt phẳng nghiêng để kéo (đẩy)
một vật, ta cần dùng một lực nhỏ
hơn trọng lượng của vật.
-GV yêu cầu HS hoạt động
nhóm: thảo luận phương án thí
nghiệm kiểm tra dự đoán trên và
hoàn thành khung a,b,c trong
phiếu học tập 1.
-Các nhóm HS lần lượt báo cáo,
các nhóm còn lại nghe và nhận

xét các ưu, nhược điểm.
-GV chốt lại phương án thí
nghiệm (dụng cụ, bố trí, các
bước tiến hành); yêu cầu HS
nhận dụng cụ thí nghiệm gồm
có: lực kế, vật nặng, mặt phẳng
nghiêng; tiến hành thí nghiệm và
hoàn thiện phiếu học tập 2. (Lưu
ý, các nhóm có mặt phẳng
nghiêng có độ nghiêng khác
Năng lực phương pháp:
-Học sinh vận dụng được vốn
hiểu biết đã có, tổng hợp lại để
lựa chọn trong những hình ảnh
đã gặp trong cuộc sống vài ứng
dụng về mặt phẳng nghiêng.
- HS đưa ra được dự đoán về
mối liên hệ giữa lực kéo vật lên
theo phương mặt phẳng
nghiêng và trọng lượng của vật,
thiết kế, bố trí, tiến hành được
thí nghiệm kiểm tra dự đoán.
Sau đó xử lí được số liệu để
đưa ra kết luận.
Năng lực chuyên môn: HS đã
-Nêu được nhận xét mặt phẳng
nghiêng giúp kéo (đẩy) một vật
với một lực nhỏ hơn trọng
lượng của vật. Mặt phẳng
nghiêng có độ nghiêng càng

nhỏ giúp kéo (đẩy) vật càng dễ
dàng.
-Giải được một số bài tập liên
quan.
Năng lực xã hội:
-Hoạt động nhóm được sử dụng
linh hoạt đặc biệt ở nhiệm vụ
thảo luận đưa giả thuyết, thiết
kế, bố trí và tiến hành thí
nghiệm. Nhiệm vụ này rất cần
hoạt động của tập thể. Việc trao
đổi, phân tích để đưa ra những
phương án tốt nhất có thể thực
hiện được là việc thể hiện khá
rõ năng lực xã hội. Ngoài ra,
còn một số hoạt động nhóm
khác trong quá trình dạy học
như thảo luận nhóm nêu mối
quan hệ giữa lực kéo (đẩy) vật
trên mặt phẳng nghiêng và độ
nghiêng của mặt phẳng
nghiêng.
nhau).
-HS nêu kết luận: Mặt phẳng
nghiêng giúp đẩy (kéo) vật lên
dễ dàng hơn.
Lực kéo (đẩy) vật lên nhờ mặt
phẳng nghiêng nhỏ hơn trọng
lượng của vật.
-HS được rèn luyện khả năng

làm việc nhóm, phát triển năng
lực giao tiếp như biết lắng
nghe, chấp nhận, biết phê phán,
biết trình bày, bảo vệ ý kiến cá
nhân. Trong quá trình làm việc,
khả năng hoạt động nhóm còn
thể hiện ở tinh thần đoàn kết,
khả năng hỗ trợ, tương tác với
nhau.
-Việc sử dụng ngôn ngữ Vật Lí
(thí nghiệm, thao tác thực hiện)
để thuyết phục bố mẹ sử dụng
mặt phẳng nghiêng thích hợp
nhất cũng thể hiện năng lực xã
hội của HS
Năng lực cá thể:
-HS đánh giá được khả năng
bản thân để lựa chọn những
phần việc được cho là phù hợp
trong nhiệm vụ nhóm.
-HS đánh giá được tính đúng
đắn của câu trả lời các nhóm
khác cũng như có ý kiến xây
dựng trong chính nhóm mình.
-HS còn phát triển được tư duy
và tình cảm sau khi tự lực làm
việc và giao tiếp với các bạn.
-Đặc biệt, để phát huy năng lực
cá thể, phiếu học tập số 2 đã
được thiết kế với cột ghi tên

người tiến hành thực hiện đo,
như thế tính cá thể được chú ý
phát triển tránh tính trạng HS
không thực hiện thí nghiệm

Mặt phẳng nghiêng có
độ nghiêng càng nhỏ
thì lực đẩy (kéo) vật
càng nhỏ.
-GV yêu cầu các nhóm đối chiếu
kết quả và rút ra nhận xét về kết
quả thu được: Khi kéo các vật
như nhau, trên các mặt phẳng
nghiêng khác nhau thì lực kéo
như thế nào?
HS đưa ra nhận xét lực có độ lớn
khác nhau.
- Yêu cầu HS thảo luận nhóm
nêu mối quan hệ giữa lực kéo
(đẩy) vật trên mặt phẳng nghiêng
và độ nghiêng của mặt phẳng
nghiêng.
-Đại diện học sinh trả lời: mặt
phẳng nghiêng càng nghiêng ít
thì lực kéo (đẩy) vật càng nhỏ.
Ứng dụng của mặt
phẳng nghiêng
-GV yêu cầu HS xem một đoạn
phim thuật lại các nô lệ xây
dựng kim tự tháp. Yêu cầu HS

thuật lại nội dung chính của
đoạn phim với sự sử dụng mặt
phẳng nghiêng để việc đưa
những khối đá lớn lên cao dễ
dàng hơn.
-Mỗi nhóm có 5 phút chuẩn bị,
sau đó từng thành viên lên bảng
viết về ứng dụng của mặt phẳng
nghiêng trong cuộc sống: thang
cuộc ở Big C, ốc vít, cầu thang,

Sau đó, đổi chéo nhau, đánh giá
đúng, sai về các phương án đội
bạn đã liệt kê.
Bài tập tình huống Ở nhà con đang có 3 tấm gỗ dày
như nhau có thể sử dụng làm
mặt phẳng nghiêng với kích
thước 30 cm x 100 cm; 40 cm x
40 cm, 30 cm x 80 cm. Tấm gỗ
nào dùng làm mặt phẳng
nghiêng là tối ưu nhất? Bằng
kiến thức đã học, hãy tiến hành
thí nghiệm chứng minh cho bố
mẹ thấy nhận định của em là
đúng.
Củng cố, tổng kết GV nhấn mạnh 2 kiến thức cơ
bản của bài học.
GV tổng kết các nhiệm vụ đã
thực hiện.
Yêu cầu HS thực hiện một số bài

tập trong SGK, SBT
PHIẾU HỌC TẬP SỐ I
PHIẾU HỌC TẬP 2: So sánh lực kéo vật trên mặt
phẳng nghiêng và trọng lượng của vật?
Độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng có ảnh hưởng như thế nào
đến lực kéo vật trên mặt phẳng nghiêng?
1. Các bước đo độ lớn của một lực bằng lực kế? Điền từ vào chỗ trống: phương, lực cần
đo, vạch số 0
2. a. Đo trọng lượng của một trong các vật sau: quyển SGK Vật lí, hộp bút, bút, quyển vở,
kính. Sau đó hỏi các bạn trong nhóm và ghi lại kết quả của các bạn.
b. Đo lực tác dụng lên vật để đưa vật lên cao bằng cách sử dung 2 mặt phẳng nghiêng có
chiều dài khác nhau?
Ghi lại kết quả vào bảng
STT Vật
Trọng lượng
(N)
Lực kéo trên
mặt phẳng
nghiêng có chiều
dài l=……….
(cm)
Người tiến hành
đo
1 SGK Vật lí 6 ……… N ……… N
2 Vở ……… N ……… N
3
2 quả nặng
50g
……… N ……… N
4 Hộp bút ……… N ……… N

3. Sử dụng các từ trong ô vuông, điền từ cò thiếu vào chỗ trống:
Ít nhất bằng lớn hơn nhỏ
hơn
a. Khi kéo (đẩy) trực tiếp một vật lên cao, cần sử dụng một lực………………trọng
lượng của vật.
b. Khi sử dụng mặt phẳng nghiêng để kéo (đẩy) vật lên cao, chỉ cần dùng một
lực………………trọng lượng của vật.
Nhóm……. Lớp:……………….
Thoạt tiên phải điều chỉnh số 0, nghĩa là phải điều chỉnh sao cho khi chưa
đo lực, kim chỉ thị nằm đúng … …………
Cho… …………… tác dụng vào lò xo của lực kế.
Phải cầm vào vỏ lực kế và hướng sao cho lò xo của lực kế nằm dọc theo
………… của lực cần đo.
càng lớn càng
nhỏ
Mặt phẳng càng nghiêng ít thì lực cần để kéo vật lên trên mặt phẳng nghiêng đó…………

×