Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tiểu luận môn tài chính tiền tệ Thị trường ngoại hối Việt Nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.49 KB, 70 trang )

Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
LỜI NÓI ĐẦU
Để thoát khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc, Việt Nam
đã thực hiện cải cách kinh tế toàn diện, bắt đầu bằng công cuộc đổi mới vào năm
1986. Từ năm 1990, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh hơn với chủ trương của Đảng
và Nhà nước là phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới cũng được tiến
hành đồng thời với việc phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù
hợp với xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ.
Với vai trò là chiếc cầu nối giữa kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thì việc
phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện
đại, phù hợp với trình độ và tiêu chuẩn quốc tế là rất cần thiết, nhằm bôi trơn và thúc
đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, kích thích luân chuyển các khoản đầu tư và tín dụng
quốc tế, cung cấp các công cụ phòng chống rùi ro tỷ giá cho các ngân hàng, các nhà
xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư, và đi vay quốc tế bằng hợp đồng kì hạn, quyền chọn,
hoán đổi hay tương lai. Một thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả còn là điều kiện
để hình thành tỷ giá theo quan hệ cung cầu và là nơi để Ngân Hàng Trung Ương tiến
hành can thiệp lên tỷ giá theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
Trong những năm qua thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và từng bước
phát triển, nhưng nhìn chung vẫn non trẻ và sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động
cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Do đó giữa thị trường ngoại hối
Việt Nam và quốc tế còn có một khoảng cách khá xa.
Vậy lý do của thực trạng này là gì và phải làm sao để thúc đẩy thị trường ngoại
hối Việt Nam phát triển? Đó chính là lý do nhóm 8 chúng tôi chọn đề tài “Thị
trường ngoại hối Việt Nam: thực trạng và giải pháp hoàn thiện” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
Với Phương pháp nghiên cứu: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, người viết
hướng tới Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá tình hình hoạt động của thị trường ngoại
hối Việt Nam hiện nay và từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm phát triển thị trường
ngoại hối Việt Nam trong tương lai. Và Kết cấu đề tài: gồm ba chương:
Nhóm 8 1


Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Chương 1: Kiến thức tổng quan về thị trường ngoại hối, phần này nghiên cứu
những lý luận nền tảng liên quan đến thị trường ngoại hối
Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam, phần
này đi vào tìm hiểu tình hình hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam từ khi bắt
đầu đi vào hoạt động cho đến thời điểm hiện nay. Đồng thời tiến hành đánh giá
những thành tựu cũng như những hạn chế, từ đó nhận ra được nguyên nhân của
những mặt hạn chế đó
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam, phần này sẽ
là những kiến nghị của người viết đề xuất trên cơ sở thực tế từ chương 2 và lý luận từ
chương 1 nhằm phát triển Thị trường ngoại hối Việt Nam.
Hy vọng với những gì nghiên cứu được trong đề tài này sẽ đóng góp được phần
nào đó trong việc thúc đẩy thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển.
Nhóm 8 2
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
CHƯƠNG I
KIẾN THỨC TỔNG QUAN
VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1.1. Ngoại hối và thị trường ngoại hối.
1.1.1. Khái niệm ngoại hối.
Theo pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 của ủy Ban
Thường Vụ Quốc Hội nước CHXHCNVN, ngoại hối được quy định như sau:
Ngoại hối bao gồm:
- Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng
tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau
đây gọi là ngoại tệ)
- Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
- Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;

- Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài
của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp
mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
- Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được
sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Ngoại hối trong đề tài nghiên cứu này được hiểu là đồng tiền của quốc gia khác
hoặc đồng tiền chung Châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh
toán quốc tế.
1.1.2. Thị trường ngoại hối.
1.1.2.1. Khái niệm.
Thị trường ngoại hối là nơi các đồng tiền của các quốc gia và vùng lãnh thổ khác
nhau được mua bán với nhau.
Nhóm 8 3
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Trong thực tế, do hoạt động mua bán tiền tệ xảy ra chủ yếu giữa các ngân hàng
( chiếm khoảng 85% tổng doanh số giao dịch), vì vậy theo nghĩa hẹp thì thị trường
ngoại hối là nơi mua bán các đồng tiền khác nhau giữa các ngân hàng tức thị trường
liên ngân hàng.

1.1.2.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối
Thị trường lớn nhất, doanh số giao dịch cao nhất: doanh số giao dịch trên thị
trường lên tới gần 1900 tỷ USD/ngày vào năm 2004. Thị trường hoạt động tích cực
nhất là London, sau đó là Newyork, Tokyo, Singapore, Frankfurt…
Là thị trường không gian: FOREX không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý
hữu hình nhất định mà là bất cứ nơi đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền
khác nhau.
Là thị trường toàn cầu hay thị trường không ngủ. Do sự chênh lệch về múi giờ
giữa các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm. Thị trường
bắt đầu hoạt động từ Australia, Nhật, Singapore, Hongkong, châu Âu, Newyork… và

cứ như vậy, khi thị trường khu vực châu Á đóng cửa thì thị trường châu Mỹ bắt đầu
hoạt động theo một chu kỳ khép kín toàn cầu.
Các thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau thông qua điện thoại,
mạng vi tính, telex và fax.
Là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo: số lượng người mua và người bán lớn,
các sản phẩm đồng nhất, thông tin lưu chuyển tự do và không có các rào cản đối với
việc tham gia thị trường.
Nhóm 8 4
Vai
trò
của
ngân
hàng
Thị trường ngoại hối
Liên ngân hàng
85%
Ngoài liên ngân hàng
15%
Khách hàng – khách hàng
1%
Ngân hàng – khách hàng
14%
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Là một thị trường hoat động hiệu quả: các thông tin liên quan đến tỷ giá luôn
được phản ánh nhanh chóng và chính xác. Tỷ giá tuy được yết trên các thị trường
khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau (có độ chênh lệch không đáng kể).
Giao dịch tập trung chủ yếu ở thị trường liên ngân hàng: chiếm khoảng 85%
tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.
USD là đồng tiền được mua bán nhiều nhất: chiếm khoảng 41,5% trong tổng số
các đồng tiền tham gia.

Là thị trường rất nhạy cảm đối với các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tâm
lý… nhất là đối với các chính sách tiền tệ của các nước phát triển: mỗi diễn biến về
kinh tế, mỗi sự kiện về chính trị và ngoại giao trên thế giới đều có thể là những nhân
tố làm ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường này.
1.1.2.3. Chức năng của thị trường ngoại hối
- Dịch vụ cho các khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế.
Ví dụ: một khách hàng là công ty nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài sẽ có nhu cầu
mua ngoại tệ để thanh toán hóa đơn hàng hóa hoặc là nhà xuất khẩu có nhu cầu bán
ngoại tệ lấy nội tệ để phụ vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, các giao
dịch ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà nhập khẩu và xuất khẩu như trên là
một trong những dịch vụ mà NHTM luôn sẵn sàng cung cấp cho khách hàng và đồng
thời cũng là dịch vụ mà các khách hàng luôn mong đợi từ phía ngân hàng.
- Giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài
chính quốc tế khác.
- Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối, mà sức mua đối ngoại
của tiền tệ được xách định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của
thị trường.
- Là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá
bằng các hợp đồng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai.
- Là nơi để NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo chiều
hướng có lợi cho nền kinh tế.
1.1.2.4. Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối.
 Nhóm khách hàng mua bán lẻ
Nhóm 8 5
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Nhóm khách hàng mua bán lẻ bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc
gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm
phục vụ cho mục đích hoạt động của chính mình.
Ví dụ: nhà nhập khẩu có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán hóa đơn nhập khẩu
ghi bằng ngoại tệ; nhà xuất khẩu có nhu cầu bán ngoại tệ khi nhận hóa đơn xuất khẩu

ghi bằng ngoại tệ; khách du lịch có nhu cầu bán ngoại tệ lấy nội tệ để chi tiêu.
Như vậy nhóm khách hàng mua bán lẻ có nhu cầu mua bán ngoại tệ để phục vụ cho
mụch đích hoạt động của chính mình chứ không nhằm mục đích kinh doanh ngoại
hối. Thông thường nhóm khách hàng mua bán lẻ không giao dịch trực tiếp với nhau
mà thường thông qua các ngân hàng thương mại.
 Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm hai mục đích:
- Cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong đó chủ yếu là mua hộ, bán hộ cho nhóm
khách hàng mua bán lẻ. Vì là mua hộ, bán hộ nên ngân hàng không chịu rủi ro tỷ giá,
và thông qua cung cấp dịch vụ ngân hàng tiến hành thu một khoản phí.
- Kinh doanh cho chính mình tức mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ giá
thay đổi. Hoạt động kinh doanh này tạo ra trạng thái ngoại hối do đó ngân hàng chịu
rủi ro tỷ giá. Các ngân hàng tiến hành giao dịch ngoại hối theo hai cách:
• Giao dịch trực tiếp giữa ngân hàng với nhau và với khách hàng.
• Giao dịch gián tiếp với nhau thông qua nhà môi giới.
 Những nhà môi giới ngoại hối
Hình thức giao dịch gián tiếp thông qua nhà môi giới ngoại hối cũng khá phát
triển. Nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các
ngân hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho
khách hàng của mình một cách nhanh chóng, rộng khắp với giá tay trong. Tuy nhiên
các ngân hàng phải trả cho nhà môi giới một khoản phí. Những ai muốn hành nghề
môi giới ngoại hối phải có giấy phép và các nhà môi giới chỉ cung cấp dịch vụ cho
khách hàng, chứ không mua bán ngoại hối cho chính mình.
 Các Ngân hàng Trung Ương
Nhóm 8 6
FOREX
SWAPFORWARD
PRIMARY PERATIONS
Nghiệp vụ sơ cấp
DERIVATIVE PERATIONS

Nghiệp vụ phái sinh
FUTURE
SPOT OPTION
OTC EXCHANGE
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Nhóm chủ thể này tham gia vào thị trường ngoại hối một mặt để cung cấp dịch vụ
cho khách hàng của mình và một mặt nhằm tác động vào tỷ giá hối đoái. Mục tiêu
thứ nhất xuất phát từ vai trò của NHTW là ngân hàng của Chính phủ. NHTW mua
bán trên thị trường ngoại hối để có thể thâu tóm ngoại tệ để thực hiện các hoạt động
thanh toán của Chính phủ. Tuy nhiên, mục tiêu cơ bản của NHTW khi tham gia thị
trường ngoại hối là nhằm điều chỉnh tỷ giá: trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW
thường xuyên can thiệp với mục đích duy trì tỷ giá trong một biên độ tỷ giá nhất
định. Trong chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, NHTW can thiệp nhằm tác động lên tỷ
giá theo hướng mà NHTW cho là có lợi cho nền kinh tế. Mặc dù khối lượng giao dịch
của NHTW thường không lớn nhưng tác động của các giao dịch do NHTW thực hiện
lại rất mạnh mẽ vì các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối luôn chăm chú theo
dõi các hoạt động của NHTW để dự đoán các chính sách kinh tế vĩ mô trong tương
lai, dự báo biến động của tỷ giá và đưa ra quyết định phù hợp trên thị trường.
1.1.2.5. Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối.
Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Giao dịch ngoại hối giao ngay
Giao dịch ngoại hối giao ngay là giao dịch trong đó hai bên thỏa thuận mua bán
ngoại hối theo mức tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng/thanh
toán sẽ được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo.
Nhóm 8 7
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Giao dịch ngoại hối giao ngay được sử dụng phổ biến cả trên thị trường mua bán
lẻ lẫn TTLNH, giúp các chủ thể tham gia thực hiện các giao dịch thương mại và đầu
tư quốc tế, điều chỉnh trạng thái ngoại hối hay khai thác một cơ hội kiếm lợi nhuận
trên thị trường… Hàng ngày tỷ giá giao ngay được công bố trên các báo lớn, các bản

tin thị trường của đài truyền hình; nó được dùng để phân tích, dự báo, là cơ sở để nhà
kinh doanh tính toán các loại tỷ giá khác nhau.
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch mua bán ngoại hối trong đó tỷ giá được
hai bên thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng/thanh toán được thực hiện tại
mức tỷ giá đó vào một ngày xác định trong tương lai. Ngày xác định trong tương lai ở
đây phải cách ngày ký kết hợp đồng từ 3 ngày làm việc trở lên.
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là loại hợp đồng có tính ràng buộc cao. Cả hai phía
mua và bán đều không có quyền từ chối kể cả trong những tình huống bất lợi cho
mình. Đây không chỉ là một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà còn giúp các nhà
kinh doanh hạn chế được những bất trắc về thanh khoản.
Giao dịch ngoại hối hoán đổi
Giao dịch hoán đổi ngoại hối là giao dịch trong đó một bên đồng ý thực hiện bán
một đồng tiền nhất định cho bên kia tại một thời điểm nhất định và đồng thời cam kết
thực hiện mua chính đồng tiền đó vào một thời điểm khác trong tương lai với các
mức tỷ giá được thỏa thuận từ trước.
Giao dịch hoán đổi ngoại hối là một giao dịch hối đoái kép. Đối với mỗi bên tham
gia, sẽ có một giao dịch mua vào và một giao dịch bán ra một đồng tiền nhất định với
số lượng bằng nhau, tuy nhiên, ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác
nhau. Vì không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng nên giao dịch hoán đổi ngoại hối là
công cụ giúp cho nhà kinh doanh quản lí luồng tiền một cách thích hợp mà vẫn tránh
được rủi ro tỷ giá.
Giao dịch ngoại hối tương lai
Giao dịch tiền tệ tương lai là một giao dịch trong đó hai bên mua bán thỏa thuận
với nhau về việc mua bán một lượng tiền của một loại tiền xác định theo mức tỷ giá
được thỏa thuận ngay tại thời điểm giao dịch và thời điểm giao hàng/thanh toán được
Nhóm 8 8
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
thực hiện vào một ngày xác định trong tương lai. Đây là loại hợp đồng được chuẩn
hóa cả về quy mô hợp đồng lẫn thời gian đáo hạn.

Giao dịch tiền tệ tương lai là một giao dịch được phát triển từ giao dịch có kỳ hạn
song nó có những điểm khác biệt khá cơ bản so với hợp đồng giao dịch có kỳ hạn.
Nếu như địa điểm giao dịch có kỳ hạn là phi tập trung thì giao dịch hợp đồng tương
lai chỉ được giao dịch tập trung tại sàn giao dịch. Nếu như quy mô và thời gian giao
hàng của một hợp đồng kỳ hạn là tùy ý, được thương lượng và thỏa thuận cụ thể giữa
hai bên thì quy mô và thời gian giao hàng ở hợp đồng tiền tệ tương lai được tiêu
chuẩn hóa, có tính chất cố định và không thương lượng được.
Hợp đồng tiền tệ tương lai có thể dùng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các
khoản phải thu và phải trả bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, nó không được các nhà phòng
ngừa rủi ro tỷ giá sử dụng phổ biến như hợp đồng kỳ hạn do những hạn chế nhất
định. Tổ chức giao dịch hợp đồng tiền tệ tương lai hấp dẫn các nhà đầu cơ nhiều hơn.
Giao dịch ngoại hối quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ là một công cụ ngoại hối phái sinh, cho phép người
mua quyền chọn có quyền (chứ không phải nghĩa vụ) mua hoặc bán một đồng tiền
nhất định vào một thời điểm xác định trong tương lai tại một mức tỷ giá cố định được
thỏa thuận ngay khi ký kết hợp đồng.
Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Quyền chọn mua và quyền chọn bán.
Hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ là hợp đồng, trong đó người mua quyền chọn
sau khi trả phí quyền chọn, có quyền mua một đồng tiền nhất định vào một thời điểm
xác định trong tương lai tại mức tỷ giá quyền chọn đã được thỏa thuận từ trước nếu
như người đó quyết định thực hiện quyền chọn mua của mình. Người bán quyền
chọn, sau khi nhận phí quyền chọn, có nghĩa vụ bán một đồng tiền nhất định tại một
mức tỷ giá quyền chọn nếu bên mua đó quyết định thực hiện quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ là hợp đồng, trong đó người mua quyền chọn
sau khi trả phí quyền chọn, có quyền bán một đồng tiền nhất định vào một thời điểm
xác định trong tương lai tại mức tỷ giá quyền chọn đã được thỏa thuận từ trước nếu
như người đó quyết định thực hiện quyền chọn bán của mình. Người bán quyền chọn
bán, sau khi nhận phí quyền chọn, có nghĩa vụ mua một đồng tiền nhất định tại một
mức tỷ giá quyền chọn nếu bên mua đó quyết định thực hiện quyền chọn.
Nhóm 8 9

Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể dùng để bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho các khoản
phải thu và phải trả bằng ngoại tệ hoặc trong các hoạt động đấu thầu quốc tế. Ngoài
ra, các nhà đầu tư có thể kết hợp các vị thế hợp đồng quyền chọn khác nhau để tạo ra
các chiến lược quyền chọn nhất định để kiếm lợi nhuận.
1.2. Tỷ giá
1.2.1. Khái niệm tỷ giá.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng. Thương mại, đầu tư và
các quan hệ tài chính quốc tế… đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Thanh
toán giữa các quốc gia dẫn đến việc mua bán các đồng tiền khác nhau, đồng tiền này
lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được mua bán với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ
này gọi là tỷ giá.
Vậy có thể định nghĩa: Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông
qua đồng tiền khác.
Ví dụ: 1USD = 16.000 VND có nghĩa là giá của USD được biểu thị thông qua
VND và 1 USD có giá là 16.000 VND.
Ở các thị trường hàng hóa, giá cả được biểu thị như là số đơn vị tiền tệ trên một
đơn vị hàng hóa. Trên thị trường ngoại hối, hàng hóa là tiền tệ, khi một đồng tiền
được định giá bởi một đồng tiền khác thì đồng tiền này được gọi là đồng yết giá,
đồng tiền khác được gọi là đồng tiền định giá.
Hiện nay có hai phương pháp yết giá được sử dụng phổ biến đó là yết tỷ giá trực
tiếp và yết tỷ giá gián tiếp:
Yết tỷ giá trực tiếp là cách thể hiện số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Ở
đây, ngoại tệ đóng vai trò hàng hóa và được đo lường giá trị bằng đồng nội tệ. Hầu
hết các nước trong đó có Việt Nam đang sử dụng cách yết tỷ giá này.
Yết tỷ giá gián tiếp là cách thể hiện số đơn vị ngoại tệ trên một đơn vị nội tệ. Như
vậy trong cách yết tỷ giá này nội tệ đóng vai trò là hàng hóa và được đo lường giá trị
bằng đồng ngoại tệ. Cách yết tỷ giá này được sử dụng tại các nước như: New
Zealand, Úc, Anh và các nước đồng tiền chung EURO.
1.2.2. Biến động tỷ giá và những nguyên nhân gây biến động tỷ giá.

Ổn định giá trị đồng tiền quốc gia là mục tiêu quan trọng trong chính sách tiền tệ
của mỗi nước. Tỷ giá được ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển,
Nhóm 8 10
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
chính vì điều này mà trong quá khứ, nhiều quốc gia đã cố gắng cố định đồng tiền của
quốc gia mình so với ngoại tệ mạnh, đặc biệt là USD để tạo điều kiện phát triển kinh
tế. Thế nhưng, kết quả là không có Ngân Hàng Trung Ương nào có thể cố định đồng
tiền quốc gia mình trong thời gian dài, hành động của họ đã dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế, cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm
1997 – 1999 xuất phát từ nguyên nhân chế độ tỷ giá cố định của đồng tiền Thái Lan
so với đô la Mỹ. Thậm chí, Bretton Woods gắn với chế độ tỷ giá cố định cũng bị sụp
đổ. Nguyên nhân là do tỷ giá luôn biến động, đó là một tất yếu khách quan và sự biến
động của tỷ giá xuất phát từ quan hệ cung cầu về các đồng tiền liên quan. Đây là quy
luật khách quan của nền kinh tế, do đó mọi biện pháp can thiệp trực tiếp và gượng ép
đều sẽ gây ra những hậu quả xấu cho nền kinh tế.
Như vậy, sự biến động của tỷ giá là một thực tế khách quan, nó xuất phát từ sự
biến động của cung cầu các đồng tiền. Cung cầu các đồng tiền chịu ảnh hưởng của
bởi nhiều yếu tố và chính các yếu tố này là nguyên nhân gây ra biến động tỷ giá.
Trước hết phải kể đến các yếu tố kinh tê nền tảng như lạm phát, lãi suất, tăng trưởng
kinh tế và các chính sách kinh tế của chính phủ:
Lạm phát ở một quốc gia làm cho đồng tiền nước này giảm giá với mức xấp xỉ tỷ
lệ lạm phát. Trong trường hợp lạm phát cùng xảy ra ở cả hai quốc gia, nếu lạm phát
trong nước cao hơn lạm phát ở nước ngoài có nghĩa là hàng nhập khẩu rẻ hơn và
hàng xuất khẩu đắt hơn khiến nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm làm tăng cầu ngoại
tệ và giảm cung ngoại tệ làm cho tỷ giá tăng lên hay đồng tiền trong nước sẽ giảm
giá.
Chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền gây ra sự thay đổi cung cầu tiền tệ, tác động
đến sự biến động của tỷ giá. Nếu lãi suất (thực) trong nước tăng cao hơn so với lãi
suất (thực) ở nước ngoài khiến luồng vốn chuyển từ các tài sản tài chính ghi bằng
ngoại tệ sang các tài sản tài chính ghi bằng nội tệ dẫn tới tăng cung ngoại tệ và giảm

cầu ngoại tệ làm cho tỷ giá giảm xuống hay đồng tiền trong nước sẽ tăng giá.
Nếu mức tăng trưởng thu nhập trong nước cao hơn so với mức tăng trưởng thu
nhập ở nước ngoài thì nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng nhưng nhập khẩu tăng nhanh
hơn xuất khẩu. Điều này dẫn tới cầu ngoại tệ tăng nhanh hơn cung ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối làm cho tỷ giá tăng lên hay đồng tiền trong nước sẽ giảm giá.
Nhóm 8 11
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Ngoài sự can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối, chính phủ cũng gây ảnh
hưởng lên tỷ giá thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô làm thay đổi ba biến số trên:
lạm phát, lãi suất và tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, chính phủ có thể tác động lên
cung cầu ngoại tệ bằng cách ban hành hoặc hủy bỏ các rào cản thương mại như thuế
quan, hạn ngạch và các loại thuế. Thuế quan và các loại thuế làm thay đổi giá của các
mặt hàng và tỷ suất lợi nhuận của các tài sản tài chính tức tác động đến các dòng lưu
chuyển hàng hóa và dòng lưu chuyền vốn vào ra khỏi quốc gia từ đó tác động lên tỷ
giá.
Yếu tố tâm lý cũng là một trong các yếu tố góp phần đáng kể tạo nên sự thay đổi
cung cầu ngoại tệ và do đó dẫn đến sự biến động tỷ giá. Ví dụ, nếu người tiêu dùng
có tâm lý thích dùng hàng ngoại hơn hàng nội thì sẽ làm tăng cầu nhập khẩu từ đó
làm tăng cầu ngoại tệ, tỷ giá tăng lên. Hay người sở hữu vốn có tâm lý giảm sự tin
tưởng vào một đồng tiền sẽ làm cầu đồng tiền đó giảm. Điều này sẽ tác động làm
đồng tiền đó có xu hướng giảm giá trên thị trường, tỷ giá sẽ thay đổi.
Giới đầu cơ cũng là tác nhân gây ra sự biến động tỷ giá. Các nhà đầu cơ hoạt động
dựa trên kỳ vọng về sự biến động của tỷ giá trong tương lai. Họ sẽ tăng mua những
đồng tiền nào mà họ kỳ vọng là sẽ tăng giá trong tương lai, do đó tác động lên cung
cầu ngoại tệ làm cho tỷ giá thay đổi.
Những yếu tố này không tác động một cách riêng lẻ mà chúng tác động cùng lúc
lên cung cầu ngoại tệ từ đó làm thay đổi tỷ giá và kết quả là khó có thể dự đoán chính
xác tỷ giá sẽ biến động như thế nào và biến động bao nhiêu. Việc xác định chính xác
tỷ giá sẽ biến động ra sao trong tương lai là một bài toán vô cùng phức tạp, bài toán
này chứa nhiều biến số và việc dự đoán sự thay đổi của các biến số này vốn dĩ đã

không phải là chuyện dễ thực hiện. Do đó, mặc dù hiện nay đã có những chương trình
hay kỹ thuật dự đoán tỷ giá hiện đại đặc biệt trong kinh doanh ngoại hối, song không
ai có thể dự đoán chính xác tỷ giá sẽ biến động như thế nào.
Sự biến động của tỷ giá đưa đến hai vấn đề. Thứ nhất, tỷ giá biến động gây ra
những rủi ro cho những chủ thể có hoạt động liên quan đến tỷ giá, đó là những doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, những nhà đầu tư, những người đi vay, cho vay bằng ngoại tệ
và cả các ngân hàng. Thứ hai, tỷ giá biến động là mảnh đất màu mỡ để các nhà đầu
cơ tìm kiếm cơ hội liếm lời. Họ tồn tại khi nào còn có sự biến động của tỷ giá, họ
Nhóm 8 12
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
không quan trọng tỷ giá biến động theo hướng nào cái chính họ cần là phải có sự biến
động của tỷ giá .
Trước sự biến động của tỷ giá và những hệ quả của nó, công cụ phái sinh đã ra
đời và hỗ trợ đắc lực cho các chủ thể phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hoặc mong muốn
kiếm lời từ sự biến động của tỷ giá.
1.3. Sự hình thành và phát triển của Thị trường ngoại hối Việt Nam
Năm 1991 với Quyết định số 107/QĐ – NH ngày 16/8/1991 do NHNN ban hành
về “Thành lập trung tâm giao dịch ngoại tệ” là mốc đánh dấu cho sự hình thành một
thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển không ngừng của
nền kinh tế, đến 20/9/1994 “Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” được thành lập theo
Quyết định số 203/QĐ – NH thay thế cho trung tâm giao dịch ngoại tệ. Thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng là bước phát triển cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
của nền kinh tế như một tổng thể.
Như vậy, khi tìm hiểu về thị trường ngoại hối Việt Nam, chúng ta có thể chia
thành 3 giai đoạn:
Trước năm 1991: giai đoạn Việt Nam chưa có thị trường ngoại hối có tổ chức
Từ năm 1991 đến 1994: giai đoạn hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ
Từ năm 1994 đến nay: giai đoạn hoạt động của Thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng.
Trong thời kỳ Việt Nam phát triển kinh tế theo cơ chế tập trung bao cấp, thị

trường nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng ở Việt Nam chưa có điều kiện
hình thành và phát triển. Nhà nước can thiệp sâu vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
đã ngăn chặn khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trường. Đồng
thời với chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, các mối quan hệ kinh tế bên ngoài
đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại tệ, điều này đã làm triệt
tiêu mọi ảnh hưởng của quy luật cung cầu trên thị trường, do đó chế độ tỷ giá Việt
Nam áp dụng trong thời kỳ này là chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Và nó đã gây ra
hậu quả vô cùng nghiêm trọng: đồng Việt Nam được định giá quá cao so với các
đồng tiền tự do chuyển đổi, tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thực tế
làm cho hoạt động xuất nhập khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt
nặng nề. Cũng chính vì tỷ giá VND/USD chính thức thấp hơn so với tỷ giá cân bằng
Nhóm 8 13
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
đã khiến cho thị trường ngoại hối tự do hình thành và phát triển. Mặc dù thị trường tự
do không được pháp luật công nhận nhưng nó vẫn phát triển song song với thị trường
chính thức mà Nhà nước khó có thể kiểm soát. Sau một thời gian giữ thế độc quyền
về ngoại tệ, đến ngày 18/10/1988 khi Quyết định số 11/HĐBT về “ Điều lệ quản lý
ngoại hối” của Hội đồng bộ trưởng ra đời đã phá vỡ thế độc quyền trong kinh doanh
ngoại hối trước đây của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Giờ đây các NHTM có
thể kinh doanh ngoại hối khi được NHNN cấp phép. Đây được xem là sự khởi đầu
tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối hoàn chỉnh hơn
để có thể trở thành chiếc cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ, tạo cơ sở xác định tỷ giá
chính thức một cách khách quan, sát với cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu, đầu tư nước ngoài và thu hút nguồn ngoại tệ vào ngân hàng. Trước
tình hình đó, Thống Đốc NHNN Việt Nam đã ra Quyết định số 107/QĐ – NH ngày
16/8/1991 ban hành quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ và hai trung
tâm giao dịch ngoại tệ đã được thành lập tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Mặc
dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn từ năm 1991 đến năm 1994 nhưng hai trung
tâm này đã đánh dấu bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi
mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Thông qua hoạt động của hai trung tâm

với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại
tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu
của thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế.
Tuy nhiên với nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai
trung tâm giao dịch ngoại tệ đã bộc lộ những hạn chế không đáp ứng được nhu cầu
giao dịch ngoại tệ của toàn quốc gia cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao
dịch và thanh toán của cơ chế thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có
một mô hình mới linh hoạt hơn, toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong
phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đứng
trước tình hình đó, NHNN đã ra Quyết định số 203/QĐ – NH9 ngày 20/9/2004 về
việc thành lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và Quyết định số 203/QĐ – NH13
ngày 20/9/1994 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng. Mục tiêu của thiết lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là xây
dựng một thị trường có tổ chức cho giao dịch ngoại tệ giữa các NHTM và tạo cơ sở
Nhóm 8 14
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh trong tương lai. Ngoài ra, thông qua thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN có thể can thiệp một cách hữu hiệu vào thị
trường nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. So với trung tâm giao dịch ngoại tệ,
hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mang tính thị trường hơn, linh hoạt
hơn, rộng hơn và khách quan hơn. Các thành viên trên khắp nơi có thể tham gia giao
dịch, do đó kết quả giao dịch phản ánh được cung cầu ngoại tệ của toàn bộ nền kinh
tế. Tỷ giá của VND so với ngoại tệ cũng được hình thành một cách khách quan hơn
và phản ánh tương đối sức mua của VND.
Cùng với sự phát triển cơ cở của thị trường ngoại hối là sự cải tiến về mặt pháp
luật của NHNN nhằm dần dần hoàn thiện thị trường. Sự ra đời của Quyết định
17/1998/QĐ – NHNN7 ngày 10/1/1998 ban hành quy chế giao dịch hối đoái đã giúp
cho hoạt động của các TCTD được thực hiện trôi chảy, đảm bảo các nguồn ngoại tệ
được luân chuyển linh hoạt, phục vụ kịp thời nhu cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên sau
gần 7 năm đi vào hoạt động, quyết định này đã bộc lộ một số hạn chế chưa bắt kịp

với sự phát triển của thị trường ngoại hối. Cụ thể là các loại hình giao dịch còn đơn
giản, vấn đề thu phí trong giao dịch ngoại tệ chưa hợp lý, các vấn đề về chứng từ
trong giao dịch chưa được đề cập đến gây khó khăn cho TCTD và khách hàng trong
quá trình thực hiện. Nhằm khắc phục những tồn tại này, ngày 10/11/2004 Thống Đốc
NHNN đã ký quyết định số 1452/2004/QĐ – NHNN về giao dịch hối đoái của các
TCTD được phép hoạt động ngoại hối thay thế quyết định 17/1998/QĐ – NHNN.
Quyết định mới này có những thay đổi rất quan trọng đối với thị trường ngoại hối:
quyền giao dịch ngoại tệ được mở rộng, quyết định mới thông thoáng hơn, không quy
định quá chi tiết và chặt chẽ các nội dung kỹ thuật về giao dịch, điều khoản hợp đồng,
phí giao dịch… quyền lựa chọn tiền tệ được chính thức thông qua tạo thêm một công
cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá hiệu quả trên thị trường. Điều này đã tạo điều kiện thúc đẩy
thị trường ngoại hối phát triển lên một bước mới phù hợp với thông lệ quốc tế về giao
dịch hối đoái.
Ngoài ra, pháp lệnh ngoại hối được thông qua và có hiệu lực từ 1/6/2006, đây là
pháp lệnh được xem là thống nhất các hoạt động ngoại hối, hướng tới một thị trường
ngoại hối mở, tự do hóa và minh bạch.
Nhóm 8 15
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Thêm vào đó, nhiều quyết định khác cũng đã được NHNN ban hành để dần hoàn
thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường ngoại hối. Đặc biệt là các quyết
định về công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với ngoại tệ dần được điều chỉnh
sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Theo đó là các quyết định về thay đổi
biên độ dao động của tỷ giá giao ngay giữa VND với USD, biên độ này được nới
lỏng dần từ +/- 0.1%, +/- 0.25%, +/- 0.5%, +/- 0.75%, +/- 1%, +/- 2%, +/- 3%, +/- 5%
và hiện nay là +/- 3%.
Như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ theo
hướng ngày càng tiến gần hơn với thông lệ quốc tế. Những quy định dần được ban
hành đã tạo điều kiện thông thoáng, nới lỏng cơ chế kiểm soát theo hướng tự do hóa
các giao dịch ngoại tệ đã tạo thêm nhiều thay đổi lớn cho thị trường ngoại hối Việt
Nam. Cũng từ đây rủi ro ngoại hối sẽ tăng cao, do đó, để có thể quản lý và hạn chế

rủi ro điều tất yếu là các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối sẽ ra đời. Đặc biệt là khi
Việt Nam đã là thành viên của WTO, đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới
theo hướng tự do hóa thì việc điều tiết nền kinh tế bằng phương pháp phi kinh tế đã
không còn phù hợp, và sự ra đời của các công cụ quản lý rủi ro ngoại hối là một yêu
cầu tất yếu để có thể điều tiết nền kinh tế theo hướng tích cực hơn.
Nhóm 8 16
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
2.1. Hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam
2.1.1. Hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam Giai đoạn 1994 – 2006
Sau khi TTNTLNH đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994, hoạt động của thị
trường ngoại hối Việt Nam đã có nhiều đổi sắc theo hướng tích cực. Tuy nhiên, do
còn non trẻ cộng với doanh số hoạt động XNK của Việt Nam còn hạn chế, quy định
biên độ dao động tỷ giá giao ngay rất hẹp, do đó, doanh số hoạt động của thị trường
ngoại hối trong các năm 1995 và 1996 nhìn chung còn thấp, mức tăng trưởng chưa rõ
nét
Sau một thời gian khởi động, từ cuối năm 1996 và bước sang năm 1997, do hoạt
động XNK của Việt Nam tăng khá, đầu tư quốc tế chảy vào ngày càng nhiều cùng
với việc NHNN nới rộng biên độ dao động của tỷ giá từ 0,10% lên 5,0% rồi lên
10,0% đã trở thành những nhân tố kích thích thị trường ngoại hối hoạt động sôi động
hẳn lên. Điều này thể hiện qua hoạt động của thị trường trong năm 1997 so với năm
1996 và 1995
Từ tháng 8/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính – Tiền tệ
Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường hối rơi
vào tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung… là những
nguyên nhân làm cho hoạt động của thị trường trong năm 1998 không tăng là bao so
với năm 1997
Bước sang năm 1999, nền kinh tế của các nước Châu Á đã dần hồi phục sau

khủng hoảng, kinh tế Việt Nam lấy lại được đà phát triển, đặc biệt là Chính phủ đã có
nhiều chính sách kích thích tăng trưởng xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài làm
cho cung ngoại tệ tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, vào cuối năm 1998, Chính phủ đã
ban hành Quyết định 173/1998/QĐ – TTg ngày 12 tháng 8 năm 1998 về nghĩa vụ bán
và mua ngoại tệ của Người cư trú là tổ chức. Theo Quyết định này, Người cư trú là tổ
chức kinh tế Việt Nam, trong vòng 15 ngày phải bán ngay tối thiểu 80% khoản thu
Nhóm 8 17
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
ngoại tệ vãng lai cho các Ngân hàng được phép; đối với các tổ chức chính trị xã hội
phải bán toàn bộ (100%), đây cũng được xem là nhân tố tác động tăng cung ngoại
trên thị trường ngoại hối. Ngoài ra, bước sang đầu năm 1999, NHNN đã ban hành
Quyết định số 64/1999/QĐ – NHNN & ngày 25 tháng 2 năm 1999 về việc công bố tỷ
giá của đồng Việt Nam với các ngoại tệ, đã làm thay đổi căn bản cơ chế điều hành tỷ
giá, từ cơ chế “tỷ giá chính thức” sang cơ chế “tỷ giá giao dịch bình quân trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng” làm cho thị trường ngoại hối hoạt động trở nên sôi
động hơn
Kết quả hoạt động của thị trường ngoại hối từ năm 1995 đến năm 2005 được thể
hiện thông qua bảng dưới đây:
Bảng: Doanh số hoạt động của thị trường ngoại hối giai đoạn 1995 – 2005
Năm
Tổng doanh
số
Tr. đó: Mua Tr. đó: Bán
Năm sau so
năm trước
1995 100% 48,0% 52,0% 100,0%
1996 100% 49,7% 50,3% 107,2%
1997 100% 49,5% 50,5% 131,3%
1998 100% 49,9% 50,1% 103,7%
1999 100% 48,6% 51,4% 140,9%

2000 100% 45,5% 54,5% 121,6%
2001 100% 46,0% 54,0% 117,2%
2002 100% 48,4% 51,6% 110,2%
2003 100% 49,5% 50,5% 134,4%
2004 100% 48,3% 51,7% 110,1%
2005 100% 48,0% 52,0% 114,2%
Trung bình 100% 48,5% 51,5% 119,25%
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Từ bảng trên có thể đưa ra một số nhận xét sau đây:
Sau 11 năm (từ 1995 đến 2005), doanh số giao dịch trên thị trường ngoại hối ước
tính tăng gấp 6,25 lần, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 19,25%. Đối với một nước
có điểm xuất phát thấp và đang trong quá trình mở cửa và hội nhập, thì tốc độ tăng
như trên là thấp. So với thế giới vào những năm 1970, thì cứ hai năm doanh số giao
dịch lại được nhân lên gấp đôi, nghĩa là tốc độ tăng bình quân đạt tới 41,4%/năm
Trong tất cả các năm, doanh số mua vào thường thấp hơn doanh số bán ra, điều
này nói lên rằng thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển theo hướng một chiều và
Nhóm 8 18
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
luôn chịu áp lực cầu lớn hơn cung. Hay nói cách khác, thị trường thường ở tình trạng
khan hiếm hàng hóa
Do doanh số bán ra lớn hơn doanh số mua vào, điều này nói lên rằng, các NHTM
thường duy trì trạng thái ngoại tệ đoản, do đó, phải đối mặt với rủi ro khi tăng tỷ giá
Tốc độ tăng doanh số giao dịch ngoại hối là không đều giữa các năm. Điều này
hàm ý:
- Thị trường ngoại hối Việt Nam, tuy không trực tiếp, nhưng cũng chịu ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á; điều này cho thấy sự phụ
thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền kinh tế mở trên thế giới là như thế nào.
- Ngoài ra, tính trồi sụt, thất thường, được chăng hay chớ của thị trường
ngoại hối Việt Nam còn phản ánh vai trò mờ nhạt của nó đối với nền kinh tế.
2.1.2. Hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian gần đây

(2007 – 2009)
Thực trạng diễn biến trên thị trường ngoại hối còn khá yếu ớt của Việt Nam trong
thời gian gần đây khá phức tạp và căng thẳng. Thị trường ngoại hối Việt Nam hiện
nay đang tồn tại song song hai thị trường: thị trường chính thức, bao gồm: hoạt động
giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, hoạt động mua bán giữa hệ thống
ngân hàng với các khách hàng; và thị trường chợ đen. Sự tồn tại của thị trường chợ
đen đã có những tác động tiêu cực tới cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế.
Trong những năm gần đây, thăm hụt cán cân vãng lai đã được thu hẹp đáng kể
bởi có sự gia tăng trong hạng mục chuyển giao đơn phương mà chủ yếu là lượng kiều
hối chuyển về nước ngày càng tăng. Mặt khác, sự tham gia của các dòng tiền “nóng”
của đầu tư gián tiếp nước ngoài chảy vào Việt Nam ngày càng tăng từ nhiều kênh
khác nhau. Do đó, các yếu tố trên đã phần nào tài trợ cho thâm hụt cán cân thương
mại và do vậy dự trữ ngoại hối tăng lên, nên phần nào cho thấy khả năng lượng cung
lớn hơn lượng cầu ngoại tệ.
Khi cung lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá VND/USD sẽ có xu hướng giảm xuống,
nghĩa là VND tăng giá. Tuy nhiên, trên thực tế, liên tục trong nhiều thời điểm, VND
phải chịu áp lực giảm giá. Nghịch lý này phản ảnh một tình trạng “dư cầu” trong nền
kinh tế.
Nhóm 8 19
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Tình trạng dư cầu gồm có: dư cầu thực, dư cầu ảo và dư cầu cấu trúc. Tình trạng
dư cầu thực thể hiện VND được định giá cao hơn giá trị thật của chúng do tỷ giá
VND/USD chưa phản ảnh đúng các quan hệ mua bán ngoại tệ diễn ra trên cơ sở cạnh
tranh bình thường, nhưng nguyên nhân sâu xa và quan trọng nhất là do chính sách tỷ
giá và trong một chừng mực nào đó là lãi suất của VND và USD trong nhiều năm qua
chưa phản ảnh đúng những diễn biến của thị trường. Dư cầu cấu trúc là do những
thâm hụt trên cán cân tài khoản vãng lai đã tạo sức ép lên các nhu cầu tài trợ cho các
hoạt động nhập khẩu. Dư cầu ảo là do tình trạng cung ứng ngoại tệ bị bóp méo, nói
cách khác tình trạng dư cầu ảo xảy ra là do cơ chế quản lý ngoại tệ của VN hiện nay
là có vấn đề. Trong ba xu hướng trên thì xu hướng thứ ba tức dư cầu ảo là đáng ngại

hơn cả.
Tình trạng “dư cầu” ngoại tệ đã dẫn đến thị trường ngoại hối Việt Nam diễn ra
hết sức căng thẳng, có rất ít giao dịch và nếu có đều giao dịch trên mức tỷ giá trần do
NHNN qui định; sự mất cân đối giữa lãi suất VND và USD cũng như hiện tượng găm
giữa và tích trữ ngoại tệ của doanh nghiệp và trong dân cư; nhu cầu mua ngoại tệ tăng
đột biến trong khi nhu cầu vay ngoại tệ lại giảm sút. Hệ thống ngân hàng “thừa”
ngoại tệ để cho vay; thiếu ngoại tệ để bán.
Và vào những tháng cuối năm 2009, tình trạng khan hiếm USD trong thanh toán
ngày càng tăng gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Doanh
nghiệp nhập khẩu phải mua USD với tỷ giá chênh lệch không phải là 300đ-
350đ/USD như vài tháng trước mà giờ đây phải mất thêm 400đ-500đ/USD và đối với
doanh nghiệp nhập khẩu máy móc dụng cụ cho các hạn mục dự án thì sẽ bị thiệt từ
2%-3% giá trị hợp đồng. Thật hết sức vô lí khi xuất hiện “chợ đen mua bán ngoại tệ
trong lòng ngân hàng” vì Ngân hàng thương mại không thể mua USD theo tỷ giá
chính thức thì lấy đâu ra nguồn để bán cho doanh nghiệp theo tỷ giá quy định và
khoản chênh lệch giữa tỷ giá chợ đen và tỷ giá chính thức sẽ được ẩn vào một khoản
chi phí nào đó và ngày càng sẽ tăng hơn con số ở trên vì trong tháng 11/2009 tỷ giá
chợ đen cao hơn tỷ giá chính thức khoảng 700đ/USD.
Vậy, có phải căng thẳng ngoại tệ là do nguồn cung đang thiếu thốn trầm trọng
dẫn đến tình trạng “dư cầu” ngoại tệ hoặc tỷ giá VND/USD hoặc biên độ tỷ giá chưa
phù hợp?
Nhóm 8 20
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Như chúng ta biết, Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác cần tăng
cường đầu tư công nghệ máy móc cho nên việc nhập siêu là rất phổ biến và việc thiếu
hụt sẽ được bù đắp bằng nguồn khác để giữ cán cân thanh toán cân bằng. Năm 2007,
mặc dù nhập siêu lên tới 14,1 tỷ USD nhưng do FDI thực hiện được 8 tỷ USD, dòng
vốn FII chảy vào mạnh được 9 tỷ USD, kiều hối 5,5 tỷ USD do đó trạng thái ngoại
hối dương (+) 6,3 tỷ USD nhờ đó thị trường ngoại hối ổn định, tỷ giá VND/USD chỉ
tăng 1,46%, biên độ tỷ giá giữ nguyên trong năm là +/- 0,5%. Những tháng cuối năm

2007 còn xảy ra tình trạng thừa USD thiếu VND cho nên tỷ giá liên ngân hàng lại cao
hơn tỷ giá mua bán của các ngân hàng thương mại. Cuối năm 2007, trong khi tỷ giá
liên ngân hàng là 16.144đ/1USD thì giá mua của các ngân hàng thương mại là
15.995đ/1USD và hiện tượng dư ngoại tệ kéo dài đến quý III năm 2008 và trong
khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2008 có sự xáo trộn của thị trường ngoại hối mà
sau đó dần cho thấy việc căng thẳng ngoại tệ không hẳn là do nguồn cung bị thiếu.
Theo thống kê cả năm 2008, Việt Nam nhập siêu 17 tỷ USD nhưng khoản thâm hụt
này được bù đắp bằng nguồn FDI 11.5 tỷ USD, kiều hối 8 tỷ USD nhưng tình trạng
căng thẳng ngoại tệ diễn ra từ tháng 5/2008 cho đến nhữn tháng sau này. Còn trước
đó thì ngoại tệ luôn dư thừa thậm chí có lúc người có ngoại tệ phải bán dưới giá công
bố chính thức. Vào tháng 3/2008 người dân và các doanh nghiệp có ngoại tệ đổ xô
đưa vào Ngân hàng bán với tỷ giá 15,300 VND/USD nhưng cũng không phải bán
được dễ dàng. Sau đó chừng hai tháng tình hình đã xoay chiều 180 độ, một số nhà
đầu tư gián tiếp tại thành phố Hồ Chí Minh rút khỏi thị trường khoản 200 triệu USD.
Tuy nhiên con số này không làm thâm hụt đáng kể nguồn ngoại tệ cả nước nhưng do
bị tác động tâm lý làm tỷ giá VND/USD tăng đến chống mặt, đầu tháng 5/2008 giá
USD ngoài thị trường tự do là 19,000 VND/USD. Rõ ràng trong vòng hai tháng mà
giá USD ngoài thị trường tự do tăng cao như vậy không phải là do cung cầu mà do
yếu tố tâm lý. Số ngoại tệ mà các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp
có nguồng thu ngoại tệ đang găm giữ là rất lớn có khả năng đáp ứng phần lớn nhu
cầu ngoại tệ thanh toán. Nhưng tại sao họ không bán cho ngân hàng đưa đến tình
trạng khan hiếm ngoại tệ giả như trên. Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp kỳ
vọng tỷ giá USD/VND lên và thứ hai họ muốn “tự bảo vệ” tránh rủi ro khi phải lâm
vào tình trạng thiếu ngoại tệ phải đi mua lại từ ngân hàng thương mại, như vậy do kỳ
Nhóm 8 21
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
vọng tỷ giá USD/VND tăng lên và mức độ tin tưởng vào biện pháp điều hành tỷ giá
của Ngân hàng Nhà nước chưa cao lắm, các doanh nghiệp găm giữ số lượng ngoại tệ
vượt mức nhu cầu thanh toán của mình làm cho hoạt đông của thị trường ngoại hối bị
bóp méo.

Tình hình căng thẳng ngoại tệ đó kèo dài khi thì gay gắt khi thì giảm cường độ và
duy trì cho đến năm 2009. Nguồn cung không phải thiếu nhưng các doanh nghiệp có
ngoại tệ chỉ bán cho ngân hàng khi cần thiết mặc dù không phải tỷ giá bất hợp lý mà
do các doanh nghiệp có ngoại tệ tỷ giá USD/VND, hoặc biên độ tỷ giá phải tăng mãi.
Ta hãy xem lại diễn biến tỷ giá VND/USD trong tháng 3/2009: trước ngày
24/03/2009 (ngày biên độ tỷ giá được nâng lên +/- 5%), tỷ giá VND/USD ở thị
trường tự do dao động từ 17,660 đ/USD đến 17,690đ/USD trong khi đó tỷ giá niêm
yết chính thức tại các Ngân hàng thương mại (tỷ giá bán) từ tháng 01/2009-03/2009
dao động từ 17,480đ/USD đến 17,490 đ/USD nghĩa là tỷ giá VND/USD ở thị trường
tự do luôn cao hơn tỷ giá chính thức 180đ-190đ/USD. Ngày 24/03/2009 khi biên độ
tỷ giá +/- 5% được áp dụng thì tỷ giá bán chính thức 1USD= 17,825đ, trong khi đó ở
thị trường tự do 17,790đ thấp hơn tỷ giá bán chính thức 35đ/USD và chỉ 3 ngày sau
tỷ giá VND/USD ở thị trường tự do đã vượt tỷ giá chính thức, cho đến cuối tháng
5/2009 và tháng 6/2009 tỷ giá bán chính thức của Ngân hàng nhà nước lần lượt là
17,785đ/USD và 17,780đ/USD còn tỷ giá ở thị trường tự do là 18,200đ/USD và
18,380 đ/USD. Nguồn ngoại tệ ở thị trường tự do rất nhỏ nhưng do người đầu cơ trên
thị trường này có nhiều biện pháp kích động tâm lý nên thị trường tự do có tác động
chi phối đến tỷ giá VND/USD và có xu hướng là cao hơn tỷ giá chính thức. Việc nới
rộng biên độ tỷ giá là không thích hợp và biện pháp phá giá đồng Việt Nam lại đi
ngược theo xu hướng chung. Trong khi các đồng tiền Châu Á nơi nhận dòng vốn đầu
tư nước ngoại đổ vào giống như Việt Nam, họ đang cố gắng tích cực mua USD kìm
giá đồng ngoại tệ nhưng sau đó cũng buộc phải để cho đồng nội tệ tăng giá còn Việt
Nam thì lại phá giá đồng tiền của mình. Nếu không xác định gốc của vấn đề một cáh
tường tận thì việc phá giá VND hoặc nới rộng biên độ tỷ VND/USD lại càng kích
thích tâm lý găm giữ ngoại tệ hơn nữa và khiến cho thị trường ngoại hối càng xáo
trộn them, phá hoại kinh tế vĩ mô.
Nhóm 8 22
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Diễn biến ngoại hối căng thẳng như thế từ năm 2007-2009, ta có thể xét đến một
số nguyên nhân sau:

Yếu tố tâm lý: doanh nghiệp và người dân đều nhận thức sâu sắc rằng năm 2009
nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phải đương đầu với những khó khăn, thách thức của
cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu. Xuất khẩu, đầu tư nước ngoài cả trực
tiếp lẫn gián tiếp, kiều hối, du lịch, khả năng vay vốn nước ngoài… hay nói một cách
khác các nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế đều giảm sút và thậm chí một số lĩnh
vực còn giảm sút rất mạnh. Từ suy nghĩ đó đã tạo ra tâm lý lo ngại sự mất giá mạnh
của VND dẫn đến găm giữ ngoại tệ. Các doanh nghiệp xuất khẩu hay các doanh
nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ thì găm giữ trên tài khoản hoặc chỉ bán nhỏ giọt
cho thị trường. Các doanh nghiệp nhập khẩu thì vội vã bằng mọi cách và bằng mọi
giá đi mua ngoại tệ. Một bộ phận người dân cũng chuyển từ tiền gửi nội tệ sang tiền
gửi ngoại tệ. Theo số liệu thống kê của NHNN số dư tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức
kinh tế tăng liên tục trong suốt 4 tháng đầu năm 2009. Tiền gửi ngoại tệ của cả nền
kinh tế tăng 3,35%. Đây là hiện tượng không bình thường. Hàng năm, số dư tiền gửi
của tổ chức kinh tế lên xuống khá mạnh theo chu kỳ xuất, nhập khẩu, tạo ra sự lưu
thông của nguồn ngoại tệ nhằm tự điều tiết cung - cầu ngoại tệ trên thị trường. Bốn
tháng đầu năm nay số ngoại tệ này hầu như đóng băng.
Bên cạnh đó, hoạt động đầu cơ trên thị trường chợ đen cũng thừa cơ trỗi dậy.
Nắm được tâm lý của doanh nghiệp và người dân, giới đầu cơ chủ động đưa ra các tin
đồn thất thiệt, thậm chí còn tự tạo ra các đợt sóng trên thị trường ngoại tệ để mua bán
kiếm lời với thủ đoạn ngày càng tinh vi.
Yếu tố khách quan: Từ cuối năm 2008 đến nay, Chính phủ đã đưa ra các gói gồm
nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt nhằm hạn chế đến mức tối đa các tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu, duy trì tăng trưởng hợp lý, ổn
định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội; trong đó có nhóm giải pháp hỗ trợ 4% lãi
suất vay vốn ngân hàng bằng VND cho cả ba kỳ hạn: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Những chỉ số kinh tế vĩ mô của quý I và 4 tháng đầu năm 2009, cũng như tốc độ tăng
trưởng tín dụng tăng đều qua các tháng là minh chứng cho sự đúng đắn và kịp thời
của các giải pháp nêu trên, được dư luận xã hội đánh giá rất tích cực.
Nhóm 8 23
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật

Tuy nhiên, cũng có một thực tế là khi ta tiến hành hỗ trợ lãi suất vay VND 4% đã
đưa mặt bằng lãi suất vay VND thực tế của các doanh nghiệp và dân cư xuống 5% -
6% (trong một số trường hợp còn thấp hơn). Mặt bằng lãi suất này cũng bằng mặt
bằng lãi suất cho vay ngoại tệ hiện hành của hệ thống NHTM. Điều này vô hình
chung đã khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ tiến hành vay vốn bằng VND để mua ngoại tệ của các NHTM thay vì vay
vốn bằng ngoại tệ (hiệu quả kinh tế như nhau lại không bị rủi ro về biến động tỷ giá).
Thậm chí nhiều doanh nghiệp đang có số dư vay vốn ngân hàng bằng ngoại tệ cũng
tìm mọi cách vay VND mua ngoại tệ để trả nợ trước hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân
hàng. Số liệu thống kê cho thấy 4 tháng đầu năm 2009 tăng trưởng tín dụng nói
chung của cả nền kinh tế là 11,6%, trong khi đó tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ
lại giảm 2,5%. Thực tế này đã làm tăng đột biến nhu cầu mua ngoại tệ trong nền kinh
tế thay vì nhu cầu đó được giải quyết hài hòa qua các kỳ hạn khác nhau trong cả năm,
thậm chí cho cả các năm tiếp theo. Như đã nói ở trên, tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống
NH vẫn tiếp tục tăng lên, trong khi tín dụng bằng ngoại tệ lại giảm, dẫn đến tình trạng
hệ thống ngân hàng “thừa” ngoại tệ để cho vay nhưng lại thiếu ngoại tệ để bán cho
doanh nghiệp.
Ngoài ra, cũng còn phải kể đến một hiện tượng rất phổ biến là hiện nay nhiều
doanh nghiệp và người dân có nguồn thu ngoại tệ, thay vì trước đây để phục vụ cho
sản xuất kinh doanh trong nước của mình họ bán ngoại tệ cho hệ thống NHTM lấy
VND, thì nay dùng ngoại tệ để thế chấp vay VND. Theo tính toán gửi ngoại tệ tại
ngân hàng để lấy lãi suất 2% đến 3%, vay VND sau hỗ trợ phải trả từ 5% đến 6%,
như vậy thực tế phải trả lãi vốn vay ngân hàng ở mức 2% - 3%. Do vậy, theo tính
toán của họ đi vay ngân hàng không những không phải trả lãi mà còn được hưởng lãi.
Do đó, nhận thức rõ được vấn đề trên, nên vào ngày 24/11/2009, Thống đốc
Nguyễn Văn Giàu đã đưa ra một loạt các quyết định mới. Theo đó, ngày 25/11/2009
tỷ giá bình quân liên ngân hàng sẽ được điều chỉnh lên mốc kỷ lục mới là 17,961
VND/USD, tăng thêm 5,44% so với ngày 24/11/2009. Đồng thời biên độ tỷ giá giảm
từ +/-5% hiện nay xuống còn +/- 3%. Tính chung việc tăng tỷ giá liên ngân hàng và
giảm biên độ, tỷ giá chính thức sẽ tăng thêm 3,44%, qua đó cho đưa trần tỷ giá kinh

doanh tại các ngân hàng thương mại lên 18,500đ/USD, thay vì mức 17,885
Nhóm 8 24
Tiều luận môn TCTT GVHD: TS. Diệp Gia Luật
VND/USD ngày 24/11/2009. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước sẽ bán ngoại tệ cho các
Ngân hàng thương mại có trạng thái ngoại hối – 5%, yêu cầu các doanh nghiệp lớn
cam kết bán nguồn ngoại tệ cho ngân hàng thương mại.
Trước những biện pháp can thiệp để “giảm nhiệt” và dần ổn định thị trường ngoại
hối, thì sau hơn 1 tháng điều chỉnh tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng và co hẹp
biên độ giao dịch tỷ giá, cùng với chỉ đạo một số tập đoàn kinh tế lớn bán ra USD…
thị trường ngoại tệ đã phần nào bình ổn.
Thị trường ngoại hối đã có thêm chuyển biến tích cực khi Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) tiếp tục có Văn bản số 10215/NHNN-QLNH gửi NHNN Chi nhánh Thành
phố Hà Nội và TP.HCM đề nghị báo cáo theo định kỳ tuần về triển khai phối hợp
kiểm tra, giám sát hoạt động ngoại hối.
Theo văn bản này, các nội dung báo cáo về NHNN gồm: tình hình số liệu các đại
lý đổi ngoại tệ được cấp Giấy xác nhận trên địa bàn; phối hợp triển khai giữa chi
nhánh với các đơn vị liên quan trên địa bàn về thực hiện kế hoạch kiểm tra, thanh tra
hoạt động ngoại hối. Báo cáo của các chi nhánh gửi về NHNN chậm nhất vào thứ Tư
hàng tuần.
Hiện tỷ giá niêm yết trong chiều ngày 10/01/2010 của Eximbank, Vietcombank là
18.465 – 18.479 VND/USD. Còn tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do cùng thời
điểm trên là 19.400 -19.500VND/USD (mua - bán). Trên thị trường liên ngân hàng,
tỷ giá bình quân do NHNN công bố cùng ngày là 17.941 VND/USD.
Song nhu cầu về ngoại tệ có xu hướng tăng, do các nhà nhập khẩu đang vào đợt
thanh toán các hợp đồng nhập hàng phục vụ thị trường cuối năm. Nhu cầu về ngoại tệ
của các ngân hàng từ đó cũng tăng lên để đáp ứng cho khách hàng.
Mặc dù NHNN đã có cam kết bán lại ngoại tệ cho những ngân hàng có trạng thái
ngoại hối âm trên 5%, nhưng việc bán ra ngoại tệ cho các doanh nghiệp cũng có sự
chọn lọc kỹ đối tượng. Trong đó, các ngân hàng ưu tiên ở những lĩnh vực nhập khẩu
thiết yếu bởi cung – cầu ngoại tệ vẫn còn lệch pha và chưa được cân đối.

Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tuần qua đạt xấp xỉ 99.818 tỷ
VND và 2.855 triệu USD, bình quân đạt khoảng 19.963 tỷ VND/ngày và 571 triệu
USD/ngày.
Nhóm 8 25

×