Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đây thôn vĩ dạ bức tranh tâm cảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.23 KB, 12 trang )

Trong số các thi nhân thời Thơ mới (1932-
1945) có lẽ không mấy người có số phận ai
oán, nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử. Vận mệnh
cay đắng của thi sĩ như được tiên báo trước
qua ý nghĩa từng bút danh mà người con gần
cả cuộc đời gắn bó với vùng đất Quy Nhơn
đầy nắng và gió đã mang trước đó: Phong
Trần (gió bụi), Lệ Thanh (tiếng của nước
mắt), Hàn Mặc Tử (người đi trong màn lạnh).
Người thơ ấy với nỗi lòng quặn thắt “trải niềm
đau trên giấy mong manh” ấy để lại cho đời
nhiều thi phẩm bất hủ, trong đó có Đây thôn
Vĩ Dạ.

Nếu nói Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ hay
nhất trong đời thơ Hàn Mặc Tử thì e có phần
cứng nhắc và hơi khiên cưỡng, võ đoán
nhưng chắc chắn đây là bài thơ nổi tiếng
nhất, được đông đảo bạn đọc biết đến nhất.
Điều ấy có được phần cũng do bài thơ được
đưa vào giảng dạy ở bậc phổ thông trung học.
Đã có nhiều, rất nhiều các nhà nghiên cứu,
phê bình văn học kiến giải về Đây thôn Vĩ Dạ.
Bài viết này tiếp cận ở một góc độ mới: coi thi
phẩm như một giấc mơ. Một giấc mơ tổng kết
cuộc đời Hàn Mặc Tử. Chúng ta đều biết bài
thơ có xuất xứ từ một bức ảnh Hoàng Cúc gửi
tặngHàn Mặc Tử khi biết nhà thơ lâm trọng
bệnh. Thực tế sau đấy không bao lâu Hàn
Mặc Tử qua đời. Một trong những thuộc tính
của giấc mơ là sự hỗn độn, xuyên thấu thời


gian, không gian. Trong giấc mơ, chủ thể có
thể đi qua nhiều vùng không gian vào những
khoảng thời gian khác nhau. Trong giấc mơ
có tên Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã đưa
người đọc đi ngược về quá khứ, xuôi đến
hiện tại và hướng đến tương lai của đời mình.

1. Quá khứ tươi đẹp
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Chữ về trong câu đầu tiên của khổ thơ gợi
mở không chỉ một cuộc trở về mang ý nghĩa
về mặt không gian (thôn Vĩ) mà còn gợi mở
về mặt thời gian (quá khứ). Đó là sự trở về
quãng thời gian tươi đẹp (đã qua) của Hàn
Mặc Tử khi nhà thơ sống ở Huế, làm báo và
quen Hoàng Cúc. Quá khứ tươi đẹp ấy được
hiển hiện bằng gam màu xanh chủ đạo. Toàn
khổ thơ tràn ngập một màu xanh. Màu xanh
của hàng cau, màu xanh của ruộng vườn,
màu xanh của lá trúc. Màu xanh, theo quan
niệm của người phương Đông, là màu của sự
sống, màu của sức sống, màu của sự bình
yên, thanh thản. Ngoài ra sự xuất hiện của tia
nắng trong câu thơ thứ hai cũng là điều khiến
chúng ta cần quan tâm. Ánh nắng có khởi
thủy từ mặt trời. Mặt trời từ xưa đến nay, từ

đông sang tây đều được coi là biểu tượng của
khí dương, của một sự khởi đầu mới. Một
ngày mới, một tương lai mới đều được ví von
bằng sự xuất hiện của ánh sáng, của mặt trời.
Với việc xuất hiện dày đặc của màu xanh (3
trên 4 câu thơ) của ánh nắng báo hiệu sự
vầng dương đang hé rạng trong khổ thơ,
dường như Hàn Mặc Tử đã kín đáo bộc lộ
niềm nuối tiếc về một quá khứ tươi đẹp chưa
mấy cách xa. Đó là khoảng thời gian Hàn Mặc
Tử còn là chàng trai yêu đời, đầy khát khao
hoài bão với những câu thơ trong trẻo, lành
mạnh nhưng không kém phần lãng mạn, táo
bạo như:
Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn cúc ở trong sương.

Ở khổ thơ này cũng không thể không bàn
đến hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Chiếc lá trúc thanh mảnh che khuất gương
mặt chữ điền. Đó là khuôn mặt của ai, vì sao
phải che ngang? Câu hỏi này đã làm bao
người bình bài thơ phải lao tâm khổ tứ. Có
thể nói đây là câu thơ tốn nhiều bút mực nhất
của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Riêng
chúng tôi, từ góc nhìn của phân tâm học cho
rằng hình ảnh lá trúc và mặt chữ điền là một
personal (mặt nạ) của Hàn Mặc Tử trong giấc
mộng trở về quá khứ. Dẫu là trong mộng
nhưng do vẫn bị ám ảnh về bệnh tật và hình

hài (xấu xí, gớm ghiếc mà bệnh mang lại) nên
Hàn Mặc Tử cần một vật để che chắn khuôn
mặt thật của mình. Vật đó không gì hợp hơn
chiếc lá trúc và mặt chữ điền. Lá trúc (cây
trúc) tượng trưng cho người quân tử. Chữ
điền tượng trưng cho sự khôi ngô tuấn tú -
hình dạng. Đây là hai điều mà mọi chàng trai
đều mơ ước có được. Hàn Mặc Tử ở thời
điểm viết Đây thôn Vĩ Dạ đã bị bệnh tật đánh
cắp đi khuôn mặt và người đời ghẻ lạnh, lánh
xa. Vậy nên trong hành trình ngược về quá
khứ ấy, để tránh những phiền phức mang lại,
cách tốt nhất là cải trang với lá trúc và khuôn
mặt chữ điền.

Những kiến giải trên chúng tôi có sự hợp
lý nhất định trong khuôn khổ của phê bình
phân tâm học nếu nhìn từ mối quan hệ giữa
khổ thơ thứ nhất và khổ thơ thứ hai. Đang từ
quá khứ tươi đẹp, sự xuất hiện của mặt nạ
(dù đã mang ý đồ che chắn) nhưng vẫn gợi
cho chủ thể Hàn Mặc Tử về nỗi đau mình
đang phải gánh chịu. Lập tức, ý thơ quá khứ
tươi đẹp vụt tắt, hiện tại tàn nhẫn ập tới bằng
những lời thơ buồn bã.

2. Hiện thực ảm đạm
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Thời điểm hiện tại được đánh dấu bằng
cụm từ chỉ thời gian tối nay. Như đã trình bày
ở trên, hiện tại của Hàn Mặc Tử đượm một
màu u tối. Các hình ảnh ở hai câu thơ đầu
trong khổ đều biểu trưng cho sự không chắc
chắn, không chốn tựa nương. Gió vô hình,
mây vô dạng, dòng nước vô biên, tất cả đều
không bờ không bến, không có một sự ổn
định như các hình ảnh ở khổ một. Đã vậy
nhưng thứ vô hình, vô định dạng ấy lại không
gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng rời rạc và xa
nhau như chưa từng gắn kết. Gió mây vốn
quấn quýt với nhau nay chia xa. Dòng nước
trôi buồn bã, hoa bắp lay nhẹ nhàng càng
nhuốm vẻ ảm đạm, thê lương. Sự xuất hiện
của ánh sáng cũng không làm tình hình sáng
sủa hơn. Ánh sáng của nắng đã biến mất thay
vào đó là ánh sáng của mặt trăng. Mặt trăng
là biểu tượng của khí âm do đó ánh sáng phát
ra từ mặt trăng gợi nhiều đến sự huyền ảo
hơn là sức sống như mặt trời. Khí dương mất,
khí âm thịnh. Rõ ràng đây là những dấu hiệu
báo điềm không hay. Trong bối cảnh ấy, con
người xuất hiện qua đại từ phiếm chỉ ai với lời
khẩn cầu và mong ngóng, da diết: Có trở
trăng về kịp tối nay càng làm cho không gian
nhuốm thêm màu buồn. Cũng viết về nỗi
mong ngóng vầng trăng và con đò, trong Bến

My Lăng, Yến Lan viết: Tiếng gọi đò, gọi đò
như oán trách/ Gọi đò thôi run rẩy cả ngành
trăng. Chàng kỵ mã trong thơ Yến Lan dù ở
gọi đò gọi đò như hối hả/ Sợ trăng vàng rơi
khuất lối chưa đi vẫn làm chủ được tình
huống, vẫn còn có quyền (trách cứ) người lái
đò mải say trăng đầu gối sách còn tâm tư
người gọi đò, chờ đò trong khổ thơ này của
Hàn Mặc Tử thật tội nghiệp, yếu đuối. Dường
như con người ấy không còn biết bấu víu vào
đâu, không còn biết tin ai trên cõi đời này
nữa. Có lẽ chỉ ở trong tâm trạng ấy, nhà thơ
mới có sự mong ngóng, van vỉ với lời lẽ da
diết làm thương cảm lòng người đến thế.

Hiện thực u ám đó đưa chủ thể lang bạt
trong giấc mơ đến tương lai. Đáng buồn thay
đó lại là:

3. Tương lai u ám
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.

Màu sắc chủ đạo trong khổ thơ là sắc
trắng. Trước nhất, màu trắng từ áo người em
gái: Áo em trắng quá nhìn không ra. Một màu
trắng tượng trưng cho sự thanh khiết của
người con gái. Với những người trong mộng

của mình, Hàn Mặc Tử luôn có ý nghĩ trong
sáng, tôn thờ một cách thánh thiện như vậy.
Nhưng đến câu thơ thứ ba, sắc trắng chuyển
sang ý nghĩa khác hẳn: Đó là màu của tang
tóc, thê lương. Nhà nghiên cứu Đặng Tiến
trong bài viết Hàn Mặc Tử và bài thơ thôn Vỹ
đã có nhận xét rất tinh rằng: “chữ nhân ảnh có
nghĩa là hình bóng người xưa, một chút nghĩa
cũ đang mờ dần nhạt dần với thời gian.
Nhưng hiểu rộng ra, trong kinh Phật, nó còn
diễn tả kiếp sống mong manh, có có không
không. Các cụ sẽ xem câu thơ đây là điềm dữ
cho tác giả, một câu thơ “trệ”, báo hiệu việc
không may.” Sắc trắng trong câu thơ thứ ba
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh mang âm
hưởng của sắc trắng trong Viếng hồn trinh nữ
của Nguyễn Bính:
Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi
Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những vòng hoa trắng lạnh người.

Như vậy là Hàn Mặc Tử đã dự biết được
về kết cục không mấy tốt đẹp đang chờ mình
ở tương lai. Nên không phải ngẫu nhiên màu
trắng chiếm gam màu chủ đạo trong khổ thơ
này. Cũng ở khổ thơ cuối ở đây không còn
ánh sáng. Mặt trời và mặt trăng đều biến mất.
Khí âm và khí dương đều không còn. Ánh
sáng giờ đây chỉ là màu trắng nhợt nhạt thông

qua màn sương khói

Và đến câu cuối cùng: Ai biết tình ai có
đậm đà là một tiếng thở dài của con người đã
ý thức được cái kết cục của đời mình. Câu kết
ấy gợi cho chúng ta nhớ đến tiếng thở dài của
Nguyễn Du: Bất tri tam bách dư niên hậu/
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Nhưng bên
cạnh cảm giác buồn đau đáu như câu thơ của
bậc đại thi hào, Ai biết tình ai có đậm đà còn
dư vị trách móc, dỗi hờn, ai oán của một số
phận nghiệt ngã. Một lời hờn dỗi làm người
đọc nhói lòng.

Giờ đây khi Hàn Mặc Tử đã đi xa được mấy
chục năm. Chuyện của nhà thơ với những
người trong mộng là câu chuyện riêng. Còn
với chúng ta, thế hệ đi sau có thể nhận thức
rõ được một điều rằng: tình cảm bạn đọc
dành cho nhà thơ và những thi phẩm của ông,
trong đó có bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ tuyệt
phẩm này thật sự là đậm đà. Hàn Mặc Tử giờ
không còn phải trải niềm đau trên giấy mong
manh nữa. Niềm đau ấy được thế hệ sau hiểu
và cảm thông, hòa đồng. Ngày ngày ở ngôi
mộ của thi nhân bên Quy Nhơn vẫn có lớp
lớp người yêu thơ đến viếng. Và ngày ngày ở
đâu đó trên dải đất hình chữ S này, ai đó vẫn
cất giọng ngâm những Mùa xuân chín, Bẽn
lẽn, Đây thôn Vĩ Dạ

Tôi nghĩ họ Hàn nơi thế giới bên kia cũng thấy
ấm lòng.

×