Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Đây thôn Vĩ Dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.2 KB, 8 trang )

Đây thôn Vó Dạ
Hàn Mặc Tử
Hiếm có bài thơ nào sự nhận thức và đánh giá của người đọc thơ, giới bình thơ lại
khác nhau, thậm chí tương phản, đối chọi nhau nhiều như “Đây thôn Vó Dạ” của Hàn
Mặc Tử. Nhiều người cho rằng bài thơ là một thi phẩm được viết ra để ca ngợi xứ Huế
đẹp và thơ, và mỗi khổ thơ tương ứng với một vẻ đẹp tuyệt vời của xứ sở mộng mơ đó
: vườn cây Huế, sông nước Huế và những người con gái Huế. Song lại có những người
( có phần đông đảo hơn ) muốn hiểu “Đây thôn Vó Dạ” như một bài thơ diễn tả một
tình yêu tha thiết nhưng đơn phương và vô vọng của thi nhân với một người con gái
Huế mang tên Hoàng Kim Cúc.
1
Chắc hẳn tấm bưu ảnh mang hình một bến sông mà cô Cúc gửi tặng thi nhân đã gọi về
hết thảy những kỉ niệm ngọt ngào xa xưa, và cũng khơi nguồn cho một niềm tuyệt
vọng. Vì thế, nét liên tưởng đầu tiên chính là về thôn Vó, và phải là một “Vó Dạ hừng
đông” ( theo cách nói của Hàn Mặc Tử ) với đầy đủ vẻ tinh khôi, đẹp đẽ :
Sao anh không về chơi thôn Vó ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền ?
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi, vừa như mời gọi, lại vừa như thấp thoáng một lời
hờn trách. Có thể đó là giọng của một người con gái và cũng rất có thể câu thơ ấy liên
quan đến lời mà Hoàng Cúc gửi đến Hàn Mặc Tử cùng tấm bưu ảnh về Vó Dạ và sông
Hương. Cũng như trong bài thơ, những câu thơ giống hơn với lời một nhân vật trữ tình,
một chàng trai đang tự hỏi lòng mình. Và lời người con gái nếu có thì đã thấm vào
lòng người con trai rồi biến thành lời tự hỏi. Người con trai có thể cứ nhắc đi nhắc lại
câu hỏi ấy, khiến nó trở thành lời ám ảnh. Đó còn là câu hỏi được nói ra với một âm
điệu lạ thường, bởi câu thơ bảy chữ thì có đến sáu chữ mang thanh bằng giăng ra liên
tiếp. Năm trong sáu thanh bằng ấy lại đều là thanh ngang, chỉ một chữ “về” mang
thanh huyền, làm nên giọng thơ với giai điệu nhẹ nhàng, bâng khuâng man mác
nhưng chơi vơi, cảm giác không yên lòng, không bình ổn. Như thế, câu thơ càng bâng
khuâng, mênh mang và ám ảnh. Câu hỏi ấy cũng như là một cái cớ giúp nhà thơ mở


ra cả một trời tưởng tượng.
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Đến câu thơ thứ hai, cảnh sắc thôn Vó Dạ hiện lên trong con mắt của thi nhân, rất hợp
với thi đề “là một thôn Vó Dạ hừng đông”. Thôn Vó Dạ vốn là một hàng quê đẹp bên
bờ sông Hương, một vùng ngoại ô thơ mộng, nơi có nhiều khu vườn xanh tươi. Và
trong thơ, Vó Dạ hiện lên với ấn tượng đầu tiên bằng ánh nắng, không phải là nắng
bình thường mà là “nắng mới lên”, bắt đầu một ngày mới, một buổi ban mai của
nguồn sống tràn trề, của vạn vật sinh sôi nảy nở. Câu thơ có đến hai chữ “nắng” chia
đều cho hai nhòp thơ, như thể có một dấu gạch ngang vô hình ngăn cách. Ánh nắng
trong trẻo tinh khôi của thời khắc đầu ngày là “nắng mới lên”. Nắng rọi vào những
rặng cau mảnh dẻ, cao vút, những tán cau ở tít trên cao xoè rộng ra đón lấy nguồn
sáng đầu tiên, gợi nên một cảm giác trong veo, nhẹ nhàng, bay bổng. Cảm giác như
những tia nắng đầu ngày rực rỡ như đổ tràn vào lòng tán lá, rồi từ từ rót xuống thấp
hơn, toả lan dần ra khôn gian, đem theo một chút gì của sắc cau xanh biếc. Nắng ở tít
trên cao làm cho cảnh vật như bừng sáng hẳn lên.Cảm giác nhẹ nhàng ấy không chỉ
được đọc thấy trên ý nghóa của lời thơ, cũng như được nhìn thấy qua hình ảnh, mà còn
như nghe thấy được qua thanh âm của dòng thơ cứ như bổng lên mãi ở phía cuối câu.
Và hình ảnh hàng cau còn gợi lên không khí của làng quê như đã có từ lâu đời. Bởi
2
thế, nhà thơ Vũ Quần Phương cũng đã nhận xét :” Cái nắng hàng cau mới lên sao lại
gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế “.
Ánh sáng ban mai dần hạ thấp xuống trong câu thơ thứ ba :
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Con mắt thi nhân đã thôi không ngước nhìn lên về phía bầu trời mà tâm hồn ấy như
muốn chan hoà vào vườn cây Vó Dạ- nét độc đáo làm nên vẻ đẹp của một phần xứ
Huế mộng mơ. Lúc này vườn cây đã bao phủ bởi sắc vàng dòu dàng của ánh nắng và
được nhuộm một màu xanh “mướt”. Ngay sau chữ “vườn”, nhà thơ như vô tình đặt
một chữ “ai”, một đại từ phiếm chỉ làm cho hình ảnh của vườn cây ấy vừa như thực lại
vừa như hư ảo, mơ màng. Nhưng nếu thế thì hẳn không có gì đặc sắc, nếu như những
chữ ấn tượng nhất của câu thơ không đặt ở hai từ “mướt quá” và phép so sánh “xanh

như ngọc”. Chắc hẳn ít ai có thể dùng một cách bất ngờ, táo bạo như Hàn Mặc Tử, khi
nhà thơ tách chữ “mướt” và đảo lên trước chữ “xanh”, cách biệt bởi một chữ “quá”
như nhấn mạnh và bởi một nhòp khác hơn. Chữ “mướt” gợi nên vẻ tốt tươi, mơn mởn
của sự sống, của cây cối trong vườn. Nói đến “mướt” là nói đến vẻ mềm dòu, mượt
mà, non tơ nhất. Chỉ vậy thôi đã đủ gợi ra một khu vườn tràn trề nhựa sống. Vậy thì tổ
hợp “mướt quá” hẳn sẽ được tôn lên nữa và nổi hẳn lên giữa dòng thơ bằng ý nghóa
và cả thanh âm của hai chữ ấy. Nhà thơ như muốn bằng ngôn từ mà có thể diễn tả,
bộc bạch đến tột cùng cái cảm giác yêu đến đắm đuối, mê man đến như muốn vuốt vẻ
bằng đôi mắt cái vẻ non tơ, mơn mởn của một khu vườn ăm ắp sức trẻ trong buổi Vó
Dạ hừng đông. Nếu như trước Hàn Mặc Tử, người ta chỉ cho “mướt” đi cùng “xanh”
để bổ sung ý nghóa làm nên “xanh mướt” thì Hàn Mặc Tử không chòu đi theo lối mòn
ấy. Ấn tượng đầu tiên của vườn cây đối với thi nhân là “mướt” rồi mới đến “xanh”,
được đặt vào một sự kết hợp đứng sau -“xanh như ngọc”. Có vẻ như sau những phút
giây mê đắm, yêu thương đến choáng ngợp thì nhà thơ mới nhận ra được sắc xanh của
khu vườn. Và đến khi ấy, màu xanh lại được tắm trong vẻ huyền diệu bởi sự so sánh
độc đáo “xanh như ngọc”, một màu xanh được lọc qua ánh sáng rất đẹp và gợi cảm.
Nếu Xuân Diệu đã viết trong “Thơ duyên”:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
thì Hàn Mặc Tử nói “xanh như ngọc”, có gì khác nhau ? Vâng, sẽ là rất khác nếu hiểu
được “xanh ngọc” chỉ gợi ra ấn tượng về màu, còn “xanh như ngọc” thì không chỉ là
màu mà còn là ánh lung linh, long lanh, vẻ thanh khiết và cao q của ngọc. Như thế
chính nhà thơ đã nói hết vẻ trong trẻo và q giá trong sắc xanh của vườn cây thôn Vó
ấy, để biến cây cối ấy phần nào giống như khu vườn của cõi huyền ảo, mộng mơ.
Viết về cảnh đẹp Vó Dạ, nhà thơ Bích Khê cũng có lần đã nói :
Vó Dạ thôn, Vó Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say.
thì hẳn “trúc” cũng là một nét độc đáo riêng của khu vườn xứ Huế. Vì thế Hàn Mặc
3
Tử càng có cớ khi viết :
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

“Trúc” gợi vẻ mảnh mai, mềm mại, còn khuôn mặt “chữ điền” lại mang nét thô mộc,
vuông vức, được đặt cùng nhau. Nhưng có lẽ dụng ý về nội dung của nhà thơ không ở
chỗ đó, bởi khuôn mặt chữ điền đối với Hàn Mặc Tử cũng chỉ làm đẹp thêm cảm giác
mơ ảo, thực hư của vườn cây Vó Dạ. Và để “lá trúc che ngang mặt chữ điền” cũng
chính là tạo nên sự hài hoà, hoà đối của những nét đẹp khác nhau, bổ sung và tôn lên
cái đẹp của nhau. Biết đâu trong hồi ức của nhà thơ, ẩn sau những cành trúc điệu đà
ấy lại không phải là những khuôn mặt dòu hiền, đoan trang, phúc hậu của những cô
gái Huế ? Chính bởi vậy “Đây thôn Vó Dạ” sẽ khác biệt hẳn với những bài thơ điên
khác, bởi Hàn Mặc Tử hiện lên trước hết là một con người với niềm khao khát sống,
khao khát tận hưởng cuộc đời, được sống hết mình với sự tươi non, trẻ trung, tinh
khiết.
4
Nhà thơ đã sống trong hồi ức, mộng tưởng trong suốt bốn câu thơ đầu, nhưng đến khổ thơ
thứ hai, hình như có cái gì đó đã kéo ông dần về với thực tại. Vì vậy mà cảnh vật từ
một Vó Dạ hừng đông chuyển dần về trong đêm trăng, mà khác hơn cả, đó lại là một
sự chuyển đổi không báo trước, không nguyên căn trong tâm hồn tác giả. Sự tan tác,
chia lìa đột ngột hiện ra ngay ở câu thơ đầu :
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.
Gió và mây vốn là hai hình ảnh không thể chia lìa. Vậy mà cảm giác tan vỡ trong nhà
thơ mạnh mẽ tới mức cảm nhận được cả sự cách biệt của những vật thể tưởng chừng
như không thể cách biệt – “đường mây” và “lối gió”. Nhưng ngẫm cho kó, ở khổ thơ
này không chỉ là sự chia đôi mà còn là sự chia ba, hay nói đúng hơn không chỉ là sự
chia lìa giữa “mây” và “gió” mà còn buồn hơn là sự cách xa giữa “mây, gió” và
“dòng sông”. Gió mây bay đi hết, chỉ còn trơ lại dòng sông lẻ loi cô độc. Con sông
vẫn chảy trong tâm hồn nhà thơ nhưng lại được thả trôi một nỗi buồn, và lại còn ủ ê
hơn nữa khi nhà thơ viết “buồn thiu”. Dường như ẩn nấp sau vẻ buồn thiu ấy còn là
một chút chán chường. Dòng nước trước có gió, mây làm bầu bạn, tâm tình mà giờ thì
cô quạnh. Cảm giác ấy dường như càng đau đớn hơn khi bên dòng sông ấy hiện lên
một loài hoa không đẹp- “hoa bắp”. Giữa tất cả những cái tónh trong câu thơ nổi lên

một cái động- sự cựa quậy duy nhất trong khổ thơ. Hình ảnh “hoa bắp lay” tưởng sẽ
làm sống động cả không gian, mà cuối cùng lại chỉ là một sự lay động uể oải, chán
chường, không sức sống. Phải chăng nhà thơ muốn nói đến sự lẻ loi mất bạn của chính
mình, hay của người con trai với một người con gái ? Mà biết đâu ý thơ lại chẳng
mang dáng dấp của mối tình Mặc Tử - Kim Cúc ? Cảnh vật hiện lên đúng với nhòp
điệu chậm buồn của Huế. Và hình như không phải vô lý mà nhà thơ viết hai câu sau :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kòp tối nay ?
Khi gió và mây đã bay đi, dòng sông chỉ còn biết tìm đến trăng như để vớt vát lại sự
đền bù, để tìm đến miền cứu rỗi, để khỏi nỗi lẻ loi, trơ trọi. Và để đến câu thơ thứ ba
của khổ thơ chúng ta mới thấy hiện ra hình ảnh “thuyền đậu bến sông trăng”. Có thể
coi đó là một trong những tứ thơ hay vào bậc nhất của phong trào Thơ mới, bởi trước
Hàn Mặc Tử, nhiều người viết “thuyền chở trăng” nhưng chưa từng có ai viết “sông
trăng”. Hình ảnh ấy mở ra một cõi mộng, bởi nhà thơ hiểu hơn ai hết đó là con thuyền
ảo mộng trên bến sông ảo mộng. Cảm giác ấy còn được gợi lên bởi một đại từ phiếm
chỉ “ai”, khiến câu thơ chìm sâu vào cõi mộng ảo. Dường như ngay cả trong cõi mộng,
con người vẫn không thoát khỏi lo âu, trăn trở. Một câu hỏi thốt lên dường như không
tìm được lời đáp lại, bởi nhà thơ đã biết sông trăng không thể chở kòp thuyền trăng về
cõi mộng được. Và hình ảnh sông Hương, hình ảnh của người con gái mà nhà thơ yêu,
chỉ còn và mãi mãi là hư ảo, là trong mộng tưởng. Khổ thơ kết thúc bằng một câu hỏi
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×