Tải bản đầy đủ (.pdf) (264 trang)

NGUỒN lực và ĐỘNG lực CHO PHÁT TRIỂN NHANH và bền VỮNG nền KINH tế VIỆT NAM ở GIAI đoạn 2011 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 264 trang )


BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

CHƯƠNG TRÌNH KX.04/06-10
ĐỀ TÀI KX04.08/06-10







BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI
NGUỒN LỰC VÀ ĐỘNG LỰC CHO PHÁT TRIỂN
NHANH VÀ BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Ở GIAI ĐOẠN 2011 – 2020




Cơ quan chủ trì Đề tài: Viện Chiến lược Phát triển
Chủ nhiệm Đề tài: PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh





8382

Hà Nội, tháng 11 năm 2010


BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

CHƯƠNG TRÌNH KX.04/06-10
ĐỀ TÀI KX04.08/06-10






BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI
NGUỒN LỰC VÀ ĐỘNG LỰC CHO PHÁT TRIỂN
NHANH VÀ BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Ở GIAI ĐOẠN 2011 – 2020




Cơ quan chủ trì Đề tài: Viện Chiến lược Phát triển
Chủ nhiệm Đề tài: PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh
Thư ký Đề tài: PGS.TS. Bùi Tất Thắng
Ths. Nguyễn Hoàng Hà







Hà Nội, tháng 11 năm 2010


i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
1. Sự cần thiết của Đề tài 1
2. Tổng quan nghiên cứu về nguồn lực, động lực cho phát triển nhanh và
bền vững nền kinh tế 2
3. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của Đề tài 14
4. Phương pháp nghiên cứu và số liệu phục vụ nghiên cứu của Đề tài 15
5. Kết cấu nội dung báo cáo tổng hợp của Đề tài 16

PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUỒN LỰC VÀ
ĐỘNG LỰC CHO SỰ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
18
I. Nguồn lực phát triển 18
1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại nguồn lực 18
2. Mối quan hệ giữa nguồn lực và phát triển kinh tế 29
II. Động lực phát triển 32
1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thái biểu hiện của động lực 32
2. Vấn đề tạo lập, duy trì và phát huy động lực đối với phát triển kinh t
ế 41
3. Mối quan hệ giữa nguồn lực phát triển và động lực phát triển hướng tới
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững 47
III. Kinh nghiệm của thế giới về việc huy động, sử dụng các nguồn lực và
tạo động lực cho phát triển kinh tế 49
1. Kinh nghiệm của Nhật Bản phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa 49
2- Kinh nghiệm củ
a Hàn Quốc trong việc huy động và sử dụng vốn FDI cho
phát triển kinh tế

52
3- Kinh nghiệm của Singapore trong việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân
lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế 56
4- Kinh nghiệm của Trung Quốc thu hút nguồn vốn từ Hoa Kiều 60
IV. Những đặc điểm đặc thù của Việt Nam chi phối việc huy động và sử
dụng nguồn l
ực, phát huy và duy trì động lực cho phát triển 64
1. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên 64
2. Dân số, đặc điểm dân tộc và văn hóa 64
3. Đất nước bị tàn phá bởi nhiều cuộc chiến tranh 65
ii
4. Việt Nam mới bắt đầu tiến trình gia nhập toàn cầu hóa 65
5. Thể chế chính trị 65
PHẦN II. HIỆN TRẠNG THU HÚT, SỬ DỤNG NGUỒN LỰC, HUY
ĐỘNG, DUY TRÌ ĐỘNG LỰC CHO PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN
VỮNG
66
I. Thực trạng khai thác và sử dụng các nguồn lực phát triển ở Việt Nam
trong thời gian qua 66
1. Đối với nguồn vốn đầu tư phát triển 66
2. Đối với nguồn nhân lực 73
3. Đối với nguồn lực thông tin 79
4. Đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên đã được khai thác và sử dụng của
Việt Nam 82
5. Đối v
ới tiềm lực khoa học công nghệ 110
6. Đánh giá chung 116
II. Dự báo sơ bộ về khả năng một số nguồn lực chủ yếu và định hướng
huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực 118
1. Định hướng khả năng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở thời

kỳ 2011 – 2020 118
2. Định hướng phát tri
ển và phân bố lao động thời kỳ 2011 – 2020 của Việt
Nam 121
3. Định hướng khả năng khai thác và sử dụng một số tài nguyên thiên nhiên
chủ yếu 123
III. Thực trạng hình thành và phát huy động lực phát triển trong thời
gian qua của Việt Nam 129
1. Nhận xét chung 129
4. Ban hành cơ chế, chính sách tạo ra động lực phát triển 140
IV. Khác biệt theo vùng và lãnh thổ về nguồ
n lực phát triển và động lực
phát triển kinh tế 153
1. Đối với nguồn lực phát triển 153
2. Đối với động lực phát triển 156
PHẦN III. CÁC KIẾN NGHỊ ĐẢM BẢO NGUỒN LỰC VÀ ĐỘNG LỰC
CHO PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2011-2020
157
iii
I. Đổi mới nhận thức và quan niệm về nguồn lực và động lực phát triển
cho phát triển nhanh và bền vững 157
1. Về nguồn lực phát triển cho phát triển nhanh và bền vững 157
2. Về động lực phát triển cho phát triển nhanh và bền vững: cần khẳng định
chỉ có lợi ích kinh tế và tinh thần quốc gia dân tộc mới là động lực phát triển
161

3. Sử dụng nguồn lực vì con người, vì vậy phải mang tính nhân văn cao 163
4. Tạo dựng nguồn lực cho phát triển 163
5. Triệt tiêu các yếu tố “thui chột” động lực 163

II. Thực thi các giải pháp đột phá chiến lược trên quan điểm nguồn lực,
động lực để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta ở
thời kỳ 2011-2020 164
1. Cả
i tiến cơ cấu của nền kinh tế để sử dụng hiệu quả nguồn lực và tăng
cường khả năng cạnh tranh quốc tế 164
2. Nhà nước có chính sách khuyến khích về lợi ích kinh tế để tạo động lực
cho sản xuất kinh doanh và tạo động lực phát triển xã hội gắn kết, cởi mở 166
3. Nhà nước có chính sách hình thành nguồn lực cho phát triển 168
4. Nhà nướ
c có chính sách phát huy các nguồn lực, nhất là đối với giới kỹ
trị quốc gia và nguồn thông tin quốc gia 168
III. Kiến nghị bổ sung một số điểm đối với việc soạn thảo Cương lĩnh
phát triển đất nước, Báo cáo chính trị và Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội thời kỳ 2011-2020 phục vụ Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam 170
1. Đổi mới mô hình phát triển và mô hình tăng trưởng để sử dụng hiệu quả
các nguồn lực (gắn với lợi thế cạnh tranh quốc gia) 170
2. Phát huy tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc; khuyến khích mọi người sáng
tạo vì sự phát triển của quốc gia 172
3. Tạo điều kiện, kể cả bằng cơ chế chính sách để
giới kỹ trị quốc gia thể
hiện giá trị của mình đối với sự nghiệp phát triển đất nước 173
4. Nhà nước nhanh chóng thiết lập hệ thống thông tin thống nhất (có chất
lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển), nhất là thông tin về kinh tế, về khoa
học công nghệ và về liên kết quốc tế 174
5. Nhanh chóng đổi mới nhận thức, quan niệm về nguồ
n lực và động lực
phát triển 174
iv

IV. Kiến nghị những vấn đề cần nghiên cứu trong giai đoạn 2011-2015175
PHẦN PHỤ LỤC
179
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 187

v
DANH MỤC BIỂU, HÌNH VÀ HỘP
BIỂU
Biểu 01. Vai trò của người Hoa ở Đông Nam Á 61
Biểu 02. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện ở thời kỳ 2001-2010 (%) 68
Biểu 03. Cơ cấu GDP chia theo thành phần kinh tế qua các năm (%) 69
Biểu 04. Cơ cấu các nguồn vốn huy động bình quân trong thời kỳ 2001-2010 . 70
Biểu 05. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam năm 2009 76
Biểu 06. Một số chỉ tiêu về tiếp cận thông tin của Việt Nam 80
Biểu 07. So sánh Bộ chỉ tiêu phát triển của Việt Nam (Tổng cục Thống kê) và
Ngân hàng Thế giới 81

Biểu 08. Hiện trạng sử dụng đất tính đến thời điểm 01/01/2008 83
Biểu 09. Nguồn nước của các sông chính 86
Biểu 10. Các hồ chứa lớn ở Việt Nam 87
Biểu 11. Trữ lượng nước dưới đất có tiềm năng khai thác (tỷ m
3
/năm) 88
Biểu 12. Chất lượng nước của một số cơ sở công nghiệp ở thượng và hạ lưu 90
Biểu 13. Đơn sáng chế PCT của một số nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á 111
Biểu 14. Đơn sáng chế đã được nộp ở Cục Sở hữu trí tuệ quốc gia Việt Nam
từ 2000 đến 2007 112

Biểu 15.Tỷ trọng giá trị công nghiệp chế tác có trình độ công nghệ trung bình và
cao (MHT) trong GDP ngành chế tác (MVA) và trong xuất khẩu ngành chế tác

(MFD) của Việt Nam và một số nền kinh tế khác năm 2008 115

Biểu 16. Cơ cấu hàng xuất khẩu phân theo trình độ công nghệ của Việt Nam và
một số nền kinh tế năm 2008 (%) 117

Biểu 17. Dự báo nguồn lực vốn so với GDP (%) 120
Biểu 18. Dự báo cơ cấu sử dụng vốn đầu tư thời kỳ 2011 – 2020 (%) 121
Biểu 19. Dự báo nguồn lao động Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020 (%) 121
Biểu 20. Dự báo cơ cấu sử dụng lao động của Việt Nam thời kỳ đến năm 2020
(%) 123

Biểu 21. Dự báo về cơ cấu sử dụng đất vào năm 2020 125
Biểu 22. Cơ cấu kinh tế chia theo ngành thời kỳ 2001-2010 (%) 133
vi
Biểu 23. Thời gian và chi phí khởi sự doanh nghiệp thời kỳ 2005-2008 139

Biểu 24. Cơ cấu một số nguồn lực phát triển chủ yếu phân theo vùng và lãnh thổ 154

HÌNH
Hình 01: Đường giới hạn khả năng sản xuất 5
Hình 02: Quá trình mở rộng đường giới hạn khả năng sản xuất 6
Hình 03: Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế 20
Hình 04: Quá trình động lực 33
Hình 05: Tháp động lực của con người 34
Hình 06: Mô hình tổng quát về các yếu tố quyết định và quá trình diễn biến của
hành động có động lực 35

Hình 07: Trung tâm động lực (TA: Motivation Hub) 36
Hình 08: Hai loại quan niệm về động lực phát triển 40
Hình 09: Khung tăng trưởng kinh tế có chất lượng 49

Hình 10: Kiều hối chính thức, FDI, và dự trữ ngoại tệ (tỷ USD) của Trung Quốc
từ năm 1990 đến năm 2009 63

Hình 11: Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư của Việt Nam qua các năm 66
Hình 12: Chuyển dịch cơ cấu GDP theo khối ngành thời kỳ 2001-2010 (%) 68
Hình 13: Cơ cấu, tốc độ tăng và quy mô vốn đầu tư năm 2000, 2005 và 2009
theo thành phần kinh tế 69

Hình 14: Quy mô chuyển Kiều hối từng năm của Việt Nam (triệu USD) 70
Hình 15: Mức dự trữ ngoại tệ của Việt Nam từ năm 1990 đến năm 2009 73
Hình 16: Năng suất lao động năm 2008 của một số nền kinh tế trên thế giới 74
Hình 17: Khoảng chênh lệch giữa tỷ trọng lao động nông nghiệp và tỷ trọng GDP
ngành nông nghiệp của Việt Nam và một số nền kinh tế từ năm 1990-2008 75

Hình 18: Tương quan mạnh giữa năng suất nghiên cứu khoa học với chỉ số phát
triển con người ở các nước Đông Á 112

Hình 19: Tỷ trọng vốn đầu tư so GDP và tốc độ tăng bình quân năm thời kỳ
2001-2010 (%) 119

Hình 20 Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, của khu vực Nhà nước và
của khu vực tư nhân (%) 131

vii
Hình 21 FDI (1.000 tỷ đồng) và tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư (%) 138

Hình 22: Diễn biến của chỉ số VN-Index giai đoạn 2006-2008 144
Hình 23: Tiến trình quản lý đất đai từ nguồn tài nguyên đến nguồn vốn trong xã
hội 151


Hình 24: GDP/người năm 2009 của các vùng trong cả nước (USD) 156

HỘP
Hộp 01: Định nghĩa về nguồn lực trong Từ điển 20

Hộp 02: Bài học lịch sử về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô 46
Hộp 03: Thành công của Nhật Bản áp dụng chính sách thúc đẩy phát triển công
nghệ 52

Hộp 04: Vẫn chậm và chưa hiệu quả 71
Hộp 05: Nợ tiêu chuẩn 77
Hộp 06: Giám sát giáo dục đại học: Vỡ ra nhiều bất cập 78
Hộp 07: Hơn 250.000 ha đất … bỏ hoang 84
Hộp 08: Nhiều cán bộ công chức rời bỏ công sở tại Thành phố Hồ Chí Minh 134
Hộp 09: Thủ tục hành chính đang cản trở kinh doanh 137
Hộp 10: Các mục tiêu chiến lược về phát triển nguồn nhân lực và lao động việc
làm đến năm 2010 149

viii



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BOT Xây dựng – Hoạt động – Chuyển giao
BTB&DHTB Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng

ĐNB Đông Nam Bộ
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HDI Chỉ số phát triển con người
HKG Hong Kong
IMF Quỹ Tiề
n tệ Quốc tế
IND Ấn Độ
INO Indonesia
JAP Nhật Bản
KCN Khu công nghiệp
KCX Khu Chế xuất
KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư
KOR Hàn Quốc
KTQD Kinh tế Quốc dân
KTNN Kinh tế Nhà nước
KTTĐ Kinh tế trọng điểm
KTTN Kinh tế tư nhân
KVKT Khu vực kinh tế
MAL Malaysia
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NIEs Các nền kinh tế công nghiệp mới
NXB Nhà xuất bản
ix
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
PCT Hiệp ước hợp tác về sáng chế
PHI Philippines
PRC Trung Quốc
QLNN Quản lý Nhà nước
R&D Nghiên cứu và triển khai

SIN Singapore
TA Tiếng Anh
TAP Đài Loan (Trung Quốc)
TD&MNPB Trung du và miền núi phía Bắc
THA Thái Lan
TN Tây Nguyên
USD Đô-la Mỹ
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VHTT Văn hóa Thể thao
VNA Việt Nam
VT&BC Viễn thông & Bưu chính
WB Ngân hàng Thế giới
WIPO Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới
WTO Tổ chứ
c Thương mại Thế giới

x

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHÍNH
Họ và tên Cơ quan/ Địa chỉ
1 Trần Việt Phương Trần Quang Diệu, Hà Nội
2 PGS.TS. Nguyễn Khắc Thanh Viện Kinh tế Chính trị Học
3 PGS.TS. Lê Du Phong Đại học Kinh tế Quốc Dân
4 GS. TS. Bùi Hiếu Đại học Thủy Lợi
5 PGS.TS. Bùi Quang Dũng Viện Xã hội học
6 GS.TS. Ngô Đức Thịnh Viện Nghiên cứu Văn hóa
7 PGS.TS. Lê Huy Hàm Viện Di truyền Nông nghiệp
8 PGS.TS. Lê Văn Cương Bộ Công An
9 PGS. TS. Bùi Tất Thắng Vi
ện Chiến lược Phát triển

10 PGS.TS. Hoàng Sỹ Động Viện Chiến lược Phát triển
11 TS. Đinh Quang Ty Hội đồng Lý luận Trung Ương
12 TS. Đặng Xuân Thanh Viện Kinh tế Chính trị Thế giới
13 TS. Đinh Quang Thuận Viện Nghiên cứu Địa chất
14 TS. Nguyễn Xuân Thu Viện Chiến lược Phát triển
15 TS.Trần Kim Chung Viện Quản lý kinh tế Trung ương
16 TS. Đỗ Văn Thành Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế
- xã hội Quốc gia
17 TS.Trần Tú Cường Viện Nghiên cứ
u Địa chính
18 TS. Nguyễn Công Mỹ Viện Chiến lược Phát triển
19 Ths. Vũ Huy Quang Ngân hàng Nhà nước
20 Ths. Nguyễn Hoàng Hà Viện Chiến lược Phát triển
21 Ths. Nguyễn Thị Hồng Minh Đại học Kinh tế Quốc dân
22 Ths. Nguyễn Thị Lan Hương Viện Chiến lược Phát triển
23 Ths. Phạm Lê Hậu Viện Chiến lược Phát triển
24 Đặng Huyền Linh Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế
- xã hội quốc gia
25 Khúc Văn Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo
1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của Đề tài
Việc huy động được tốt nhất các nguồn lực cũng như tạo ra và duy trì
được cao nhất và liên tục động lực để phát triển vốn là những vấn đề then chốt
của các chính sách phát triển kinh tế của mọi quốc gia, mọi thời đại. Có thể
khẳng định rằng, ở đâu và khi nào, các chính sách giải quyết thỏa đáng được vấn
đề này, ở đó và khi đó có phát triển. Hơn nữa, để phát triển nhanh và bền vững
thì việc huy động các nguồn lực và tạo động lực lại càng đòi hỏi các chính sách
phải dựa trên những căn cứ khoa học vững chắc. Do đó, giới nghiên cứu và các

nhà làm chính sách trên thế giới cũng như Việt Nam rất quan tâm đến những vấn
đề liên quan đến nguồn lực và động lực của sự phát tri
ển. Nhiều vấn đề lý luận,
nhất là về khía cạnh kinh tế chính trị trong bối cảnh mới chưa thật rõ. Đối với
mỗi quốc gia, các nguồn lực bao giờ cũng hữu hạn, “khan hiếm”; còn động lực
thì luôn luôn phải có; một khi không còn thì cũng không thể phát triển. Vì vậy,
quan niệm thế nào về nguồn lực, động lực, đặc biệt là trong bối cảnh mới mà
thời đại
đang mở ra, với những xu hướng phát triển chủ yếu là toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức, hình thái
phân công lao động quốc tế mới…; vai trò của các yếu tố nguồn lực truyền
thống và “phi truyền thống”; làm thế nào để tạo ra và phát huy có hiệu quả
nguồn lực, động lực cho phát một cách lâu bền nhất, sự tác động qua lại giữa
nguồn l
ực và động lực, luôn được đặt ra với các nhà nghiên cứu cũng như các
nhà làm chính sách. Đối với Việt Nam, hiện nay chưa có nhiều công trình
nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề nêu trên, trong khi thực tiễn phát triển
đất nước đòi hỏi phải có nhận thức mới, đúng đắn về nguồn lực và động lực cho
phát triển, từ đó có thể đưa ra được những định hướng, chính sách sử dụng, phát
huy chúng phục vụ cho sự phát triển ngày càng đi lên của đất nước.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, mức độ cạnh tranh để có được các
nguồn lực ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Các cường quốc cũ và mới
đang thực hiện những chiến lược “tranh đoạt” những nguồn lực có tính chiến
lược. Nhiều cuộc chiến tranh đã và đang xảy ra do sự “tranh đoạ
t” này giữa các
nước. Toàn cầu hóa cũng là cơ hội cho nhiều nước tranh thủ biến nguồn ngoại
lực trở thành nguồn nội lực để mở rộng khả năng sản xuất của nền kinh tế, đưa
quốc gia đó phát triển. Sau hơn 20 năm đổi mới, giới hạn và tính khan hiếm của
nhiều loại nguồn lực là thực tế hiển nhiên ở nước ta,
đặc biệt là sự khan hiếm về

vốn đầu tư, các hạn chế về thông tin, khả năng phát minh và ứng dụng công
nghệ cao cũng như sự yếu kém về nhân lực trong quá trình tham gia nền kinh tế
toàn cầu. Hơn nữa, trong lúc đất nước mới ra khỏi tình trạng kém phát triển, thì
2
việc huy động và sử dụng nguồn lực lại chưa tốt, còn phổ biến tình trạng sử
dụng lãng phí các nguồn lực. Mặt khác, động lực cho phát triển chưa có được sự
nhận thức đầy đủ và phát huy một cách đúng đắn, triệt để. Chúng ta đã phát huy
được động lực rất lớn, rất mạnh trong các công cuộc bảo vệ và giữ nước, nhưng
điều đ
ó lại không được duy trì thường xuyên, liên tục, và đều đặn trong công
cuộc phát triển kinh tế.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, thì không thể không thừa nhận đó là
những khiếm khuyết rất nghiêm trọng, đang ảnh hưởng rất bất lợi đến công cuộc
phát triển của Việt Nam. Làm thế nào để có nhận thức và hành động một cách
khoa học dưới góc độ lý luận chính trị về nguồn lự
c và động lực phát triển đất
nước cũng như đưa ra được những quan điểm mới về động lực và nguồn lực
trong thời đại toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, đóng
góp cho việc xây dựng Cương lĩnh phát triển đất nước và Chiến lược phát triển
đất nước trong thời kỳ mới là một mục tiêu quan trọng, thiết thự
c của Đề tài
KX.04.08/06-10. Giai đoạn 2011-2020, đất nước ta sẽ bước sang thời kỳ thực
hiện chiến lược 10 năm lần thứ 3. Trong lúc công việc chuẩn bị nghiên cứu nội
dung chiến lược phát triển đất nước thời kỳ này đang được ráo riết chuẩn bị,
việc nghiên cứu đề tài này sẽ là rất kịp thời và có nghĩa thực tiễn thiết thực, góp
phần vào việ
c luận giải những căn cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách
đối với các nguồn lực và động lực cho chiến lược phát triển đất nước.

2. Tổng quan nghiên cứu về nguồn lực, động lực cho phát triển nhanh

và bền vững nền kinh tế
Khó có thể kể hết những ấn phẩm khoa học bàn đến các nội dung khác
nhau của nguồn lực và động lực phát triển kinh tế. Nhiều người còn nhớ câu mà
C. Mác (K. Marx) đã trích dẫn William Petti: “Lao động là cha, đất là mẹ của
của cải vật chất”. Hầu như mọi người cũng đã khá quen thuộ
c với những công
trình nghiên cứu bàn về các nguồn lực của phát triển kinh tế như vốn đầu tư, lao
động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, khoa học - công nghệ Giới nghiên cứu
cũng không xa lạ với những phân tích về động lực đối với phát triển như lợi ích
vật chất, lợi ích tinh thần, thi đua, khen thưởng, cạnh tranh… Còn sự phát triển
nhanh và bền vững thì đang được các sách báo đề cập đến nh
ư một trong những
chủ đề “nóng” kể từ những năm đầu của thế kỷ XXI đến nay.
Trong số những công trình nghiên cứu trực tiếp liên quan tới chủ đề
nguồn lực và động lực phát triển đã xuất bản trong những năm gần đây, phải kể
đến cuốn sách Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường
định hướ
ng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1
do GS.TSKH. Lê Du Phong
2
chủ biên.


1
NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2006
2
Nguyên quyền Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
3
Công trình này đã đề cập đến những vấn đề lý luận về nguồn lực và động lực

phát triển, bao gồm các khái niệm, vai trò và yêu cầu của việc phân bổ nguồn
lực, phát huy động lực; kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về sử dụng và
phát huy nguồn lực và động lực trong phát triển. Cuốn sách cũng đã đánh giá
thực trạng sử dụng các loạ
i nguồn lực của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới, gồm đất đai và tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, vốn, khoa học – công
nghệ, văn hóa vật thể và phi vật thể; thực trạng phát huy các loại động lực, bao
gồm cơ chế thị trường, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, cơ chế kích thích lợi ích
kinh tế, cơ chế cạnh tranh và truyền thống văn hóa. Cuốn sách cũ
ng trình bày
quan điểm, phương hướng và các chính sách, giải pháp nâng cao chất lượng
nguồn lực, sử dụng hợp lý nguồn lực và phát huy đầy đủ các động lực phát triển
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đối với
việc triển khai đề tài này, cuốn sách trên được xem như một trong những tài liệu
mới nhất, trình bày tập trung nhất những nội dung liên quan nên có thể
xem như
tài liệu tham khảo có giá trị. Song, cũng như nhiều nguồn tư liệu khác, nhiều
khía cạnh và nội dung học thuật, cách thức phân chia nguồn lực và động lực,
cách tiếp cận để xác định quan điểm và giải pháp…, vẫn còn cần thiết phải trao
đổi và nghiên cứu sâu thêm nữa. Các tác giả cuốn sách, trong phần Lời nói đầu
cũng đã khẳng định “vấn đề sử dụng, phát huy nguồn l
ực và động lực phát triển
kinh tế là một vấn đề rất lớn và rất phức tạp đòi hỏi tính thực tiễn cao nên cần
được tiếp tục nghiên cứu để tìm ra những giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn
phát triển kinh tế xã hội”. Hơn thế nữa, một nội dung lớn của đề tài đặt ra là phát
triển nhanh và bền vững nền kinh tế trong tương quan với s
ử dụng các nguồn lực
và tạo dựng, duy trì động lực của thời kỳ đến 2020 ở Việt Nam như thế nào thì
cuốn sách nêu trên vẫn chưa đề cập đến.
Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến các loại nguồn lực, động lực và phát

triển bền vững bao quát nội dung rất rộng, rất nhiều công trình nghiên cứu đề
cập đến từng loại một, nên thay vì “điểm sách” đối v
ới từng công trình cụ thể,
Đề tài sẽ tập trung vào một số nhóm vấn đề lớn, quan trọng đã được đề cập
trong các công trình nghiên cứu tiêu biểu về các nguồn lực và động lực của sự
phát triển, về phát triển bền vững, cùng các cách tiếp cận nghiên cứu đã được
công bố.
2.1. Về nguồn lực phát triển
Từ lâu, các nhà kinh điển của kinh tế học đã bàn r
ất nhiều đến các nguồn
lực của sự phát triển kinh tế dưới nhiều góc độ khác nhau. Việc khai thác các
nguồn lực này từ góc độ lợi thế so sánh tuyệt đối đã là “Nguồn gốc của cải của
các dân tộc” (Adam Smith) hay góc độ lợi thế so sánh là cơ sở của sự thịnh
vượng dựa trên ngoại thương (David Ricardo) và đặc biệt là những phân tích
4
kinh tế chính trị học đặc biệt sâu sắc của C. Mác về phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa với những chương bàn về giá trị sức lao động, về địa tô, về vốn tư
bản, về vai trò của tiến bộ khoa học kỹ thuật
Các nhà kinh tế học hiện đại phân tích các nguồn lực phát triển kinh tế dựa
trên sự đóng góp củ
a các nguồn lực vào mức tăng trưởng kinh tế, cả từ góc độ
phân tích định tính lẫn định lượng, bao gồm những yếu tố vật chất ở đầu vào: vốn,
máy móc thiết bị, vật tư, nguồn tài nguyên được sử dụng, sức lao động ; và cả
những yếu tố “phi vật chất”, bao gồm tổ chức, chính sách, quản trị, bí quyết công
nghệ (TA: know-how) , gọi bằng thu
ật ngữ chuyên môn là năng suất tổng nhân
tố (TA: Total factor productivity – TFP) - với nhận thức chung là, tỷ trọng của
TFP càng cao thì nền kinh tế càng có hiệu suất và càng tiến bộ (hàm ý kinh tế ở
đây là, việc sử dụng các nguồn lực rất hiệu quả, rất tiết kiệm). Và lời giải cho vấn
đề làm sao để nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững cũng dựa rất nhiều vào

luận
điểm lý thuyết quan trọng này. Ngoài ra, có thể có nhiều cách tiếp cận khác
khi phân chia nguồn lực để phân tích; chẳng hạn, các nhà khoa học chia thành nội
lực (các nguồn lực nội tại, ở bên trong) và ngoại lực… (Smith, 1997; Toffler,
2002; UNDP, 2001; Mác, 1984; Ricardo, 2002; Soto, 2006; Thurow, 2000; Gillis,
1990; Todaro, 1998; UNDP, 1999). Từ tổng kết thực tiễn, các văn kiện của Đảng
và văn bản pháp luật của Nhà nước ta cũng đã đề cập nhiều đến nội dung của các
nguồn lự
c như ở Luật Đất đai, Luật Đầu tư (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987,
1991, 2001, 2006; Luật Đất Đai, 2003; Pháp lệnh thuế Tài nguyên sửa đổi, 1998;
Luật Khoa học Công nghệ, 2000; Luật Đầu tư, 2005; Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ bảy khóa IX, lần thứ tư khóa X).
Về phương diện lý thuyết, vai trò của các nguồn lực đối với phát triển
kinh tế là hiển nhiên. Tuy v
ậy, những tranh luận học thuật cũng như tư duy
chính sách lại luôn tỏ ra chưa có được tiếng nói nhất trí cuối cùng. Các tranh
luận học thuật cũng như có liên quan đến việc hoạch định chính sách chủ yếu
xoay quanh các trục vấn đề sau:
- Làm thế nào để đo lường một cách chính xác mức độ đóng góp của từng
loại nguồn lực, nhất là với các loại nguồn lực “phi vật ch
ất”, nguồn lực “tinh
thần” đối với sự phát triển? Điều này không chỉ xuất phát từ những khó khăn
thuần túy mang tính kỹ thuật và thống kê, mà ngay cả việc xác định vai trò của
những loại nguồn lực này không phải bao giờ cũng thống nhất và có thể lượng
hóa được một cách dễ dàng.
- Làm thế nào để huy động được tối đa các nguồn lực cho phát triển? Các
nguồn lự
c tuy hữu hạn xét ở mỗi phạm vi và mỗi thời điểm lịch sử, nhưng việc
mở rộng phạm vi có thể huy động cho phát triển cần phải được xem như một
trong những mục tiêu của việc hoạch định chính sách trong bối cảnh toàn cầu

5
hóa hiện nay. Một trong những ví dụ điển hình nhất về việc mở rộng phạm vi
nguồn lực có thể và cần phải huy động là vốn đầu tư nước ngoài (cả dưới hình
thức trực tiếp lẫn gián tiếp). Tiếp theo là khoa học công nghệ, lao động (chuyên
gia trình độ cao) Hàm ý của vấn đề ở đây là, trong điều kiện toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế
, nguồn lực cần và có thể huy động cho phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia không chỉ bó hẹp trong phạm vi biên giới của quốc gia đó. Cần
có “tư duy toàn cầu” khi lựa chọn và thiết kế chính sách cho mỗi vấn đề phát
triển của đất nước.
- Làm thế nào để sử dụng được các nguồn lực đã huy động được cho phát
triển một cách hiệu quả nhất? Đây là vấ
n đề được xem là quan yếu nhất đối với
huy động và sử dụng các nguồn lực. Bởi vì, nếu nguồn lực được sử dụng một
cách có hiệu quả, nền kinh tế có khả năng đạt được điểm A nằm trên đường giới
hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó; nếu không hiệu quả, thì đó có thể là
điểm B hoặc nhữ
ng điểm nằm bên trong đường giới hạn khả năng sản xuất.
Hình 01. Đường giới hạn khả năng sản xuất







Thêm nữa, khi nền kinh tế sử dụng các nguồn lực hiện có một cách hiệu
quả thì nó sẽ làm tăng khả năng huy động các nguồn lực tiềm năng đang nằm
đâu đó ở trong dân cư. Đây chính là mối tươ
ng quan giữa việc sử dụng nguồn

lực với việc huy động nguồn lực và ngược lại. Tuy nhiên, việc đánh giá tính
hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực luôn là vấn đề không dễ và vẫn còn
nhiều tranh cãi, cả về phương diện lý luận lẫn cách thức đo lường. Vấn đề là ở
chỗ, mỗi chủ thể tham gia quá trình kinh tế có các địa vị, góc nhìn, mục tiêu
khác nhau, nên cách mà họ xem thế nào là hiệu quả sử dụng các nguồn lực
không phải bao giờ cũng như nhau. Vì vậy, trong quá trình phân tích, đánh giá,
việc tìm ra được những điểm chung trong các mục tiêu của các chủ thể có một
vai trò rất quyết định đối với chính sách huy động nguồn lực.
- Về mối tương quan giữa các nguồn lực, trong đó nổi lên vấn đề tương
quan giữa nội lực và ngoại lự
c. Toàn cầu hóa kinh tế và thương mại đã làm cho
B
C
A
Hàng hóa Y
Hàn
g
hóa X
6
sự dịch chuyển của các nguồn lực được dễ dàng hơn. Nhờ đó, các quốc gia có
thể sử dụng được những nguồn lực ở bên ngoài thay vì chỉ có nguồn lực ở trong
nước. Xét trên góc độ vĩ mô của nền kinh tế, đường giới hạn khả năng sản xuất
sẽ là đường Q1Q3 nếu nền kinh tế đó sử dụng nội lực và là đường Q2Q4 n
ếu
nền kinh tế sử dụng cả nguồn nội lực và nguồn ngoại lực.
Hình 02. Quá trình mở rộng đường giới hạn khả năng sản xuất








Quan điểm tổng quát về mối tương quan này đã được xác định là: Nội lực
có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực thì mới thu
hút và sử dụng có hiệu qu
ả ngoại lực. Nội lực được tăng cường thì mới bảo đảm
được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn
dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất
nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý ngh
ĩa quyết định là phải có chính sách phù
hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người
dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu
tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy
nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoại lực có vai trò quan trọng cho sự phát tri
ển. Kết hợp tốt nội lực và
ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng đất nước. Ngoại lực, bao
gồm cả vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý và thị trường bổ sung cho nội
lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả cao hơn.
Trong bối cảnh toàn cầ
u hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại lực càng trở nên
quan trọng; một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta, muốn vươn
lên để theo kịp các nước, không thể coi nhẹ việc thu hút và sử dụng tốt nhất
ngoại lực. Muốn phát huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược tổng thể, nhất
quán và môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước h
ết là có một hệ thống
thể chế, chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả”
(Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng CSVN). Như vậy, vấn đề biến ngoại

Q
4
Q
2
Hàng hóa Y
Hàng hóa X
Q
1
Q
3
7
lực thành nội lực của sự phát triển đối với nước ta hiện vẫn là một trong những
vấn đề có ý nghĩa chiến lược.
Những vấn đề nêu trên đã và đang được bàn luận ở nhiều công trình
nghiên cứu của nhiều học giả, các giáo trình kinh tế học vĩ mô ở các đại học, các
báo cáo kinh tế của các chính phủ hay các tổ chức kinh tế quốc tế, đặc biệ
t là các
báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB), của Tổ chức Chương trình phát triển của
Liên Hợp quốc (UNDP) hay của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB),… Điều đáng chú ý là, các phân tích đã tập trung rất nhiều
vào các loại nguồn lực là các yếu tố đầu vào của sản xuất: vốn, sức lao động, tài
nguyên, công nghệ kỹ thuật.
Gần đây, một số công trình nghiên cứu đã đề c
ập đến những cách quan
niệm mới về nguồn lực phát triển, trong đó đáng chú ý là những phân tích về
một loạt các thành tố mới dưới góc nhìn mới, như vai trò của yếu tố địa kinh tế
và địa chính trị; sức mạnh tinh thần của yếu tố lịch sử, văn hóa; vai trò được
nhấn mạnh đặc biệt của tri thức, của công nghệ thông tin, truyền thông, tổ chức,
qu
ản trị… Nhiều trong số các nhân tố này được một số công trình nghiên cứu

gọi là “vốn xã hội” với các hàm ý rộng, hẹp khác nhau liên quan đến tổ chức xã
hội, đến sức mạnh mang tính cộng đồng, xã hội, nhưng chưa được nghiên cứu
sâu. Đây cũng là điểm mà đề tài sẽ đặc biệt quan tâm, đi sâu xem xét, và hy
vọng là, ngoài những nguồn lực mang tính truyền thống, cách nhìn mới về
nguồn lực phát tri
ển sẽ đem lại cho những nước chậm phát triển như Việt Nam,
tận dụng được những cơ hội mới mà thời đại đang mở ra cho sự phát triển nhanh
và bền vững. Đó cũng là dư địa hy vọng có đóng góp về mặt quan điểm cho
Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội Đảng kỳ tới
(Trần Đình Thiên, 2005; Võ Trí
Thành, 2005; Vũ Huy Chương, 2002; Vũ Đình Cự - Trần Xuân Sầm, 2006; Đỗ
Minh Cương – Nguyễn Thị Doan, 2001; Diễn đàn Kinh tế và Tài chính Việt –
Pháp, 2006; Nguyễn Văn Đặng, 2000; Nguyễn Đình Hương, 2006; Đỗ Hoài
Nam, 2003; Ngân hàng thế giới, 2001; Lê Du Phong, 2006; Ngô Doãn Vịnh,
2006; Đặng Hữu, 2005; Vũ Đình Cự; 2005; Bello và Rosenfeld, 1996).

2.2. Về động lực phát triển
Động lực của sự phát triển là một trong những khái niệm có nội hàm rất
rộng và mang ý nghĩa triết học nói chung cũng như mang ý nghĩa triết lý về sự
phát triển nói riêng rất sâu sắc, đã được đề cập đến ở rất nhiều góc độ khác nhau
của khoa học xã hội. Tuy nhiên, cách hiểu về động lực phát triển cũng chưa có
sự thống nhất. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến động lự
c để phát triển
nhanh và bền vững nền kinh tế thì rất nhiều, nhưng cách tiếp cận và quan điểm
lại rất khác nhau, chưa hẳn đã thành một hệ thống lý luận mạch lạc. Thường thì
8
các nghiên cứu đã có ít khi đặt vấn đề động lực như mục tiêu chính, xuyên suốt
nội dung trình bày, nhưng thực ra lại động chạm đến rất nhiều khía cạnh của
động lực phát triển. Vấn đề là ở chỗ tùy thuộc khá lớn vào quan niệm, góc độ
tiếp cận, cách thức phân loại và đánh giá như thế nào về vai trò của các động lực

phát triển. Vì vậy, rất cần xác định rõ gi
ới hạn khi nghiên cứu chủ đề này, và
trong phạm vi của đề tài, chúng tôi dự định sẽ chỉ tập trung vào động lực để phát
triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Đảng ta, trong văn kiện các Đại hội và Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua cũng đã
nhiều lần đề cập đến các nội dung khác nhau của động lực phát triển và luôn coi
vấn
đề động lực cách mạng nói chung, động lực phát triển kinh tế nói riêng là
vấn đề hệ trọng. (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 1991, 2001, 2006; Nghị quyết
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, 2003; Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, 2007;
Quyết định 256/2003/QĐ-TTg; Quyết định 221/2005/QĐ-TTg).
Có nhiều công trình xem xét vai trò của thi đua (ví dụ: V.I. Lê-nin: Bàn
về thi
đua XHCN); lại có nhiều công trình phân tích cạnh tranh như động lực
chủ yếu của sự phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường dưới góc nhìn về sự đấu
tranh sinh tồn. Lại có cách tiếp cận khác khi xem xét động lực của phát triển qua
lát cắt của những chủ thể tham gia thị trường, như vai trò của các công ty lớn;
vai trò của chính phủ; của khu vực kinh tế tư nhân; FDI; của các ngành kinh tế
mũi nh
ọn; của các vùng kinh tế đầu tầu, đóng vai trò như những động lực kinh
tế của sự phát triển của một quốc gia Lại có lát cắt mang nhiều ý nghĩa triết
học hơn khi bàn về động lực phát triển kinh tế đối với lợi ích, bao gồm lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội,
v.v (Sen, 2002; Vũ Tuấn Anh, 1994; Đinh Văn Ân – Võ Trí Thành; 2002; Vũ

Đình Bách; 2000; UNDP, 2001; Nguyễn Cúc – Kim Văn Chính, 2006; Bạch
Thụ Cường; 2002; Thế Đạt, 2005; Phạm Minh Hạc, 2001; Ohkawa và Kohama,
2004; Đặng Cảnh Khanh, 1999; Seitz, 2004; Janos, 2002; Võ Đại Lược, 2007;
Nguyễn Văn Nam, 2006; Stiglitz và Yusuf, 2002; WB, 2000, 2001; Nguyễn

Công Nghiệp, 2006; Samuelson và Nordhauss, 1989; Nolan, 2005; Lê Du
Phong, 2006; Hồ Bá Thâm, 2004; Hà Huy Thành, 2006; Bùi Tất Thắng, 1999,
2006; Trần Đình Thiên, 2002; Trần Văn Thọ, 1997; Nguyễn Văn Thường, 2005;
Nguyễn Phú Trọng, 2006; Nguyễn Thanh Tuyền, 2006; Ngô Doãn Vịnh, 2007;
Đặng Hữu, 2005).
Rõ ràng là, trong khuôn khổ của một đề tài coi động lực phát triển như
m
ột trong những nội dung chính phải giải quyết, giữa kho tư liệu phong phú và
phức tạp, việc lựa chọn cách tiếp cận cũng trở thành một đòi hỏi và một thách
thức không nhỏ. Đồng thời, việc lựa chọn những loại động lực nào để phân tích,
đánh giá tác động của chúng đối với tăng trưởng nhanh và bền vững nền kinh tế
9
trong giai đoạn sắp tới cũng rất quan trọng. Đặc biệt, sau việc tạo ra động lực,
vấn đề duy trì được những động lực ấy cho sự phát triển kinh tế, hơn nữa, không
chỉ phát triển kinh tế một cách bình thường, mà phải nhanh và bền vững, thì
đang là khoảng trống khá lớn trong các công trình đã công bố. Hơn thế nữa,
trong mối tương quan giữa nguồn lực và động l
ực, cần có một góc nhìn mới, làm
thế nào để tạo ra động lực, để trên cơ sở đó, các nguồn lực được huy động tối đa
cho phát triển. Nói cách khác, các nguồn lực đang cần một môi trường, cần một
động lực cho sự hoạt động vì sự phát triển.
2.3. Về phát triển nhanh và bền vững
Việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cũng như
tạo lập và
duy trì các động lực cho phát triển luôn đi liền với yêu cầu phát triển nhanh và
bền vững. Kể từ khi Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc được những
người đứng đầu chính phủ của 180 nước thông qua (tháng 9 năm 2000), xem đó
“như những nền tảng thiết yếu cho một thế giới hoà bình, thịnh vượng và công
bằng hơn”, tư duy về phát triển và phát triển bền vững củ
a con người đã dần trở

nên phổ cập. Ngày nay, cả giới lãnh đạo, giới học giả, giới truyền thông cũng
như đông đảo những người quan tâm đến phát triển đều đã thống nhất về cơ bản
rằng, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia đều phải dựa một cách vững chắc
trên các trụ cột: bền vững về kinh t
ế, bền vững về môi trường, bền vững về xã
hội và bền vững về thể chế.
- Sự phát triển bền vững về kinh tế nhìn chung được các học giả coi là
điều kiện nền tảng đảm bảo sự thịnh vượng của mỗi quốc gia. Không ít trường
hợp, các nền kinh tế ở một thời điểm thuận lợi nào đó, đạt
được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, nhưng thời gian duy trì lại không được lâu. Sau một thời
gian ngắn ngủi, nền kinh tế tỏ ra “hụt hơi”, “mất đà”, tốc độ tăng trưởng chậm
dần, thậm chí chuyển sang suy thoái và rơi vào trạng thái thiểu năng. Đó là biểu
hiện điển hình của tình trạng phát triển không hiệu quả và không bền vững.
Nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này là n
ền kinh tế đã tăng trưởng không phải
dựa trên tăng năng suất, mà chủ yếu nhờ khai thác các nguồn lực đầu vào một
cách ồ ạt nhưng không có hiệu quả (tăng trưởng “bong bóng xà phòng”).
- Sự phát triển bền vững về mặt môi trường vốn là được xem là cách hiểu
thông dụng, mang tính truyền thống về phát triển bền vững, tức mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh t
ế và việc khai thác, sử dụng, bảo vệ các nguồn tài nguyên
và môi trường thiên nhiên. Vấn đề nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên đã có
những cảnh báo từ rất sớm, nhưng có lẽ mãi đến đầu thập niên 80 của thế kỷ
XX, khi mà Câu lạc bộ Roma đưa ra những thông tin và cách nhìn mới về sự
cạn kiệt các nguồn tài nguyên - nhất là các loại tài nguyên không có khả năng tái
tạo như nhiên liệu hoá thạch (than đá, dầ
u mỏ), các loại quặng kim loại , cùng
10
với diễn biến của những cuộc khủng dầu mỏ mà điển hình là cuộc khủng dầu mỏ

đã diễn ra vào các năm 1974-1975, thì nguy cơ môi trường bị xuống cấp mới
được giới nghiên cứu và giới hoạch định chính sách ở nhiều nước quan tâm
nhiều hơn, sâu hơn. Và cho dù đã có nhiều tổ chức, chính phủ có những hành
động thiết thực liên quan đến việc gìn giữ môi trường, nh
ưng dường như những
cố gắng ấy tỏ ra không thấm tháp gì so với tình trạng và xu thế xấu đi của không
gian sinh tồn đã và đang diễn ra trong suốt mấy chục năm qua.
Sự bền vững về môi trường tự nhiên vốn là xuất phát điểm của quan niệm
về phát triển bền vững, với sự nhấn mạnh đến cái giá phải trả về mặt môi trườ
ng
nếu sự phát triển kinh tế không chú ý thỏa đáng đến bảo vệ môi trường. Nhìn lại
sự phát triển của thế kỷ XX, người ta thấy rằng bên cạnh những thành tựu tuyệt
vời về tiến bộ khoa học công nghệ, về phát triển sức sản xuất và của cải, thì loài
người cũng phải “đối mặt với một hiện thực khắc nghiệt: dân số bùng n
ổ, nguồn
tài nguyên cạn kiệt, môi trường tồi tệ đi nhanh chóng. Hoạt động của con người
đã phá hoại nghiêm trọng cơ sở sinh tồn và phát triển của chính mình. Những
thành quả đã có và tiền đồ tốt đẹp rất có thể bị phá huỷ trong một sớm một
chiều”, và “chính là trong sự suy xét lại sâu sắc về nguy cơ sống còn của loài
người mà tư tưởng chiến lược phát triển bề
n vững ra đời” (UNDP, 1999).
Năm 1987, Uỷ ban thế giới về Phát triển kinh tế (WCED) trong bản báo
cáo nhan đề “Tương lai của chúng ta”, đã đưa ra định nghĩa về phát triển bền
vững như sau: “Sự phát triển mà thoả mãn được các nhu cầu của hiện tại nhưng
không làm tổn hại đến khả năng của thế hệ tương lai trong việc thoả mãn các
nhu cầu của họ”(UNDP, 1999). Từ đó, trong các Báo cáo phát tri
ển con người
hàng năm của Liên hợp quốc, sự quan tâm ngày càng nhiều đến phát triển bền
vững, với một thông điệp được nhấn mạnh nhiều lần, rằng lợi ích của thế hệ
tương lai cần được quan tâm như là đối với các lợi ích của thế hệ hiện nay. Việc

sử dụng các nguồn của cải tự nhiên và nguồn lực chung không được phá huỷ các
cơ hội của các thế hệ tương lai.
Tuy nhiên, bảo tồn sự nguyên vẹn năng lực sản xuất không có nghĩa là
giữ nguyên hiện trạng thế giới như là khi chúng ta đã thấy nó trước đây. Cái cần
phải bảo tồn là các cơ hội cho thế hệ tương lai sống cuộc sống tốt lành. Có được
sự bền vững (cả sản xuất và tiêu dùng) ngụ ý rằng cái mà chúng ta có nghĩa v

phải để lại là năng lực chung để tạo ra phúc lợi, chứ không phải là cái gì hay
nguồn lực nào cụ thể. Bảo tồn trữ lượng các nguồn lực không có nghĩa là tất cả
các nguồn lực không tái tạo (như khoáng sản và nhiên liệu) phải được giữ
nguyên; điều này là không khả thi. Nhưng muốn duy trì trữ lượng các nguồn lực
của toàn bộ xã hội, hiểu theo nghĩa rộng, thì có l
ẽ những tài nguyên không tái
tạo phải được sử dụng một cách tối ưu nhất, và khi sử dụng hết cần phải được
11
thay thế bằng một cái nào đó khác. Đó bắt buộc phải là nguồn vốn có thể tái tạo
được, dù là vật chất hay con người. Ý tưởng cho rằng các khoản thu được từ các
tài sản đang cạn kiệt cần phải được tái đầu tư sao cho có thể đủ bù đắp cho các
nguồn tài nguyên đang cạn kiệt
Tuyên ngôn Thiên niên kỷ viết rằng, cần phải “Tôn trọng tự nhiên: Phải
thận trọng trong việ
c quản lý đời sống tất cả các loài sinh vật và các tài nguyên
thiên nhiên, phù hợp với phương châm phát triển bền vững. Chỉ có bằng cách
này chúng ta mới có thể được cung cấp các nguồn của cải vô hạn qua việc bảo
tồn thiên nhiên và truyền lại cho các thế hệ kế tiếp. Kiểu mô hình sản xuất và
tiêu dùng không bền vững hiện nay phải được thay đổi trong sự quan tâm về
tương lai thịnh vượng của chúng ta và của các thế
hệ mai sau” (WB, 2002). Đó
chính là tư duy mang tính kinh tế sâu sắc đã đạt được về vấn đề phát triển bền
vững về môi trường trong tương quan với phát triển kinh tế bền vững.

- Nhấn mạnh khía cạnh phát triển bền vững về mặt xã hội là bước phát
triển mới về tư duy trong quan niệm về phát triển bền vững. Sự duy trì môi
trường sống có liên quan mật thiết đến vấ
n đề nghèo đói. Đây là lập luận ngày
càng được minh chứng rõ ràng trong khuôn khổ phát triển bền vững. Ngân hàng
thế giới (1992) cho rằng xoá đói giảm nghèo là một công cụ bảo vệ môi trường
khỏi sự xuống cấp. Xoá đói giảm nghèo được coi như một trong những điều tiên
quyết của bảo tồn môi trường. “Người nghèo vừa là nạn nhân vừa là tác nhân
của sự phá huỷ môi trường. Khoảng mộ
t nửa số người nghèo trên thế giới sống
ở nông thôn nơi có môi trường rất dễ bị tổn hại, và họ dựa vào nguồn tài nguyên
thiên nhiên mà họ ít có khả năng kiểm soát về mặt pháp lý. Người nông dân
thiếu đất phải canh tác trên những vùng không thích hợp - độ dốc cao, các sườn
đồi bị sói mòn; đất nửa hoang mạc nơi mà sự bạc màu diễn ra nhanh chóng; và
các cánh rừng nhiệt đới nơi mà năng suất trên các cánh đồng khai hoang giả
m
đáng kể sau một vài năm. Các gia đình nghèo thường thiếu nguồn lực để sống tự
cấp tự túc, phải vật lộn với các kế sinh nhai hàng ngày để tồn tại.”
Nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại Adam Smith đã từng nói: "Không có xã hội
nào có thể chắc chắn hưng thịnh và có hạnh phúc, khi phần lớn người dân phải
sống trong cảnh nghèo đói và khổ cực" (Adam Smith, The Wealth of Nations,
1776). Nhi
ều nhà nghiên cứu nổi tiếng khác trên thế giới thời gian gần đây cũng
nhất trí với quan điểm cho rằng, vấn đề cơ bản của sự phát triển phải được định
nghĩa lại như một cuộc đấu song có lựa chọn vào các hình thài tồi tệ nhất của sự
nghèo đói và mục đích của việc phát triển phải được xác định trên cơ sở ph
ấn
đấu giảm dần và cuối cùng là loại bỏ hẳn tình trạng thiếu dinh dưỡng, bệnh tật,
mù chữ, nghèo khổ, thất nghiệp và bất công (Mahbubul Haq - Giám đốc Ngân
hàng thế giới).

12
- Sự bền vững về thể chế là một bổ sung đáng kể mới nhất trong tư duy về
phát triển bền vững. Tính bền vững của sự phát triển vừa đòi hỏi phải được thể
hiện ở khía cạnh bền vững về thể chế, lại vừa đòi hỏi thể chế tạo lập cơ sở cho
sự phát triển
được bền vững. Thể chế, trong đó vai trò trung tâm là Nhà nước,
phải tạo ra một môi trường chung ổn định, an ninh về chính trị - xã hội; thân
thiện và hỗ trợ đối với thị trường, kinh doanh; đề cao những giá trị xã hội, sự
công bằng, nền dân chủ, ý thức chân thành tín nghĩa nếu tách rời ra khỏi các vấn
đề hệ trọng về chính trị, thể chế và cơ cấu quyền lực của vi
ệc định lại chiến lược
phát triển theo hướng bền vững trên các phương diện cơ bản thì bản thân các
khoa học xã hội nói chung, triết học và kinh tế học nói riêng rất ít có ý nghĩa. Vì
thế, việc xây dựng thể chế có ý nghĩa nền tảng quan trọng hàng đầu của sự phát
triển bền vững của Việt Nam.
Những yếu tố đảm bảo sự bền vững của th
ế chế được đề cập đến gồm:
tính đồng bộ, nhất quán và có hiệu lực của hệ thống pháp luật, đảm bảo cho sự
vận hành của nền kinh tế thị trường được dựa trên nền tảng pháp luật vững chắc,
phù hợp với thông lệ quốc tế. Nền hành chính gọn nhẹ, hiệu quả, tạo môi trường
thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh củ
a doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở
hữu. Kết hợp việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý Nhà nước với nâng cao
chất lượng cán bộ công chức. Các chương trình chiến lược và quy hoạch phát
triển của quốc gia phải thực sự trở thành một công cụ quản lý hữu hiệu trong tay
Nhà nước, thành căn cứ chỉ dẫn tin cậy cho các nhà đầu tư, kinh doanh
Như vậy, từ
các khía cạnh tự nhiên, kinh tế, xã hội và cơ chế nêu trên, có
thể khái quát lại là: “Chiến lược phát triển bền vững là sự hội tụ và thăng hoa
của mọi tư tưởng tốt đẹp được lưu truyền hết đời nọ sang đời kia trong nhân thế.

Chiến lược này, ngoài nguyên tắc chủ đạo về tính bền vững (TA: sustainability),
còn bao gồm 3 nguyên tắc về tính công bằng (TA: fairness), nó vừa
đòi hỏi sự
công bằng cho người thế hệ này, vừa đòi hỏi sự công bằng cho các thế hệ sau;
tính hài hoà (TA: harmony), một mặt là sự hài hoà giữa con người và giới tự
nhiên, mặt khác là sự hài hoà (hoà mục) giữa người và người; tính cộng đồng
(TA: common), nó nhấn mạnh tính chỉnh thể của địa cầu và tính phụ thuộc lẫn
nhau của loài người, muốn thực hiện mụ
c tiêu chung của sự phát triển bền vững,
cần áp dụng hành động liên hợp chung toàn cầu” (Yongqing, 2002).
Tóm lại, phát triển bền vững mang tính tổng hợp với mục tiêu rõ ràng là
vì con người, không chỉ là sự mở rộng cơ hội lựa chọn cho thế hệ hôm nay mà
còn không được làm tổn hại đến những cơ hội lựa chọn của các thế hệ mai sau.
Sự bền vững của phát triển được thể
hiện cả ở khía cạnh kinh tế, xã hội và môi
trường. Đó là quá trình gia tăng phúc lợi cho các thế hệ con người bằng cách gia
tăng tài sản, bao gồm tài sản vật chất, tài sản tài chính, tài sản con người, tài sản
13
môi trường (nước sạch, không khí sạch, bãi cá, rừng cây, đất đai ) và tài sản xã
hội (sự tin cậy lẫn nhau, khả năng liên kết, sự đảm bảo an ninh cho người và tài
sản ). Đó chính là thông điệp chủ yếu của tư duy mới về phát triển cho thế kỷ
XXI của loài người, trong đó có Việt Nam.
Vấn đề đang đặt ra hiện nay là, những đánh giá về việc thực hiện Mụ
c tiêu
thiên niên kỷ ở Việt Nam hiện đang được coi là một trong những “điểm sáng”
trên thế giới. Nhưng đó là “điểm sáng” của tình thế giảm đói nghèo. Con đường
tiến đến chỗ không còn phải lấy giảm đói nghèo làm thành tích nổi bật chính vẫn
còn không phải ngắn. Thách thức đặt ra cho việc huy động nguồn lực và tạo
dộng lực cho phát triển để nhanh chóng thoát ra khỏi “vùng trũng” về mặ
t bằng

phát triển đang đặt ra rất cấp bách đối với nước ta. (Oxfam International, 1997;
UNDP, 2001; Đại học Quốc gia Hà Nội - Viện quốc tế Konrad Adenaner
Stiftung, 2001; Nguyễn Đình Hương, 2006; Phan Văn Khải, 2002; Todaro,
1998; Phạm Xuân Nam, 2005; Trần Nhâm, 1997; Anand và Sen, 1996; Bùi Tất
Thắng, 2006; UNDP – MPI/DSI, 2001; WB, 2001, 2002).
2.4. Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế
Phần tổng quan những kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố
nêu trên cho thấy, từ
ng nội dung riêng biệt về nguồn lực, động lực, phát triển
nhanh và bền vững nền kinh tế được khai thác khá sâu và đề cập đến từ nhiều
chiều cạnh. Những phân tích này đã tạo dựng được khung khổ nền tảng về lý
thuyết cũng như tình hình thực tiễn để tiếp tục triển khai nghiên cứu những vấn
đề mà thực tiễn mới đang đặt ra và đòi hỏ
i phải giải đáp. Ở góc độ này, đề tài sẽ
kế thừa được nguồn tư liệu tham khảo rất phong phú.
Tuy nhiên, hạn chế của phần lớn những công trình nêu trên chính là chỗ
mà đề tài này được thiết kế ra với hy vọng bổ sung phần nào cho những thiếu
khuyết ấy. Đó là xuất phát từ yêu cầu phải phát triển nhanh và bền vững nền
kinh tế để đặt ra yêu cầu
đối với việc huy động và sử dụng các nguồn lực sao
cho được nhiều nhất, hiệu quả nhất; cũng như yêu cầu đối với việc tạo ra và duy
trì được tốt nhất động lực của sự phát triển. Hơn thế nữa, phía sau những mối
quan hệ biện chứng giữa nguồn lực – động lực – phát triển kinh tế nhanh và bền
vững phải là một triế
t lý, một tư duy phát triển khoa học, hợp quy luật, hợp xu
thế khách quan của thời đại là mở cửa, hội nhập và kinh tế thị trường, đó chính
là đòi hỏi đối với tư duy chính sách cho phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ đến
năm 2020 mà đề tài này phải đạt đến. (Vũ Tuấn Anh, 1994; Đinh Văn Ân – Võ
Trí Thành, 2002, Đỗ Bình, 2000; Lê Đăng Doanh, 2002; Đảng Cộng sản Việt
Nam, 1987, 1991, 2001, 2006; Agenda 21; Winters và Yusuf, 2007; Aghipon và

Howitt, 1999; Lê Hữu Tầ
ng, 2002; Gersovitz và các cộng sự, 1982; Bùi Tất
Thắng, 2006; Trần Đình Thiên, 2002; WB, 2003).

×