Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

tư duy cụ thể và trừu tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.18 KB, 9 trang )

1. Thống nhất hữu cơ chủ nghóa duy vật và phép biện chứng
Công lao lòch sử của Hêghen là đã phát triển phép biện chứng từ trình độ tự
phát trở thành một khoa học , từ tản mạnh thành hệ thống, đem đến cách hiểu hiện
đại về phép biện chứng như học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, vượt
qua cách hiểu mang nặng tính chủ quan về phép biện chứng như “nghệ thuật đối
thoại”, xuất phát từ người Hy Lạp. Phép biện chứng, với tính cách như trên, được
Hêghen trình bày trong Khoa học lôgíc, hay Lôgíc học theo nghóa rộng, hàm chứa sự
thống nhất phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học. Tuy nhiên phép biện
chứng Hêghen lại được hình thành trên cơ sở thế giới quan duy tâm, do đó tỏ ra không
triệt để và đầy mâu thuẫn. Phoiơbắc phê phán chủ nghóa duy tâm tư biện Hêghen,
khôi phục truyền thống duy vật, kết hợp với thuyết nhân bản đặc trưng của mình.
Song thứ chủ nghóa duy vật ấy lại chòu sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình.
C. Mác và Ph, ngghen đã khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghóa duy vật và
phép biện chứng của những người đi trước, nhất là các bậc tiền bối trực tiếp, xác lập
hình thức hiện đại của chủ nghóa duy vật, tức chủ nghóa duy vật biện chứng, hình thức
hiện đại của phép biện chứng, tức phép biện chứng duy vật. Triết học mácxít là sự
thống nhất hữu cơ chủ nghóa duy vật và phép biện chứng. Bước chuyển đầy ý nghóa
này được bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX, và từ cuối năm 1843 – đầu năm
1844 Mác và ngghen dần dần trở thành những nhà duy vật biện chứng. Tác phẩm
điển hình – “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu”,
“Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844”. Ở những thời ký tiếp theo chủ nghóa duy vật
mácxít được hoàn thiện, làm sâu sắc thêm trong “Chống D0uyrinh”, “Biện chứng của
tự nhiên”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”…
2. Phát minh ra quan niệm duy vật về lòch sử,làm cho chủ nghóa duy vật mácxít
trở thành chủ nghóa duy vật triệt để
. Các nguyên lý cơ bản của chủ nghóa duy vật biện chứng được thể hiện một
cách sinh động và sáng tạo trong việc phân tích tiến trình lòch sử - xã hội, làm sáng tỏ
các quy luật vận động và phát triển của nó. Khắc phục quan niệm duy tâm và siêu
hình về lòch sử, triết học mácxít thực sự trở thành chủ nghóa duy vật triệt để trong quan
niệm về tự nhiên, xã hội và tư duy. Phát minh ra quan niệm duy vật về lòch sử là thành
công lớn của Mác và Ăngghen.


Những vấn đề của quan niệm duy vật về lòch sử được Mác và ngghen lần đầu
tiên phân tích một cách sâu sắc và có hệ thống trong “Gia đình thần thánh”(1845) và
“Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846). Đó cũng là hai tác phẩm viết chung đầu tiên của
Mác và ngghen. Trong “Gia đình thần hánh” Mác và ngghen phê phán quan niệm
duy tâm của phái Hêghen trẻ, xây dựng học thuyết duy vật về quan hệ giữa cá nhân
và quần chúng nhân dân, về động lực của tiến bộ lòch sử, về đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản nhằm khắc phục tình trạng tha hóa “loài”.Trong “Hệ tư tưởng Đức”
lần đầu tiên các khái niệm nền tảng, trung tâm của quan niệm duy vật về lòch sử (chủ
nghóa duy vật lòch sử), được nêu lên trong sự phân tích khoa học về quy luật phổ biến
của vận động xã hội, trong sự phân tích phương thức sản xuất, rút ra quy luật về sự
phù hợp của hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất) với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong “Hệ tư tưởng Đức” Mác và ngghen phân tích mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, vạch ra tính tất yếu của sự
thay thế các hình thức sở hữu, nói tóm, đã phác thảo những vấn đề cốt lõi của học
thuyết mácxít về hình thái kinh tế – xã hội. Các vấn đề chủ quan niệm duy vật về lòch
sử được hoàn thiện và làm sâu sắc thêm ở các thời kỳ sau, trong những tác phẩm và
bài biết tiêu biểu, đặc biệt là “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”(1848), “Tư bản”
(1867, t.1), “Chống Đuyrinh” (1876 - 1878), “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước” (1884)…Lênin bảo vệ , bổ sung và phát triển chủ nghóa duy vật
lòch sử trong điều kiện lòch sử mới.
3. Thống nhất lý luận và thực tiễn, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ
quan điểm thực tiễn
Mác và ngghen khắc phục tính chất tư biện của triết học Hêghen, xây dựng
một trong những nguyên tắc xuyên suốt của chủ nghóa Mác nói chung, triết học Mác
nói riêng, là thống nhất lý luận và thực tiễn, thực hiện sứ mệnh “cải tạo thế giới”,
chứ không chỉ dừng lại ở “giải thích thế giới” ( xem “Luận cương vềPhoiơbắc”, luận
cương thứ 11 ) Trong “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói
đầu” và “Gia đình thần thánh” Mác không dưới một lần nhấn mạnh “thủ tiêu”, “xoá
bỏ” , “phủ đònh” triết học theo nghóa cũ, thứ triết học tư biện, “bay lượn cao” trên
biển cả cuộc sống đầy bão táp. Đối với Mác không phải cuộc sống diễn ra theo những

đồ thức luận tư duy, mà ngược lại, đồ thức luận tư duy cần thường xuyên được điều
chỉnh theo những diễn biến của cuộc sống. Vì thế quan điểm thực tiễn đã trở thành
quan điểm xuất phát, nền tảng trong triết học Mác. Lòch sử phát triển của triết học
cho thấy phạm trù “thực tiễn” có từ thời cổ đại, và trở thành một trong những phạm
trù được nhắc đến nhiều trong các học thuyết triết học. Điều này không khó giải
thích, bởi lẽ không một nhà triết học nào chủ trương tách rời hệ thống triết học khỏi
thực tiễn lòch sử – xã hội. Vấn đề là ở chỗ các học thuyết ấy hiểu thực tiễn như thế
nào, dựa trên cơ sở thế giới quan nào. Cantơ, chẳng hạn, nhấn mạnh ưu thế của “lý
tính thực tiễn” trước “lý tính thuần tuý”, vạch ra con đường biện chứng của nhận thức
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Song Cantơ hiểu thực tiễn theo nghóa “hoạt động mang ý nghóa thực tiễn”, tức đồng
nhất phạm trù “thực tiễn” với phạm trù “hoạt động”. Hêghen cũng khẳng đònh “chân
lý thực tiễn cao hơn chân lý lý luận”, nhưng cách hiểu của ông về thực tiễn không
vượt ra khỏi khuôn khổ của chủ nghóa duy tâm tư biện. Mác không chỉ đưa vào phạm
trù “thực tiễn” nhiều nội dung mới, xem thực tiễn như tồn tại có tính lòch sử – xã hội
của con người, điều mà các nhà triết học thế kỷ trước chưa nghó đến, mà còn xác đònh
tính vật chất của hoạt động thực tiễn. Đó là sự khác biệt giữa Mác với Cantơ và
Hêghen. Nhờ hiểu thực tiễn từ quan điểm của chủ nghóa duy vật biện chứng mà
nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn mang thông điệp mới. Giải quyết vấn đề
cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn nghóa là phải xem thực tiễn như nguồn
gốc, cơ sở, động lực, mục tiêu của nhận thức, tiêu chụẩn kiểm tra chân lý. Hơn thế
nữa, chỉ xuất phát từ thực tiễn mới khắc phục được quan điểm siêu hình trong nhận
thức và hành động, bởi lẽ thực tiễn biến đổi sẽ thực hiện quá trình sàng lọc, đào thải
đối với lý luận; những quan điểm nào tỏ ra lỗi thời, không đáp ứng nhu cầu thực tiễn
của xã hội, sẽ phải nhường chỗ cho cái mới, cái hợp lý.
4. Thống nhất tính cách mạng với tính khách quan khoa học; vũ khí lý luận
của giai cấp vô sản
Là học thuyết mang ý nghóa “cải tạo thế giới”, triết học Mác ngay từ khi ra đời
đã thâm nhập vào các phong trào quần chúng, trở thành một học thuyết tạo nên ảnh
hưởng sâu sắc trong thế giới đương đại. Xét từ góc độ lý luận giải phóng, triết học

Mác là chủ nghóa nhân văn đạt đến tầm cao mới, hình thành trong điều kiện xã hội tư
sản, nhưng thông qua hiện thực đấu tranh của giai cấp vô sản đã dự báo về một xã hội
lý tưởng, hay một liên hợp mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (M & Ă, t. 4, CTQG, 1995, tr. 628).
Điểm chung của chủ nghóa nhân văn thể hiện ở chỗ xem con người là điểm xuất phát,
và giải phóng con người là mục đích cuối cùng. Tuy nhiên không có chủ nghóa nhân
văn dành cho mọi thời đại. Chủ nghóa nhân văn mácxít khác với chủ nghóa nhân văn
trừu tượng kiểu Phoiơbắc, hay chủ nghóa cộng sản không tưởng kiểu Xanh Ximông
(Saint Simon), Phuriê (Fourier), oen (Owen) về nội dung lẫn phương thức biến khả
năng thành hiện thực, biến ý tưởng giải phóng thành lý luận khoa học về sự giải
phóng. Sự khác biệt này được phân tích trong nhiều tác phẩm, từ “Hệ tư tưởng Đức”,
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đến “Chống Đuyrinh”, “Phê phán cương lónh Gôta”
và nhiều bài viết khác của Mác và ngghen.
Triết học do Mác và Ăngghen xây dựng là lý luận giải phóng của giai cấp vô
sản.
5. Sự thay đổi tính chất và đối tượng của triết học, quan hệ giữa triết học và
các khoa học cụ thể, chuyên biệt
Sự ra đời của triết học Mác góp phần làm thay đổi quan niệm về tính chất và
đối tượng của triết học, về quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể. Vấn đề là ở
chỗ, vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức chung hãy còn thấp, tri thức khoa học còn
nằm trong tình trạng tản mạn, sơ khai, nên triết học, do đặc điểm của mình, được xem
như dạng tri thức lý luận duy nhất, giải quyết thay những vấn đề mà lẽ ra thuộc phạm
vi của các khoa học cụ thể. Triết học đóng vai trò “khoa học của các khoa học”, còn
các triết gia thì được nhìn nhận như những bậc thông thái am tường mọi thứ (mặc dù
chính nhà triết học cũng chỉ nghó về bản thân như những kẻ “khao khát chân lý”,
mong muốn vươn đến sự thông thái, hay “yêu mến sự thông thái”, vốn là đặc quyền
của thần linh ). Quan niệm ấy tồn tại khá lâu trong lich sử , mà hệ thống Hêghen là sự
thể hiện hoàn bò nhất, xét từ nội dung“cổ điển” truyền thống. Tuy nhiên ngay từ cuối
thời đại Phục hưng, trong đời sống khoa học đã diễn ra quá trình chuyên biệt hóa, cá
thể hóa, đưa đến sự ra đời các ngành khoa học cụ thể, chuyên biệt, với hệ thống lý

luận của mình. Với thời gian triết học từ bỏ dần vai trò “khoa học của các khoa học”,
hay thứ tri thức bao trùm nào đó. Thế giới quan triết học, với tính chất tổng hợp, tính
hệ thống và tính khái quát hóa vốn có từ lòch sử, tiếp tục công việc của một lónh vực
nhận thức đặc thù trong sự liên minh ngày càng bền chặt với các khoa học cụ thể,
chuyên biệt. Trong liên minh theo cách hiểu mới các khoa học cụ thể đem đến cho
triết học chất liệu sống, nhờ đó mà các nhà triết học đưa ra những luận điểm , những
giải thích về sự vật một cách hợp lý, có căn cứ; đồng thời từ các dữ liệu của quá khứ,
hiện tại, họ cùng các nhà khoa học gợi mở, dự báo về những vấn đề của tương lai. Về
phần mình triết học tác động đến các khoa học tự nhiên – lòch sử ở phương diện thế
giới quan và phương pháp luận. Cách hiểu mới về tính chất và đối tượng của triết học,
liên minh giữa triết học với các khoa học cụ thể, được trình bày trong các tác phẩm và
bài viết tiêu biểu như “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói
đầu”, “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo
chung của tiết học cổ điển Đức” …
Trong thời đại ngày nay sự tác động này trở nên rõ ràng hơn nhờ sự phát triển
mạnh mẽ của tri thức khoa học, rất cần sự đònh hướng ở tầm mức của lý luận triết học,
vượt ra khỏi ranh giới hẹp tương đối của khoa học chuyên biệt.
Trước khi kết thúc bài viết cần chỉ ra: - vai trò của V.I.Lênin trong việc bảo vệ,
phát triển chủ nghĩa Mác trong thế kỷ XX; - sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác trong điều kệin Việt Nam; - giá trị và sức sống của chủ nghĩa Mác trong thời đại
hiện nay.
CỤ THỂ VÀ TRỪU TƯỢNG :
hai phạm trù phản ánh hai thuộc tính đối lập nhau nhưng lại thống nhất biện chứng
với nhau trong q trình nhận thức. Cái cụ thể là sự tổng hợp của nhiều tính quy
định, do đó, là sự thống nhất của cái đa dạng; còn cái trừu tượng là một mặt, một
bộ phận của cái tồn thể, là cái chưa phát triển. Trong lịch sử triết học trước
Hêghen (G. W. F. Hegel), cái cụ thể chủ yếu được hiểu là sự muôn màu muôn vẻ
mà người ta cảm nhận được của các sự vật và hiện tượng riêng lẻ. Cái trừu tượng
được hiểu là đặc trưng riêng chỉ có ở những sản phẩm của tư duy. Hêghen là người
đầu tiên đưa phạm trù CTVTT vào triết học với một ý nghĩa riêng, về sau đã được

triết học Mac phát triển. Cái cụ thể là cái đồng nghĩa với liên hệ qua lại biện
chứng, với tính chỉnh thể, còn cái trừu tượng là cái không đối lập với cái cụ thể mà
là một giai đoạn vận động của bản thân cái cụ thể, là cái chưa phát triển. Nhưng
theo Hêghen, cái cụ thể là cái chỉ đặc trưng cho tinh thần. Trái với Hêghen, triết
học Mac cho rằng có cái cụ thể cảm tính và có cái cụ thể tinh thần. Cái cụ thể cảm
tính tồn tại trong hiện thực khách quan. Đối tượng của thế giới xung quanh sở dĩ là
cụ thể vì nó là chính thể hữu cơ gồm những mặt liên hệ thống nhất nội tại với nhau
và quy định lẫn nhau. Còn cái cụ thể tinh thần, cái cụ thể trong tư duy thì biểu hiện
ra như là kết quả, sản phẩm của sự tổng hợp bằng sự tư duy dưới dạng một tổng
thể phong phú của vô số những tính quy định khác nhau.
Sự khác như giữa tư duy cụ thể và trừu tượng
cái cụ thể hiện thực, là sản phẩm lao động, sản phẩm vận động của tự nhiên. Cái cụ
thể tư duy là sản phẩm của quá trình nhận thức, là sự tương tác giữa các khái niệm,
xét về bản thể, cái cụ thêt hiện thưc có trước cái cụ thể tư duy. Xét về mặt hình
dạng cái cụ thể trong tư duy làm ra cái cụ thể trong hiện thực.
Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức
tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất
bên trong, như sau:
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động)
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng
các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính
gồm các hình thức sau:
* Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của
các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con
người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá
những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức. Lenin viết: "Cảm
giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nếu dừng lại ở cảm giác thì
con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ;
bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn
vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn".

* Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự
vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp
các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong
phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc
trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt
được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận
thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con
người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
* Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự
vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào
các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu
tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của
các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu
tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.
Giai đoạn này có các đặc điểm:
• Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
• Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất
và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
• Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản
chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên
giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng)
Là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các
hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.
* Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính
bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp
biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái
niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động
qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò
rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và

tư duy khoa học.
* Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ:
"Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán vì có sự liên kết
khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Theo trình độ phát triển
của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ:
đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến
(ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện
sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái
đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này
với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc
thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên
ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại
khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó,
nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận.
* Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết
phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được tri thức
mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào
giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy
luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một
cách nhanh chóng và đúng đắn.
Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
• Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
• Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không
có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.

Nhận thức trở về thực tiễn
Ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai
trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối cùng của nhận
thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới. Do đó, sự nhận thức ở
giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.

×