LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên
cứu khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LÊ THỊ NGUYỆT
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
MHB Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung ương
Tech Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
TS Tài sản
TSCĐ Tài sản cố định
VCB Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG , SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng,biểu
Tên bảng, sơ đồ và biểu đồ Trang
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 2.9
Bảng 2.10
Khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của MHB Hà
Nội giai đoạn 2008-2010
Tình hình dự trữ thanh toán của MHB Hà Nội giai đoạn
2008-2010
Dư nợ cho vay của MHB Hà Nội giai đoạn 2008-2010
Hệ số sử dụng vốn của MHB Hà Nội giai đoạn 2008-
2010
Cơ cấu dư nợ cho vay của MHB Hà Nội giai đoạn 2008-
2010
So sánh số liệu đầu tư tín dụng thực tế năm 2010 với kế
hoạch được giao của MHB Hà Nội
Tình hình cho vay và thu nợ của MHB Hà Nội từ 2008-
2010
Tình hình nợ quá hạn của MHB Hà Nội giai đoạn 2008-
2010
Chỉ tiêu về vòng quay vốn của MHB Hà Nội 2008-2010
Đầu tư vào TSCĐ và TS khác của MHB Hà Nội từ 2008-
2010
31
34
38
39
40
41
43
45
47
49
Sơ đồ 2.1
Biểu 2.1
Biểu 2.2
Biểu 2.3
Biểu 2.4
Cơ cấu tổ chức hiện nay của MHB Hà Nội
Hoạt động dự trữ và thanh toán của MHB Hà Nội từ
2008-2010
Tổng dư nợ cho vay và hệ số sử dụng vốn của MHB Hà
Nội 2008-2010
So sánh nợ quá hạn của MHB Hà Nội với một số ngân
hàng khác
So sánh vòng quay vốn của MHB Hà Nội với một số
ngân hàng khác năm 2010
30
35
38
46
47
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hội nhập và tự do hóa thương mại toàn cầu đem đến nhiều cơ hội cho sự
phát triển kinh tế quốc tế, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều thách thức,
khó khăn mà nền kinh tế của mỗi quốc gia phải đương đầu. Để nhanh chóng
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới đòi hỏi kinh tế nói chung và
ngành ngân hàng nói riêng phải đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh mà
trước hết là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bởi lẽ, hiệu quả sử dụng vốn là
một vấn đề quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
Do đó, để tìm cho mình một chỗ đứng trong môi trường cạnh tranh vốn đã
quyết liệt giữa các NHTM trong nước và đặc biệt là trong thời gian tới với sự
tham gia hoạt động của các ngân hàng nước ngoài với ưu thế vượt trội về vốn,
công nghệ, trình độ quản lý thì đòi hỏi mỗi ngân hàng phải tìm mọi biện pháp
để không ngừng nâng cao và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn.
Là NHTM Nhà nước trẻ nhất, ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông
Cửu Long (MHB)- Chi nhánh Hà Nội đã trải qua một quá trình phấn đấu và
nỗ lực vượt qua rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong quá trình đó, hoạt
động sử dụng vốn của MHB Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng ghi
nhận, song vẫn còn khá nhiều hạn chế và tồn tại cần phải khắc phục, nhất là
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Vì vậy, có thể nói nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đang là một vấn đề cấp thiết hàng đầu để có thể nâng
cao hiệu quả hoạt động và kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Xuất phát từ thực tiễn đó, học viên đã lựa chọn đi sâu vào phân tích đề
tài: “Quản lý sử dụng vốn tại Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông
Cửu Long- Chi nhánh Hà Nội- Thực trạng và giải pháp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu nhằm đạt được 3 mục đích cơ bản sau:
1
Thứ nhất: Hệ thống hóa các lý luận chung về NHTM và công tác quản lý
sử dụng vốn của NHTM.
Thứ hai: Đi sâu vào phân tích thực trạng tình hình sử dụng vốn của
MHB- Chi nhánh Hà Nội, thấy được những ưu điểm cũng như những hạn chế
còn tồn tại trong công tác quản lý vốn của ngân hàng.
Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhằm giúp ngân
hàng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, từ đó nâng cao kết quả kinh doanh.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các phạm trù liên quan đến hoạt động sử dụng
vốn của ngân hàng.
Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng phát triển nhà
đồng bằng sông Cửu Long- Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, so sánh, thống kê, phân tích các chỉ số Trong đó, chủ yếu là
phương pháp so sánh dựa trên cơ sở số liệu trên các báo cáo tài chính và
thông tin thu thập được từ việc phỏng vấn trực tiếp nhân viên của chi nhánh.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục bảng, biểu, tài liệu tham
khảo, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Ngân hàng thương mại và công tác quản lý sử dụng vốn
của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý sử dụng vốn tại ngân hàng
phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long- Chi nhánh
Hà Nội trong giai đoạn 2008-2010.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn tại ngân hàng phát triển nhà đồng bằng
sông Cửu Long.
2
Chương 1
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong những ngành hình thành lâu đời nhất. Cùng với
sự phát triển của xã hội, ngành ngân hàng cũng ngày càng phát triển. Ở giai
đoạn đầu, ngân hàng mới chỉ thực hiện những nghiệp vụ đơn giản, phục vụ
nhu cầu xã hội, đó là giữ hộ của cải và thanh toán hộ. Đến nay, hoạt động của
ngân hàng đã được phát triển mạnh với nhiều lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ và
công nghệ ngày càng hiện đại thông qua sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế, NHTM đóng vai trò là trung gian tài chính, là chiếc
cầu chuyển tải những nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay những người
có nhu cầu và có khả năng đẩu tư sinh lợi. Nó giống như “ hệ tuần hoàn “ tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển thuận lợi hơn. Trong khi thực hiện vại trò
trung gian chuyển vốn từ người cho vay sang người đi vay, các NHTM đã tạo
ra những công cụ tài chính thay thế tiền làm phương tiện thanh toán. Nhờ các
công cụ này mà đại bộ phận tiền giao dịch trong nền kinh tế chu chuyển thông
qua ngân hàng, gắn các nhu cầu về lưu thông tiền tệ - thanh toán trong nước
và quốc tế lại với nhau.
Tóm lại, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và sử dụng số tiền đó để
cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM
NHTM là một doanh nghiệp, nhưng khác với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh
3
doanh trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng xuất phát từ những đặc trưng hoạt động
kinh doanh của NHTM:
Thứ nhất: NHTM là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi :
Thật vậy! Xem xét đến bảng cân đối tài sản của NHTM thì vốn tiền gửi luôn
luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng và khoản
chi phí lớn nhất của ngân hàng là khoản chi phí trả lãi. Ở một khía cạnh khác,
cũng trong bảng cân đối tài sản của NHTM, ta thấy khoản mục cho vay và
đầu tư tài chính của ngân hàng là các khoản thu từ hoạt động cho vay và đầu
tư tài chính. Điều này chứng tỏ, NHTM là chủ thể thường xuyên nhận và kinh
doanh tiền gửi.
Thứ hai: Trong quá trình hoạt động của mình, NHTM tạo ra những công
cụ tài chính thay thế tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Nhờ các công cụ này
mà đại bộ phận tiền giao dịch trong nền kinh tế chu chuyển thông qua ngân
hàng gắn các nhu cầu về lưu thông tiền tệ - thanh toán trong nước và quốc tế
lại với nhau. Do đó, hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống
thanh toán của mỗi quốc gia, đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi.
Thứ ba: Hoạt động của NHTM phong phú, đa dạng và có phạm vị rộng
lớn. Sự phong phú, đa dạng thể hiện ở sản phẩm dịch vụ ngân hàng: không
chỉ dừng lại ở những dịch vụ truyền thống mà còn không ngừng đưa vào
những sản phẩm, dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
khách hàng. Sự phong phú, đa dạng còn thể hiện ở đối tượng khách hàng của
ngân hàng. Khách hàng là doanh nghiệp, là cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức,
đoàn thể… Và phạm vi hoạt động rộng lớn thể hiện ở mạng lưới chi nhánh
của các ngân hàng. Để có thể tận dụng triệt để các khoản huy động và cho vay
đối với khách hàng thì các ngân hàng cần phải mở rộng mạng lưới chi nhánh
của mình. Mạng lưới chi nhánh càng rộng lớn thì việc huy động và cho vay
của ngân hàng càng dễ dàng.
4
Thứ tư: Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn tiềm ẩn rủi ro. Đối với
bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào thì rủi ro là điều không
tránh khỏi. Nhưng riêng đối với ngân hàng- một doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng thì rủi ro là đặc trưng trong hoạt động
kinh doanh của nó. Bởi vì, hoạt động kinh doanh của NHTM rất nhạy cảm với
những biến đổi của nền kinh tế. Ngân hàng có thể gặp rủi ro khi khách hàng
vay vốn không trả được nợ hay tình trạng thiếu tiền mặt ở một mức độ nào đó
có thể dẫn đến việc người gửi tiền đồng loạt rút vốn và cuối cùng là ngân
hàng bị phá sản… Nói tóm lại, ngân hàng phải đương đầu với rất nhiều rủi ro,
trong đó, 4 loại rủi ro thường gặp là: rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro
thanh khoản và rủi ro tín dụng.
1.2. Công tác quản lý sử dụng vốn của NHTM
1.2.1. Vốn của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được; dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, nguồn vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà khách hàng
gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Họ chuyển quyền
sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng để ngân hàng trả cho họ một khoản thu
nhập nhất định gọi là lãi suất tiền gửi. Và như vậy, ngân hàng đã thực hiện
vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ làm tăng
nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh
tế phát triển. Đồng thời chính các hoạt động đó quyết định sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng.
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, các NHTM đã tập trung huy động
những nguồn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư trong xã hội vào ngân hàng
góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, bảo vệ giá trị đồng tiền và hạn chế lạm
5
phát. Đồng thời trên cơ sở số vốn huy động được, ngân hàng tiến hành cho
vay để thực hiện nhu cầu phát triển sản xuất – kinh doanh, cho các mục tiêu
kinh tế của địa phương và của cả nước. Trong thời kỳ phát triển kinh tế hiện
nay, nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín
cho ngân hàng và tạo thế chủ động để ngân hàng phát triển các hoạt động
kinh doanh của mình, mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và
dân cư, mang lợi ích cho khách hàng và lợi nhuận cho ngân hàng. Vì vậy, các
NHTM cần phải căn cứ vào mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của đất
nước, của địa phương và nghiên cứu các nhu cầu gửi tiền của khách hàng để
từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
của nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Vốn của NHTM bao gồm:
a. Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các tổ chức và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện nghiệp vụ
tín dụng, thanh toán và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Đây là nguồn vốn
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
Vốn huy động bao gồm:
* Tiền gửi
Tiền gửi tại NHTM bao gồm tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn (còn được gọi là Tiền gửi thanh toán): là loại
tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn
yêu cầu đó của khách hàng. Do tính chất đó mà loại tiền gửi này có lãi suất
thấp hoặc không được trả lãi.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách
hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận tiền gửi này có nguồn
gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi.
6
Về cơ bản, các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành
thanh toán như các khoản trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường,
tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán va tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách
đa dạng hoá loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi
suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
* Tiền gửi tiết kiệm
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người gửi lao
động chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích
luỹ tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó, tiền gửi tiết
kiệm của dân cư bao gồm :
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn :
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào, song
không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn :
Là khoản tiền có sự thoả thuận về thời hạn và rút tiền, có mức lãi suất
cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
* Vốn huy động từ các nguồn khác
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các NHTM còn phát hành chứng
chỉ tiền gửi và trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này là huy động vốn tiền tệ
bằng việc phát hành các giấy tờ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi là phiếu
nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định ; trái phiếu là loại trung và dài hạn. Hai
loại phiếu nợ trên được ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với
sự chấp thuận của NHTW hoặc Hội đồng chứng khoán quốc gia. Đối với
những hình thức này thường có lãi suất cao hơn so với các loại tiền gửi tiết
7
kiệm và các loại hình được huy động vốn theo từng sáng kiến của mỗi ngân
hàng. Với hình thức này, ngân hàng chủ động về mặt thời hạn hoàn trả, do đó,
có thể sử dụng cho vay theo những nhu cầu hiện tại của mình.
b. Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng (khoảng dưới 10%), song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc
khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự
có, ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như:
trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định (văn phòng, kho tàng, máy
móc…) phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu
tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi
như tài sản đảm bảo tạo lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh
toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ
quyết định đối với khả năng và khối lượng huy động của ngân hàng. Như vậy,
quy mô, sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và thế phát
triển của NHTM.
Vốn tự có của NHTM bao gồm các thành phần sau:
* Vốn pháp định
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do
pháp luật quy định.
* Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của ngân hàng. Nó
được hình thành từ nhiều nguồn: có thể do Nhà nước cấp (đối với NHTM Nhà
nước), có thể là vốn đóng góp của cổ đông (đối với NHTM cổ phần). Mức
vốn điều lệ tuỳ thuộc quy mô của NHTM, nhưng không thấp hơn vốn pháp
định. Quy mô của vốn điều lệ nói lên sức mạnh và khả năng hoạt động ban
8
đầu của NHTM. Chính vì vậy tuỳ theo từng quốc gia sẽ có quy định riêng về
mức vốn điều lệ tối thiểu của một NHTM. Ở nước ta theo quy định tại điều 19
Luật các tổ chức tín dụng: Tổng dư nợ cho vay đối với khách hàng không quá
15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Như vậy, nếu NHTM có vốn điều lệ lớn
hơn sẽ có vốn tự có lớn, cho vay được nhiều vốn hơn đối với một khách hàng.
* Vốn tự có bổ sung
Được hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng thông qua việc
trích lập các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ này nhằm mục đích tăng cường số
vốn tự có ban đầu;
- Quỹ dự trữ đặc biệt: Quỹ này để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình
hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận chưa
phân phối hoặc các quỹ khác như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ khấu
hao tài sản cố định.
c. Vốn đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM với NHTW, hoặc giữa các
NHTM với nhau hay các TCTD khác.
Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi
ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động, hay
nói cách khác: tạm thiếu vốn khả dụng.
Trong trường hợp vốn đi vay từ các TCTD khác tiếp tục không đáp ứng
được cho nhu cầu sử dụng của NHTM thì NHTM sẽ đi vay của NHTW. Tuỳ
theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTW được chia thành
các loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và tái cấp vốn.
* Vốn vay ngắn hạn bổ sung
Là hình thức các NHTM xin vay vốn để bổ sung vốn ngắn hạn của mình.
9
Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng
và trong hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
* Vốn vay để thanh toán
Các NHTM vay NHTW nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong công tác
thanh toán giữa các ngân hàng.
* Tái cấp vốn
NHTW cho các NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này
phải là chứng từ có chất lượng, tức phải thoả mãn những điều kiện: hợp pháp,
hợp lệ, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn bao gồm hai hình thức:
- Cho vay tái chiết khấu: NHTW nhận các chứng từ có giá trị mà các
NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các
NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với các NHTM đã
được giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
- Cho vay có đảm bảo: Là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá
trị đến NHTW để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các
chứng từ có giá trị làm đảm bảo, NHTW sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ
theo sự quản lý của Nhà nước.
d. Vốn khác
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một
khoản vốn được gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín
dụng, tài khoản tiền gửi sec bảo chi, sec định mức và các khoản tiền phong
tỏa do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại Thông qua nghiệp vụ
đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu
hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng, nhận và chuyển vốn
cho khách hàng hay một dự án đầu tư.
10
1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM
Hoạt động sử dụng vốn là hoạt động phản ánh quá trình sử dụng vốn vào
các mục đích của ngân hàng nhằm tìm kiếm lợi nhuận cũng như đảm bảo an
toàn của ngân hàng. Nó là việc chuyển hóa tiền gửi và vốn thành tài sản dự
trữ và các tài sản có khác sinh lời.
Sử dụng vốn của NHTM được thể hiện trên bảng cân đối tài sản, phản
ánh giá trị tài sản có của ngân hàng, bao gồm: Hoạt động dự trữ và thanh
toán, hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư và các hoạt động khác.
a. Hoạt động dự trữ và thanh toán
Theo quy định, các NHTM và các tổ chức nhận tiền gửi bao giờ cũng
duy trì một phần tài sản của mình dưới hình thức dự trữ pháp định bao gồm
tiền mặt hoặc số dư trên tài khoản ở NHTW nhằm đáp ứng nhu cầu rút tiền,
thoả mãn nhu cầu tín dụng và cung cấp các hoạt động khác từ phía khách
hàng. Hoạt động dự trữ và thanh toán bao gồm:
* Dự trữ pháp định
Mức dự trữ pháp định do tổ pháp luật quy định được áp dụng cho tất cả
các ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi. Dự trữ pháp định là một trong số
vốn mà NHTM thu được để gửi vào một tài khoản của NHNN.
* Tiền mặt tại quỹ
Là khối lượng tiền do ngân hàng giữ tại các kho của mình. Mặc dù số
tiền này được xem như một phần của các tài sản dự trữ pháp định, các nhà
quản lý ngân hàng luôn cố gắng giữ nó càng ít càng tốt vì lý do an toàn và
giảm bớt chi phí, bảo quản tiền mặt khỏi bị hư hỏng. Chính vì vậy mà nhu cầu
dự trữ tiền mặt của các ngân hàng thường khác nhau, phụ thuộc vào những
đặc điểm riêng của từng ngân hàng, từng khu vực. Dự trữ tiền mặt tạm thời
gia tăng ở một vài thời điểm mà ngân hàng có thể dự kiến được trước trong
tương lai như dịp lễ tết, cuối năm, kỳ nghỉ… khi mà khách hàng có nhu cầu
chi tiêu cao hơn mức bình thường.
11
Ngoài ra, địa điểm đặt trụ sở của ngân hàng cũng là một yếu tố quan
trọng ảnh hưởng tới quy mô của khối lượng tiền mặt tại quỹ. Với các ngân
hàng nằm ở vị trí tương đối xa NHNN, buộc họ phải giữ nhiều tiền mặt tại
quỹ hơn so với các ngân hàng gần nguồn cung ứng tiền mặt. Vì vậy, khi
khách hàng của họ có nhu cầu rút tiền ngay, với khối lượng lớn thì sẽ rất khó
khăn cho ngân hàng trong việc làm cho vừa lòng họ. Chính vì vậy mà các
ngân hàng ở khu vực nông thôn thường giữ nhiều tiền mặt hơn so với các
ngân hàng ở thành phố có địa điểm thuận lợi.
*Tiền mặt ở các ngân hàng khác
Với mục đích đa dạng hoá các hoạt động của mình, các NHTM thường
gửi tiền ở các ngân hàng khác nhằm thuận tiền trong quá trình thanh toán giữa
các khách hàng của mình với các ngân hàng này cũng như các khách hàng của
họ và ngược lại giữa các khách hàng của ngân hàng khác với ngân hàng mình.
Ngoài ra, việc mở tài khoản ở ngân hàng khác cũng nhằm cung cấp các dịch
vụ hưởng hoa hồng giúp tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.
b. Hoạt động tín dụng
Tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất trong danh mục các khoản sử
dụng vốn của ngân hàng, là hoạt động sinh lời chủ yếu của các NHTM. Tín
dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế
tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thoả thuận. Bên đi vay có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc và
lãi cho bên cho vay khi đến hạn.
Việc phân loại tín dụng dựa vào các căn cứ sau đây:
* Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay của từng khách hàng có thể chia thành:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm, xây
dựng bất động sản như: nhà cửa, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
12
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí phục vụ
cho hoạt động nông nghiệp như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng,
thức ăn gia súc
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín
dụng nhân dân và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: Là loại hình cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền, các khoản cho vay để trang trải các chi
phí thông thường của đời sống.
- Cho thuê: Cho thuê các định chế tài chính bao gồm 2 loại: cho thuê vận
hành và cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung -
dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín
dụng với khách hàng thuê, theo đó, ngân hàng chuyển giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho khách hàng sử dụng trong một khoảng thời gian
nhất định và khách hàng phải có nghĩa vụ hoàn trả tiền thuê theo cam kết đã
ghi trong hợp đồng.
* Căn cứ theo kỳ hạn cho vay có thể chia thành:
- Cho vay ngắn hạn: Đây là khoản cho vay thường có thời hạn dưới một
năm được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân. Cho vay ngắn hạn được thực hiện
trong một thời gian nhất định hoặc trên cơ sở theo yêu cầu. Cho vay ngắn hạn
theo yêu cầu là khoản vay không có kỳ hạn nhất định và được dùng để tài trợ
tạm thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
13
- Cho vay trung hạn: Là khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến hoặc mua mới máy móc, trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Hơn nữa, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường
xuyên của các doanh nghiệp (đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập).
- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối
đa có thể lên đến 20- 30 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các
nhu cầu dài hạn như: xây nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô
lớn, xây dựng xí nghiệp mới. Đối với các khoản vay dài hạn, khách hàng có
thể yên tâm về thời gian sử dụng động vốn trong sản xuất kinh doanh.
* Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng có thể chia thành:
- Cho vay có bảo đảm:
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách
hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay phải có bảo đảm. Lý do
thực tế đòi hỏi một khoản cho vay phải được bảo đảm là nhằm tạo điều kiện
để ngân hàng giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp người vay không
muốn hoặc không có khả năng hoàn trả nợ khi đáo hạn.
Theo pháp luật hiện hành, một NHTM có thể cho khách hàng vay tới
70% giá trị vật được thế chấp. Điều này có nghĩa là NHTM có thể thu hồi về
toàn bộ số vốn và lãi vay đã cho vay nếu phát mại tài sản thế chấp trong
trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ khoản vay. Theo góc độ đó
có thể thấy hoạt động cho vay này của ngân hàng rất an toàn, vì vậy đây là
hình thức cho vay khá phổ biến ở các NHTM nước ta hiện nay.
- Cho vay không có bảo đảm:
Khác với cho vay có bảo đảm, cho vay không có bảo đảm được thực
hiện dựa trên sự tín nhiệm và tình hình tài chính của người vay, lợi tức có thể
14
thu được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Khách hàng thường là
những công ty lớn, có danh tiếng trên thị trường, quản lý có hiệu quả, có các
sản phẩm được thị trường chấp nhận, có lợi nhuận ổn định và có tình hình tài
chính vững mạnh. Trong trường hợp này, khách hàng phải cung cấp cho ngân
hàng đầy đủ và chính xác các báo cáo kinh doanh của một hoặc một số năm
gần đây, đồng thời phải có phương hướng, dự án hiệu quả trong tương lai để
ngân hàng nắm rõ tình hình tài chính và sự tiến bộ của họ, từ đó ngân hàng
chấp nhận và cấp các khoản vay không bảo đảm. Ngoài ra, những cá nhân có
thu nhập ổn định, trả nợ song phẳng… cũng sẽ được vay không cần bảo đảm,
thế chấp.
Hình thức vay này đã được các NHTM nước ta chú ý tới như cho vay
đối với cán bộ nhân viên có ý kiến xác nhận và cam kết của thủ trưởng cơ
quan, đơn vị; cho vay hộ nông dân có ruộng đất với sự xác nhận hoặc tín chấp
của hộ nông dân; cho vay sinh viên… Đặc biệt là các NHTM có sự liên doanh
với nước ngoài và ngân hàng chính sách - xã hội đã bắt đầu mạnh dạn cho các
tổ chức, cá nhân kinh doanh nếu họ có được các dự án mà theo đánh giá của
ngân hàng là có thể đem lại hiệu quả cho chính cá nhân và cho toàn bộ nền
kinh tế.
* Căn cứ theo phương thức hoàn trả, khoản mục tín dụng được phân thành:
- Cho vay hoàn trả một lần: Là loại cho vay thanh toán một lần theo thời
hạn đã thoả thuận. Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những
khoản cho vay thẳng, nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian
đáo hạn cuối cùng. Những khoản lãi có thể được trả vào các thời điểm khác
nhau hoặc trả khi đúng hạn. Những khoản cho vay một lần thường là những
khoản cho vay ngắn hạn.
- Cho vay hoàn trả nhiều lần: Cho vay hoàn trả nhiều lần đòi hỏi việc
hoàn trả theo những thời điểm nhất định và được thực hiện theo nguyên tắc
15
trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng tín dụng. Nhờ vậy việc hoàn trả
dần không trở thành gánh nặng lớn đối với người vay trong trường hợp toàn
bộ khoản vay phải được trả một lần, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
chủ động trong sản xuất - kinh doanh.
* Căn cứ theo xuất xứ tín dụng có thể chia thành:
- Cho vay trực tiếp: Là việc ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có
nhu cầu, đồng thời người đi vay hoàn trả nợ trực tiếp cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh hoặc còn trong thời hạn
thanh toán. Hiện nay, ngân hàng thực hiện những hình thức cho vay gián tiếp
như: chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc
công nghiệp trả góp, mua các khoản nợ thương mại…
* Căn cứ theo nguồn gốc khách hàng có:
- Cho vay đối với Chính phủ: Là các khoản vay mà Nhà nước vay của
ngân hàng dưới hình thức phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ
để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
- Cho vay ngân hàng và các tổ chức tài chính: Là những khoản vay mà
ngân hàng cho các ngân hàng khác vay nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn
tại các ngân hàng đó và đồng thời cũng phần nào giải quyết được lượng vốn
lớn huy động từ trong dân cư.
- Cho vay các doanh nghiệp: Là khoản vay mà các doanh nghiệp được
ngân hàng cho vay để đầu tư xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị, mở
rộng sản xuất kinh doanh. Các khoản vay này thường là các khoản tín dụng
trung và dài hạn.
- Cho vay cá nhân kinh doanh: Là hình thức cho vay đối với các cá nhân
có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh.
16
c. Hoạt động đầu tư
Đây là một trong những nội dung quan trọng của sử dụng vốn, giúp
ngân hàng khai thác, sử dụng tối đa các nguồn vốn đã huy động, mang lại
nguồn thu nhập quan trọng cho NHTM, đặc biệt là thực hiện những khoản
cho vay tài trợ đối với hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, chi tiêu của
các thành viên trong xã hội. Những khoản cho vay này tạo công ăn việc làm
cho rất nhiều người, trong đó, bao gồm cả người vay vốn và cả những người
được hưởng lợi gián tiếp từ các hoạt động cho vay. Song, đối với những ngân
hàng vừa và nhỏ, họ không sử dụng toàn bộ vốn huy động để đầu tư và các
khoản đẩu tư của họ chủ yếu chỉ tập trung trong địa phận nơi ngân hàng đặt trụ
sở. Bởi những tài khoản cho vay thuộc nhóm tài sản có của ngân hàng được tập
trung vào 2 loại, gồm đầu tư cho doanh nghiệp và đầu tư chứng khoán.
- Đầu tư cho vay doanh nghiệp: là hình thức ngân hàng cho doanh
nghiệp vay vốn dưới hình thức tài trợ hoặc đồng tải trợ. Thông qua họat động
mua cổ phần đầu tư vào các doanh nghiệp, ngân hàng có thể kiểm soát được
hoạt động của doanh nghiệp, tham gia quản lý hoặc cùng tham gia với các đối
tác kinh doanh khác.
- Đầu tư chứng khoán: là hoạt động mua, bán các công cụ tài chính trên
thị trường chứng khoán với mục đích thu lợi nhuận từ hoạt động đầu tư này.
Các khoản đầu tư chứng khoán có thể trao đổi trên thị trường, đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Chứng khoán cung cấp nguồn thu
nhập bổ sung cho ngân hàng. Thêm vào đó, khoản đầu tư chứng khoán còn
cung cấp nguồn thanh khoản cho ngân hàng, hỗ trợ nguồn tiền mặt và nguồn
tiền vay từ thị trường tiền tệ khi ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản
với quy mô lớn.
Thông thường, ngân hàng đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau
bao gồm: tín phiếu và trái phiếu chính phủ, tín phiếu và trái phiếu công ty, các
loại chứng khoán nợ khác và một số cổ phiếu được pháp luật cho phép.
17
Đầu tư vào chứng khoán là một nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro, vì vậy
trong quá trình ra quyết định lựa chọn loại chứng khoán để đầu tư, ngân hàng
cần phải cân nhắc thật kỹ lưỡng những yếu tố quan trọng như tỷ lệ thu nhập,
rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro lạm phát…
d. Hoạt động khác
Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: kinh doanh ngoại tệ, vàng
bạc và kim khí, đá quý, thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ;
nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ
khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như: dịch vu bảo quản hiện vật quý,
giấy tờ có giá, cho thuê két sắt, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của
pháp luật mà các ngân hàng cũng thu được những khoản lợi nhuận đáng kể.
1.2.3. Hiệu quả sử dụng vốn của NHTM
1.2.3.1.Khái niệm
Trong điều kiện kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt,
thì vấn đề đặt ra đối với nhà quản trị doanh nghiệp cũng như những nhà quản
trị ngân hàng là phải làm sao mà đồng vốn bỏ ra được sử dụng hiệu quả nhất.
Do đặc thù của ngành ngân hàng mà quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn
được hiểu là :
Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù phản ánh trình độ và khả năng
thực hiện công tác sử dụng vốn nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất với chi
phí và rủi ro là thấp nhất có thể. Có nghĩa là: về mặt số lượng, hoạt động
sử dụng vốn biểu hiện giữa kết quả đạt được (số lượng, thời gian) với chi
phí bỏ ra. Còn về mặt chất lượng, nó phản ánh năng lực, trình độ quản lý
của ngân hàng.
1.2.3.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của NHTM
Đối với một NHTM, hoạt động đầu tư, cho vay không những mang lại
nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng mà đồng thời nó còn đóng vai trò
18
quan trọng nhất trong quá trình phát triển, mở rộng phạm vi kinh doanh, tăng
trưởng nguồn vốn và đạt được những mục tiêu đề ra của ngân hàng. Bởi vậy,
để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, ta cần tập trung nghiên cứu hai nhóm các
chỉ tiêu sau:
1.2.3.2.1. Chỉ tiêu về quy mô đầu tư và cho vay
a. Doanh số cho vay
Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khái quát đối với những khoản vay
của NHTM tại một thời điểm xác định. Với chỉ số này, chúng ta biết được khả
năng luân chuyển và sử dụng vốn, đồng thời cũng phản ánh quy mô đầu tư và
khả năng cho vay nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định của một NHTM.
Ngoài ra, doanh số cho vay còn là cơ sở để có thể xác định chính xác vòng
quay vốn tín dụng ngắn hạn của ngân hàng.
b. Dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay là số tiền mà ngân hàng cho khách hàng vay tại thời điểm
cuối kỳ kế hoạch, phản ánh số vốn đầu tư và cho vay của ngân hàng chưa thu
hồi được.
c. Hệ số sử dụng vốn
Hệ số sử dụng vốn là chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng vốn so với
tổng nguồn vốn.
Hệ số sử dụng vốn cho phép đánh giá được khái quát tình hình sử dụng
vốn của ngân hàng. Hệ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng càng tận dụng
triệt để nguồn vốn huy động được để phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của mình. Ngược lại, hệ số này càng thấp cho thấy số vốn ngân hàng sử
19
Tổng số vốn sử dụng
Hệ số sử dụng vốn = x 100%
Tổng nguồn vốn
dụng chưa cao so với tổng nguồn vốn huy động, điều này sẽ làm tăng chi
phí của ngân hàng như: chi phí cơ hội, chi phí bảo quản tiền mặt, chi phí
trả lãi tiền gửi…
1.2.3.2.2. Chỉ tiêu chất lượng tín dụng
a. Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản vay và khả
năng đảm bảo được khoản vay đó tại một thời điểm trong kỳ kế hoạch. Thực chất
nó là một trong những yếu tố để đánh giá tính chất, trình độ nghiệp vụ của một cán
bộ tín dụng, đồng thời gián tiếp thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng cũng như tình hình biến động chung của nền kinh tế.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng
càng thấp, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Do đó, để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì các NHTM phải tìm mọi biện pháp để
giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
b. Vòng quay vốn
Vòng quay vốn càng cao, chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân
chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Với một số lượng vốn nhất định, nhưng do tốc độ vòng quay vốn tín dụng
nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn trong doanh nghiệp, mặt
khác, ngân hàng có vốn để đầu tư cho các doanh nghiệp khác thực hiện sản
xuất kinh doanh.
20
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100 %
Tổng dư nợ
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn =
Dư nợ bình quân
Như vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động sử dụng vốn các NHTM phải
thông qua một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá quy mô và chất lượng sử dụng
vốn của ngân hàng trong kỳ kế hoạch. Trên cơ sở số liệu của các chỉ tiêu trên,
các nhà quản trị NHTM đánh giá được kết quả kinh doanh của ngân hàng
mình, trên cơ sở đó điều chỉnh kế hoạch cân đối nguồn vốn và có biện pháp
quản lý, điều hành đạt hiệu quả cao.
1.2.3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của NHTM
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM chịu sự chi phối của nhiều nhân tố
khác nhau, trong đó có thể chia thành hai nhóm nhân tố sau:
1.2.3.3.1. Nhân tố khách quan
a. Hành lang pháp lý và các chính sách của Nhà nước
Hành lang pháp lý bao gồm các bộ luật có tác động trực tiếp đến hiệu
quả sử dụng vốn của ngân hàng hoặc ảnh hưởng đến khách hàng của ngân
hàng, từ đó cũng ảnh hưởng đến hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng.
Những bộ luật có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của NHTM
như: Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng… Theo đó, các
luật này quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mức cho vay của NHTM đối với
khách hàng, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung -
dài hạn…
Bên cạnh đó, chính sách kinh tế của Nhà nước cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Thông qua các chính sách
kinh tế, các biện pháp kinh tế , Nhà nước tạo ra môi trường và hành lang cho
hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và của NHTM nói riêng. Chính
sách đầu tư của Nhà nước cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn
của NHTM. Khi Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh trong một lĩnh vực nào đó, thì cũng tạo điều kiện thuận lợi cho ngân
hàng cho vay nhiều hơn. Và ngược lại.
21