Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Quân đội trong điều kiện cạnh tranh tự do giữa các NHTM trên thị trường vốn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.61 KB, 102 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu
khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHẠM THỊ DIỆU PHÚC
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ngân hàng Quân đội Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
NHTM Ngân hàng thương mại
NVHTQHKH Nhân viên hỗ trợ quan hệ khách hàng
NVQHKH Nhân viên quan hệ khách hàng
KTTV Kế toán tiền vay
HĐQT Hội đồng quản trị
TMCP Thương mại cổ phần
TGĐ Tổng giám đốc
TSĐB Tài sản đảm bảo
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Quân đội Error: Reference
source not found
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới
WTO là một cơ hội lớn để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng, trong đó
lĩnh vực ngân hàng là một lĩnh vực đặc thù có vai trò quan trọng. Cùng với sự
ổn định về chính trị và tăng trưởng về kinh tế đã thúc đẩy hoạt động đầu tư,
xây dựng, kinh doanh, dịch vụ, phát triển việc làm, tăng thu nhập, nâng cao
chất lượng đời sống của người dân, gia tăng nhu cầu hưởng thụ Trước thực
tế đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã thực hiện huy động vốn từ nền


kinh tế để cung cấp các khoản cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng
và đồng thời mở rộng hoạt động và tăng khả năng cạnh tranh của mình. Số
lượng khách hàng tìm đến ngân hàng yêu cầu cung cấp tín dụng tăng lên đáng
kể, tạo nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng.
Tuy nhiên, như tất cả chúng ta đều biết lợi nhuận và rủi ro là hai mặt của
một vấn đề, lợi nhuận cao cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng phải đối mặt
với những rủi ro tiềm ẩn mà phía khách hàng cũng như phía chủ quan của
ngân hàng đem lại. Thực tế cho thấy rằng quá trình huy động vốn và cho vay
của ngân hàng để đạt được thành công không chỉ dựa trên việc tìm kiếm
khách hàng và giải ngân các khoản cho vay, mà phải dựa trên việc tối thiểu
hóa rủi ro trong việc thu lại chúng. Sự sống còn và khả năng cạnh tranh của
ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản lý rủi ro tín dụng để sinh lời.
Như vậy, muốn tồn tại và phát triển, các ngân hàng phải có đủ năng lực quản
lý rủi ro. Ngày nay, hoạt động quản trị tài sản nợ- tài sản có và quản lý rủi ro
được các NHTM đặc biệt quan tâm. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và công nghệ thông tin thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng
cũng đa dạng, phức tạp và tinh vi hơn rất nhiều so với trước đây. Chính điều
1
này đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng cần phải phát hiện sớm các rủi ro, đặc
biệt là các rủi ro tiềm ẩn. Mỗi NHTM phải xây dựng được một chiến lược
quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cả
khâu huy động vốn và cho vay. Ngân hàng TMCP Quân đội cũng không
nằm ngoài xu thế đó. Phát hiện sớm các rủi ro và đưa ra các mô hình quản lý
rủi ro đóng vai trò rất quan trọng đối với các ngân hàng hiện đại và đa năng
hiện nay.
Vậy, rủi ro tín dụng và những nội dung của quản lý rủi ro tín dụng tiêu
dùng là gì? Một chương trình quản lý rủi ro toàn diện phải có những yếu tố
nào? Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tiêu dùng hiện nay tại Ngân hàng
TMCP Quân đội và những biện pháp nào được coi là hiệu quả để giảm thiểu
rủi ro cho ngân hàng?

Với đề tài “Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
tại ngân hàng TMCP Quân đội trong điều kiện cạnh tranh tự do giữa các
NHTM trên thị trường vốn Việt Nam” tác giả mong muốn đưa ra những
giải pháp có căn cứ khoa học và thực tiễn giải đáp các vấn đề nêu trên.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và đi sâu
nghiên cứu quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM.
Nghiên cứu thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Quân đội.
Trên cơ sở thực tiễn và lý luận, đề suất các giải pháp nhằm phòng ngừa
và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là rủi ro trong hoạt động huy động
vốn và hoạt động cho vay tại NHTM.
2
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Quân đội từ năm 2008 đến 2010 và định hướng, giải pháp
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp chủ yếu được sử
dụng bao gồm: phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch
sử. Ngoài ra, các phương pháp cụ thể như: phương pháp so sánh, thống kê,
phân tích, tổng hợp cũng góp phần tạo nên tính khoa học của luận văn.
5. Tên và kết cấu luận văn
Tên luận văn: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng tại ngân hàng TMCP Quân đội trong điều kiện cạnh tranh tự do
giữa các NHTM trên thị trường vốn Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục thành 3 chương như sau:
Chương 1: Nghiệp vụ tín dụng và rủi ro tín dụng của NHTM

trong điều kiện cạnh tranh tự do giữa các NHTM trên
thị trường vốn
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
cổ phần Quân đội trong điều kiện cạnh tranh tự do
giữa các NHTM trên thị trường vốn Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Quân đội
3
Chương 1
NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TỰ DO GIỮA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN
1.1. Tổng quan về nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại
Để đảm bảo đủ vốn để thực hiện các hoạt động kinh doanh, ngoài vốn tự
có (thường chỉ chiếm dưới 10% tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại),
ngân hàng thương mại (NHTM) phải huy động vốn. Hoạt động huy động vốn
là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực
hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng
cho khách hàng.
Theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm cụ thể hóa việc thi hành
Luật các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các
hình thức sau:
• Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền
gửi khác.
• Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá trị khác để

huy động vốn của tổ chức, các nhân trong nước và ngoài nước khi được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
• Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của
các tổ chức tín dụng nước ngoài.
• Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) theo quy định
của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4
1.1.2. Nghiệp vụ cho vay và đầu tư của ngân hàng thương mại
* Cho vay:
Đây là hoạt động cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các nhu cầu
sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng.
Cho vay là hoạt động truyền thống của ngân hàng thương mại và đến nay vẫn
được coi là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, nghiệp vụ cho vay được hiểu
là một giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và khách hàng (bên đi vay) trong
đó ngân hàng chuyển giao một số tiền nhất định cho khách hàng sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, khách hàng có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn.
Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại.
Dư nợ vay thường chiếm trên 50% tổng tài sản của ngân hàng thương mại và
thu nhập từ hoạt động cho vay thường chiếm từ 50% - 70% tổng thu nhập của
ngân hàng thương mại. Bên cạnh việc mang lại thu nhập chính cho ngân hàng
thì rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng có xu hướng tập trung vào danh
mục cho vay. Chính vì vậy mà hoạt động cho vay luôn là mối quan tâm lớn
nhất của các ngân hàng thương mại cũng như thanh tra ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại có các đặc trưng sau:
- Tài sản trong quan hệ tín dụng ngân hàng là tiền.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngân hàng khi chuyển giao tài
sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng, là lý do mà

ngân hàng phải thực hiện phân tích kỹ lưỡng trước khi quyết định cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần vốn gốc.
5
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ
tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu, trong đó
bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho ngân hàng khi đến hạn thanh
toán.
Một số loại hình cho vay mà ngân hàng thương mại thực hiện bao gồm:
a. Căn cứ theo mục đích cho vay
Căn cứ vào mục đích cho vay, hoạt động cho vay có thể chia thành:
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp: là loại hình
cho vay đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại hình cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu
tiêu dùng cá nhân.
b. Căn cứ theo thời hạn cho vay
Căn cứ vào thời hạn cho vay, hoạt động cho vay có thể chia thành:
- Cho vay ngắn hạn: là loại hình cho vay có thời hạn đến 12 tháng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn
của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60
tháng (có thể khác nhau ở mỗi nước). Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử
dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ
và thời hạn thu hồi vốn nhanh…
- Cho vay dài hạn: là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 60 tháng, có

6
thể kéo dài đến 20- 30 năm hoặc thậm chí lâu hơn. Tín dụng dài hạn được
cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị,
phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới…
c. Căn cứ theo khách hàng vay vốn
Căn cứ theo khách hàng vay vốn, hoạt động tín dụng có thể chia thành:
- Cho vay khách hàng cá nhân: là loại hình cho vay để bù đắp nhu cầu
tiêu dùng cá nhân. Thời hạn cho vay có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài
hạn tùy theo mục đích sử dụng vốn vay và nguồn trả nợ của cá nhân.
- Cho vay khách hàng tổ chức/doanh nghiệp: là loại hình cho vay để
phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn cho
vay có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tùy vào nhu cầu vốn của
doanh nghiệp.
d. Căn cứ vào mức độ tín nghiệm đối với khách hàng
Căn cứ vào mức độ tín nghiệm đối với khách hàng, hoạt động cho vay có
thể chia thành:
- Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào
uy tín của bản than khách hàng. Loại hình cho vay này thường chỉ được áp
dụng đối với một số khách hàng tốt nhất và đã có quan hệ tín dụng lâu năm
với ngân hàng.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại hình cho vay mà ngân hàng yêu cầu khách
hàng phải có bảo đảm như thế chấp, cầm cố tài sản hoặc phải có sự bảo lãnh
của người thứ ba. Loại hình cho vay này thường áp dụng đối với khách hàng
không có uy tín cao đối với ngân hàng. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để
ngân hàng có thêm nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu
chắc chắn.
e. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả của khách hàng, hoạt động cho vay có
7

thể chia thành:
- Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ
thể theo hợp đồng, bao gồm: Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ, cho vay có
nhiều kỳ hạn trả nợ.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay này ngân hàng
có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng phải
báo trước một thời gian hợp lý thời gian này có thể thỏa thuận trong hợp đồng.
f. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng, hoạt động cho vay có thể chia thành:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu
vốn đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là loại hình cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán. Các ngân hàng thương mại thường cho vay gián tiếp theo các loạii
sau: Chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng, bao thanh toán (mua
các khoản phải thu).
* Đầu tư:
Bên cạnh việc sử dụng vốn để cho vay, ngân hàng thương mại còn sử
dụng vốn để đầu tư vào trái khoán, góp vốn, mua cổ phần… Hoạt động này
góp phần nâng cao khả năng thanh toán cho ngân hàng, làm đa dạng hóa hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nhằm phân tán rủi ro và mang lại lợi nhuận
không nhỏ cho ngân hàng.
1.1.3. Cạnh tranh tự do trên thị trường vốn và sự tác động của nó đến
nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Cạnh tranh tự do trên thị trường vốn
* Khái niệm về cạnh tranh tự do trên thị trường vốn:
Cạnh tranh tự do trên thị trường vốn của các NHTM là việc áp dụng
các biện pháp đặc thù chiếm lĩnh thị trường nhằm đạt thị phần cao nhất
8
trong huy động vốn và cho vay với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.

* Các loại cạnh tranh trên thị trường vốn:
- Cạnh tranh hợp pháp: là sự cạnh tranh tuân theo pháp luật. NHTM áp
dụng kỹ thuật nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ, để cạnh tranh với các
đối thủ khác.
- Cạnh tranh không hợp pháp: là việc sử dụng các thủ pháp bị cấm (nâng
lãi suất huy động vượt khung, sử dụng các hình thức khuyến mại, quảng
cáo ), là biện pháp ganh đua thu hút khách hàng bằng mọi giá để đánh bại
đối thủ cạnh tranh. Đây là hiện tượng xấu cần ngăn chặn bằng pháp luật.
* Xu thế cạnh tranh hiện nay:
Kinh tế thị trường là cạnh tranh. Nhà nước và xã hội khuyến khích cạnh
tranh lành mạnh nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa dịch vụ và hạ giá thành
sản phẩm.
* Mục tiêu của cạnh tranh trên thị trường vốn:
- Mở rộng thị trường tín dụng.
- Hạ thấp chi phí huy động vốn để hạ thấp lãi suất cho vay.
- Góp phần hạ giá thành hàng hóa dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế.
1.1.3.2. Sự tác động của cạnh tranh tự do trên thị trường vốn đến nghiệp
vụ tín dụng của NHTM
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên
quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản
phẩm dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết
kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và
người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh
trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, ngân hàng đầu tư
Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm
như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát
9
triển dịch vụ cho tương lai.
Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục các sản phẩm dịch vụ:

Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính
mà họ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch
vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ
các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng,
và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn
đến rủi ro phá sản cao hơn. Các sản phẩm dịch vụ mới đã có ảnh hưởng tốt
đến ngành công nghiệp này thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới cho
ngân hàng – các khoản lệ phí của dịch vụ không phải lãi, một bộ phận có xu
hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay.
Sự gia tăng chi phí vốn: Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh
tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn
cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi
do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính
phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn
vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm
cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các
thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng
buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo
đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng
cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán
trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy
hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân
hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi).
Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất: Các qui định của
Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận
10
được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm
cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ
USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài
khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có

mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều
kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với
những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền
gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên
phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với ý
thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
Cách mạng trong công nghệ ngân hàng: Đối mặt với chi phí hoạt động
cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử
dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao
động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và
cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động
ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ;
Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng
thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ
thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng
trên toàn thế giới.
Cộng với những xu hướng phát triển trên, việc mở cửa thị trường tài
chính nội địa sẽ làm tăng rủi ro thị trường (giá cả, tỷ giá, lãi suất, chu chuyển
vốn) do các tác động từ bên ngoài, xóa đi khả năng tận dụng chênh lệch tỷ
giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế. Hệ thống ngân hàng
thương mại trong nước cũng phải đối mặt lớn hơn với các rủi ro khủng hoảng
và các cú sốc kinh tế, tài chính trong khu vực và trên thế giới. Sự kém phát
triển của thị trường vốn có thể sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ
11
thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây nên. Quy mô và tốc độ luân chuyển các luồng
vốn quốc tế càng lớn, khủng hoảng tài chính - tiền tệ càng trở thành nguy cơ
thường trực đối với các nền kinh tế của các nước đang phát triển, Việt Nam
cũng không phải là ngoại lệ.
Rủi ro gia tăng song năng lực điều hành vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước
và khả năng chống đỡ rủi ro của các NHTM còn thấp. Năng lực điều hành

tiền tệ của NHNN, đặc biệt là kiểm soát tỷ giá và lãi suất trong điều kiện tự
do hóa còn hạn chế. Hội nhập tài chính quốc tế làm giảm tính độc lập của
chính sách tiền tệ nếu như tỷ giá không được tự do hóa trong điều kiện tài
khoản vốn được nới lỏng. Chưa kể đến, năng lực giám sát hoạt động ngân
hàng của NHNN vẫn còn yếu, nhất là khả năng giám sát rủi ro - phát hiện
sớm và ngăn chặn kịp thời rủi ro và đối với một số nghiệp vụ, sản phẩm ngân
hàng mới được tung vào thị trường. Vì vậy nguy cơ đối mặt với rủi ro của các
NHTM sẽ ngày càng cao.
Tham gia vào WTO, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh
về quy mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối. Hiện tại, ưu thế thị phần,
khách hàng và kênh phân phối thuộc về các ngân hàng trong nước do các
ngân hàng nước ngoài vẫn còn chịu sự hạn chế về phạm vi và quy mô hoạt
động. Tuy nhiên, những hạn chế này và sự phân biệt đối xử sẽ được loại bỏ
căn bản từ sau năm 2010, vì vậy, quy mô hoạt động và khả năng tiếp cận thị
trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước
ngoài cung cấp tăng lên. Điều này buộc các ngân hàng của Việt Nam phải
nhường một phần khách hàng và thị trường cho các ngân hàng nước ngoài.
Khi nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị trường, ngân hàng nước ngoài với
công nghệ, trình độ quản lý và hệ thống sản phẩm đa dạng, chất lượng cao
hơn, có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng từ bản địa sang làm ăn ở
Việt Nam và các cá nhân, tổ chức kinh tế Việt Nam. Như vậy các NHTM Việt
Nam sẽ phải đối mặt với những nguy cơ không huy động được đủ vốn đáp
12
ứng nhu cầu kinh doanh.
Bên cạnh đó, trước áp lực cạnh tranh mạnh khi mở cửa thị trường tài
chính, các ngân hàng trong nước có thể vội vàng hiện đại hóa công nghệ quá
nhanh, vượt quá năng lực vận hành và kiểm soát của mình. Một số ngân hàng
khác do nguồn lực tài chính hạn chế, đã hiện đại hóa công nghệ một cách
thiếu đồng bộ và không có tính hệ thống mở. Vì vậy, công nghệ ngân hàng
mới có khi lại tạo ra những rủi ro, gây lãng phí tài chính. Mặt khác, tốc độ

phát triển của công nghệ và sản phẩm mới trong lĩnh vực tài chính rất nhanh,
đã làm rút ngắn vòng đời của công nghệ và sản phẩm tài chính. Một công
nghệ mới đầu tư, có thể chỉ sau một thời gian ngắn đã trở nên lạc hậu. Điều
này trở thành một thách thức lớn đối với các ngân hàng trong nước, trong điều
kiện nhu cầu thị trường về các dịch vụ ngân hàng mới còn hết sức hạn chế.
Do đó cần phải đưa ra được hướng đi đúng đắn cho các NHTM Việt Nam khi
tham gia cạnh tranh trên thị trường vốn.
1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro là vấn đề không được mong đợi trong tất cả các lĩnh vực trong đời
sống xã hội. Rủi ro có thể được hiểu một cách khái quát đó là khả năng xảy ra
các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm cho các kết quả thực tế khác
kết quả kỳ vọng theo kế hoạch. Rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ và đe dọa sự
sống còn của doanh nghiệp, tuy nhiên muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận
nó, không được né tránh nó. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, để đứng vững
trong cạnh tranh các doanh nghiệp phải đương đầu với rủi ro có thể xảy ra
bằng cách tiên liệu phán đoán các rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng
ngừa, hạn chế nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra.
Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro phổ biến nhất trong hoạt
13
động của ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính, thường xuyên xảy
ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Hoạt động
tín dụng tạo ra phần lớn nguồn thu cho ngân hàng song cũng mang lại những
thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Rủi ro tín dụng là rủi ro
phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất. Nó đòi hỏi ngân hàng
phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt
rủi ro, giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra. Tóm lại:
Rủi ro tín dụng là những sự cố liên quan đến huy động vốn và sử dụng
vốn, làm tổn thất tiền, tài sản và uy tín của NHTM trong phạm vi nhất định.
Phạm trù tín dụng được hiểu ở đây bao gồm cả hoạt động huy động vốn

và hoạt động cho vay, vì vậy chúng ta cũng sẽ xem xét rủi ro trong huy động
vốn và rủi ro trong cho vay.
1.2.1.1. Rủi ro huy động vốn
Rủi ro huy động vốn là những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động
huy động vốn của ngân hàng thương mại. Ở khâu này xảy ra một trong hai
trường hợp thừa hoặc thiếu vốn.
Nếu NHTM thiếu vốn thì sẽ ảnh hưởng tới quy mô kinh doanh, đồng
thời có thể ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán, gây mất niềm tin cho
khách hàng, từ đó làm giảm uy tín của ngân hàng, hậu quả có thể làm ngân
hàng mất khả năng cạnh tranh với những đối thủ khác, làm sụt giảm lợi
nhuận của ngân hàng.
Nếu NHTM thừa vốn tức là sẽ có một phần vốn huy động được nhàn rỗi
và không tạo ra được lợi nhuận mà ngược lại sẽ phải mất chi phí trả lãi, do đó
sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
1.2.1.2. Rủi ro cho vay
Rủi ro trong cho vay cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau:
- Rủi ro cho vay được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả
14
được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.
- Rủi ro cho vay phát sinh trong trường hợp Ngân hàng không thu được
đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không
đúng kỳ hạn.
- Rủi ro cho vay được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể
chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong hợp
đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro
trong cho vay tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả
được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, và gây
ảnh hưởng đối với khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Nếu coi tín dụng là việc “ tin tưởng” mà đưa cho khách hàng sử dụng giá
trị hiện tại với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong một thời gian

nhất định thì rủi ro tín dụng chính là khả năng mong muốn đó không được
đáp ứng hay nói một cách khác đó là khả năng xảy ra sự khác biệt không
mong muốn giữa kết quả thực tế và kết quả kì vọng theo kế hoạch – đúng hạn
nhận được đầy đủ gốc và lãi.
Với mục tiêu là đúng hạn theo hợp đồng tín dụng nhận được đầy đủ gốc
và lãi như đã nêu ở trên, thì rủi ro tín dụng có thể được hiểu là những tổ thất
tiềm năng có thể xảy ra do các bên đối tác trong hợp đồng tín dụng không có
khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ của họ một cách đầy
đủ hoặc đúng hạn theo cam kết.
Như vậy:
Rủi ro cho vay là tình trạng khách hàng không thực hiện nghĩa vụ tài
chính đã cam kết với ngân hàng.
Như trên đã phân tích, rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng
nhất của ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Các khoản cho vay
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng thương
15
mại, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, song cũng tiềm ẩn rủi ro lớn,
có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Trước khi cho vay, ngân hàng cố gắng
phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn
chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ
không xảy ra. Tuy nhiên không phải bao giờ ngân hàng cũng dự tính chính
xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị
thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng
không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy trên quan
điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là
khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong
kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ.
1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Nguyên nhân khách quan
Các cán bộ tín dụng ngân hàng phải được đặt vào một tình trạng phân

tích người vay tương lai theo các điều kiện hiện tại và quá khứ: phân tích các
kỹ năng quản lý, tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính, quá khứ
của việc hoàn trả nợ, uy tín, mức độ cạnh tranh trên thị trường và thị phần…
những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Tuy nhiên tình huống ở tương
lai là một điều chưa được biết, tương lai có thể mang đến các khó khăn bất
ngờ, điều này sẽ dẫn đến những khă năng có thể xảy ra rủi ro tín dụng trong
tương lai.
Sự tác động của môi trường bên ngoài thường khó dự đoán, vượt quá tầm
kiểm soát gây ra những thiệt hại lớn cho người vay và ngân hàng, bao gồm
các loại sau:
* Sự thay đổi chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tình hình tài
chính và khả năng trả nợ của khách hàng.
Hoạt động của ngân hàng và khách hàng đều chịu tác động của môi
16
trường kinh tế - xã hội. Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp cho hoạt
động của khách hàng ít bị biến động, do vậy mà việc dự báo về tình hình tài
chính, kinh doanh của khách hàng cũng thuận lợi hơn. Ngược lại, chính sách
kinh tế vĩ mô không ổn định thì ngân hàng rất khó có thể phân tích, dự báo
chính xác hoạt động kinh doanh, tài chính của khách hàng trong tương lai cũng
như khó có thể lường trước được những rủi ro khách hàng phải đối mặt, do vậy
mà ngân hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng trong
tương lai, khi đó chất lượng tín dụng của ngân hàng không đạt yêu cầu.
Chính sách của chính phủ ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp,
qua đó tác động đến hoạt động của ngân hàng trên các phương diện sau:
- Chính sách thuế: chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của
doanh nghiệp. Khi chính phủ có những thay đổi về chính sách thuế, hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị tác động và có thể ảnh hưởng đến nguồn
thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến nguồn trả nợ ngân hàng.
- Chính sách xuất – nhập khẩu vật tư thiết bị: Khi có bất kì sự thay đổi
nào về chính sách xuất nhập khẩu vật tư thiết bị sẽ ảnh hưởng tức thời và trực

tiếp đến chi phí và doanh thu của doanh nghiệp, gây khó khăn cho doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và làm giảm doanh thu, từ đó gây
khó khăn cho việc trả nợ ngân hàng và vì vậy rủi ro tín dụng của ngân hàng
tăng lên.
- Chính sách chung về các yếu tố đầu vào: chính sách này cũng gây tác
động trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp, có thể đẩy doanh nghiệp vào khó
khăn và dẫn đến mất khả năng trả nợ ngân hàng.
* Môi trường tự nhiên
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động
sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự
nhiên là yếu tố khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn ngoài
17
tầm kiểm soát của con người. Vì vậy khi có thiên tai, địch họa xảy ra khách
hàng cùng ngân hàng sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án kinh doanh không
có nguồn thu… điều đó đồng nghĩa với ngân hàng phải cùng chia sẻ rủo ro
với khách hàng của mình. Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, đặc biệt là
những thảm họa tự nhiên là khó dự đoán, khó phòng ngừa và khi rủi ro xảy ra
thì ngân hàng và khách hàng phải gánh chịu tổn thất.
* Môi trường kinh tế xã hội
Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng của
những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh
vực của nền kinh tế trong đó ngân hàng là ngành chứa đựng nguy cơ rủi ro
lớn nhất. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến sức mạnh tài chính của
người vay và thiệt hại hay thành công của người vay. Trong giai đoạn kinh tế
phát triển, người vay hoạt động hiệu quả nhưng trong giai đoạn khủng hoảng
khả năng trả nợ của người vay sẽ bị giảm sút. Thông thường, các khoản cho
vay khó được thu hồi trong trường hợp khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào thói
quen, truyền thống, tập quán của người dân. Những yếu tố đó nhiều khi gây

khó khăn và hạn chế việc mở rộng kinh doanh của ngân hàng.
Những tác động của môi trường bên ngoài đến người vay làm cho họ bị
tổn thất tài chính dẫn đến việc không thực hiện được đầy đủ hoặc đúng hạn
cam kết trả nợ gốc và lãi đối với ngân hàng thậm chí là mất khả năng thanh
toán đi đến phá sản hoặc giải thể.
1.2.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,
yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì… là các
18
nguyên nhân rủi ro tín dụng.
* Khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ ngân hàng
- Khách hàng yếu kém trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính: trường
hợp người vay có trình độ yếu kém về quản lý, không tính toán kỹ lưỡng hoặc
không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có
khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh sẽ dẫn tới vốn
vay không được sử dụng hiệu quả. Ngoài ra, việc yếu kém trong quản lý tài
chính có thể dẫn tới trường hợp dù dự án hay trong quá trình sản xuất kinh
doanh có hiệu quả song nguồn trả nợ ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Như
vậy doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn
cho ngân hàng.
- Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh: khi người
vay gặp những rủi ro từ thị trường (ví dụ nhu cầu về loại sản phẩm của doanh
nghiệp bị bạn hàng chiếm dụng vốn và không hoàn trả đúng thời hạn quy
định) hoặc từ những rủi ro không dự kiến được tác động đến nguồn thu của
doanh nghiệp và khả năng trả nợ ngân hàng.
* Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng
Trường hợp này người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho
ngân hàng đúng hạn hoặc không muốn trả nợ ngân hàng. Họ chây ì với hi
vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi

cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức phát sinh do các hàng động có tác động
đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được và vì thế những người
thực hiện các hành động này có thể chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của
mình trên cơ sở gây tổn hại cho người khác. Rủi ro đạo đức trong lĩnh vực tài
chính xảy ra sau khi cấp tín dụng, những người được cấp tín dụng luôn có xu
hướng muốn thực hiện các dự án đầu tư rủi ro hơn những người cho vay
19
mong đợi, vì đầu tư sẽ có được những khoản lợi nhuận rất lớn nếu dự án
thành công, trong khi những người cấp tín dụng chỉ nhận được một khoản lợi
ích cố định. Ngược lại, nếu dự án thất bại thì bên cho vay sẽ bị mất một phần
hoặc toàn bộ vốn do không được hoàn trả đầy đủ.
1.2.2.3. Nguyên nhân từ bản thân ngân hàng
* Quan điểm của lãnh đạo điều hành
Ban lãnh đạo ngân hàng thường đề ra mức rủi ro tối đa có thể chấp nhận
được trong mỗi thời kỳ (khẩu vị rủi ro). Do rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ
vọng càng lớn, nên có một số ngân hàng chấp nhận cho vay những dự án mạo
hiểm để thu về lợi nhuận cao. Nếu ngân hàng thương mại có quan điểm đặt
mục tiêu lợi nhuận lên trên nhất thì cơ chế quản lý sẽ khuyến khích và tạo
điều kiện để bộ phận có liên quan tìm kiếm, quyết định những khoản cho vay,
đầu tư có thu nhập kỳ vọng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời các quy
định về kiểm tra, kiểm soát, đặc biệt là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá khi
quyết địng cho vay cũng sẽ thấp hơn trong khi tiêu chí về khả năng sinh lời
rất được coi trọng. Trường hợp ngược lại nếu quan điểm cho vay lấy an toàn
làm chính thì các quy định về cơ chế quản lý tài sản trong việc thẩm định,
xem xét trước khi ra quyết định cho vay, đầu tư sẽ chặt chẽ hơn, cụ thể hơn,
các tiêu chuẩn để phục vụ cho việc ra quyết định, việc kiểm tra, giám sát cũng
được đặt ở mức cao hơn. Các ngân hàng thương mại phải biết lựa sức mình để
xác định lợi nhuận hợp lý.
* Sự yếu kém về công nghệ của ngân hàng
Ngày nay trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh

donah ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý rủi ro tín dụng. Trình độ công
nghệ càng cao sẽ càng trợ giúp cho ngân hàng sàng lọc những khách hàng,
ngàng nghề đang có mức độ rủi ro cao cũng như các cơ sở dữ liệu thông tin
về từng khách hàng. Ở các nước phát triển, công nghệ ngân hàng cũng rất
20
phát triển, đặc biệt là trong điều kiện có sự hỗ trợ hết sức hiệu quả của công
nghệ thông tin như ngày nay. Công nghệ ngân hàng thể hiện ở mức độ tập
trung thông tin, ở khả năng phân tích, xử lý thông tin, từ đó rút các kết luận,
nhận định phục vụ cho quản trị ngân hàng như các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng, tình hình phân bổ tài sản, mức độ tập trung rủi ro… Công nghệ
của ngân hàng còn thể hiện khả năng chi phối, kiểm soát đối với hoạt động
của các bộ phận tác nghiệp. Ở mỗi trình độ công nghệ khác nhau đều phải đòi
hỏi một cơ chế quản lý khác nhau.
* Trình độ của cán bộ ngân hàng
Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc
được các khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng phải tiếp xúc với nhiều
khách hàng ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, để đánh giá tốt khách
hàng họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi
trường mà khách hàng sống. Cán bộ tín dụng phải có khả năng dự báo các
vấn đề liên quan đến khách hàng vay. Như vậy, cán bộ tín dụng phải được
đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng và toàn diện. Khi cán bộ tín dụng cho vay đối
với khách hàng mà họ chưa hiểu biết kỹ lưỡng thì rủi ro tín dụng luôn rình
rập họ. Nguyên nhân rủi ro từ sự yếu kém của đội ngũ nhân viên ngân hàng
có thể từ việc:
- Không phân tích đầy đủ khả năng quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo rất quan trọng, sự
thành bại trong hoạt động phụ thuộc rất nhiều vào định hướng và ra quyết
định của người lãnh đạo doanh nghiệp đó. Nếu cho vay mà không đánh giá
đúng khả năng của người quản lý sẽ dễ dẫn đến tổn thất.
- Phân tích báo cáo tài chính không chính xác, không biết đánh giá món

vay có hiệu quả thật hay sẽ có nhiều rủi ro. Với doanh nghiệp nào đó đang
trong tình trạng suy thoái mà nhân viên ngân hàng yếu kém trong việc đánh
21
giá phân tích cho vay thì món vay đó sẽ khó thu hồi được.
- Kiến thức về mặt kinh tế xã hội luật pháp của nhân viên ngân hàng hạn
chế, không nắm vững được quy chế, thể lệ tín dụng cũng dẫn đến rủi ro. Khi
người đi vay không lường hết rủi ro mà nhân viên ngân hàng cũng không hiểu
biết để tư vấn cho khách hàng thì khi doanh nghiệp bị thua lỗ sẽ không thể trả
nợ ngân hàng.
- Việc định kỳ hạn trả nợ không chính xác, sau khi cho vay ngân hàng
thiếu sự giám sát theo dõi để người vay sử dụng vốn sai mục đích, không có
biện pháp sử lý kịp thời cũng dẫn đến rủi ro tín dụng.
* Đạo đức của cán bộ tín dụng
Với các khoản vay càng nhiều rủi ro và không đảm bảo những điều kiện
tín dụng đặt ra, khách hàng vay thường bỏ ra những khoản “hoa hồng” rất lớn
để có thể vay được tiền. Điều này dẫn tới tình trạng một số cán bộ tín dụng cố
ý làm sai quy trình tín dụng hay bỏ sót một số vài bước trong quy trình nhằm
nhận được những khoản “hoa hồng” từ khách hàng. Bởi vậy, chất lượng cán
bộ tín dụng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo cũng sẽ
dẫn đến rủi ro tín dụng.
* Yếu kém trong việc phối hợp tác nghiệp
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ tất cả các khâu của quá trình cấp tín
dụng của ngân hàng thương mại bao gồm: trong giai đoạn trước khi cho
vay, trong giai đoạn giải ngân và trong giai đoạn quản lý khoản vay của
khách hàng.
Ở giai đoạn trước khi cho vay việc không chấp hành nghiêm túc chế độ
tín dụng, điều kiện cho vay; xem xét, đánh giá khách hàng, khoản vay không
kỹ, không tốt sẽ dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
Ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay: Giải ngân không
tuân thủ theo điều kiện; yếu kém trong kiểm soát, theo dõi (không kiểm soát

22

×