Phân tích tài chính các hoạt động kinh doanh du lịch trong cơ chế thị trường
Phân tích tài chính là một công cụ phục vụ đắc lực cho
công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, là cơ sở khoa
học để ra quyết định quản lý tài chính. Ở các nước tư
bản phát triển phân tích tài chính rất được quan tâm; các
ngành đều xây dựng số trung bình ngành. Do vậy, công
tác phân tích tài chính rất thuận lợi, có thể đánh giá thực
trạng tài chính doanh nghiệp chính xác và toàn diện.
Ở nước ta phân tích tài chính chưa được quan tâm đúng mức; các ngành chưa xây dựng được số liệu
trung bình chung của ngành. Chính vì vậy, việc phân tích tài chính gặp khá nhiều khó khăn. Các doanh
nghiệp nói chung, cũng như các doanh nghiệp du lịch nói riêng chưa thực hiện một cách có cơ sở khoa
học công tác phân tích tài chính. Do đó, thông tin tài chính cung cấp cho các nhà quản lý doanh nghiệp
cũng như các đối tượng bên ngoài còn nhiều hạn chế.
Hoạt động kinh doanh du lịch và sản phẩm du lịch có nhiều đặc điểm khác biệt so với hoạt động kinh
doanh của các ngành sản xuất vật chất, từ đó dẫn đến đặc điểm hoạt động tài chính của các doanh
nghiệp du lịch cũng khác biệt so với các ngành sản xuất vật chất khác. Theo chúng tôi, nội dung phân
tích tài chính các doanh nghiệp kinh doanh du lịch bao gồm:
Thứ nhất, Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp:
Cấu trúc tài chính phản ánh cơ cấu về tài sản (TS), cơ cấu nguồn vốn (NV) và mối quan hệ cân bằng cấu
trúc TS và cấu trúc NV của doanh nghiệp. Phân tích cấu trúc tài chính là phân tích khái quát tình hình đầu
tư và huy động vốn của doanh nghiệp, chỉ ra các phương thức tài trợ TS để làm rõ những dấu hiệu về
cân bằng tài chính. Nội dung phân tích cấu trúc tài chính bao gồm: phân tích cấu trúc TS và phân tích cấu
trúc NV.
Phân tích cấu trúc TS cho thấy mức độ biến động của từng loại TS trong tổng TS; Trên cơ sở đó, nhận ra
khoản mục nào có sự biến động lớn để tập trung phân tích và tìm nguyên nhân. Ngoài ra, còn phải tìm
hiểu xu hướng biến động các loại TS để đánh giá mức độ hợp lý của việc đầu tư. Hoạt động đầu tư của
các doanh nghiệp du lịch thường ưu tiên đầu tư cho TS cố định: xây dựng khách sạn, nhà hàng, các khu
vui chơi giải trí, mua sắm phương tiện vận chuyển ... Do đó, cấu trúc TS của các doanh nghiệp này có
đặc điểm là TS cố định chiếm tỷ trọng rất lớn từ 70-85% tổng giá trị TS của doanh nghiệp. Phân tích cấu
trúc TS cần quan tâm đến đặc điểm này. Tính hợp lý là TS cố định phải chiếm tỷ trọng lớn và có xu
hướng tăng lên.
Phân tích cấu trúc NV: cấu trúc NV thể hiện chính sách tài trợ của doanh nghiệp, liên quan đến nhiều
khía cạnh khác nhau trong công tác quản trị tài chính. Việc huy động vốn một mặt vừa đáp ứng nhu cầu
vốn cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự an toàn trong tài chính, nhưng mặt khác liên quan đến hiệu
quả và rộng hơn là rủi ro của doanh nghiệp. Nội dung phân tích cấu trúc NV bao gồm phân tích tính tự
chủ về tài chính và phân tích tính ổn định của nguồn tài trợ. Phân tích tính tự chủ về tài chính thông qua
các chỉ tiêu: Tỷ suất nợ và tỷ suất tự tài trợ. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ
này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo chi trả trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Tuy
nhiên, khi tỷ lệ nợ cao, doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và sẽ khó khăn cho
doanh nghiệp trong việc tiếp nhận thêm các khoản tín dụng bên ngoài. Tuy nhiên, mỗi NV đều có liên
quan đến thời hạn và chi phí sử dụng vốn. Sự ổn định về nguồn tài trợ cần được quan tâm khi đánh giá
cấu trúc NV của doanh nghiệp. Để đánh giá tính ổn định của nguồn tài trợ cần sử dụng các chỉ tiêu: tỷ
suất nguồn vốn thường xuyên (NVTX) và tỷ suất nguồn vốn tạm thời. Tỷ suất NVTX là tỷ số giữa NVTX
với tổng NV, tỷ suất NVTT là tỷ số giữa NVTT với tổng NV. Tỷ suất NVTX càng lớn cho thấy sự ổn định
tương đối trong một thời gian nhất định đối với NV sử dụng; doanh nghiệp chưa chịu áp lực thanh toán
trong ngắn hạn. Ngược lại, khi tỷ suất NVTX thấp cho thấy nguồn tài trợ phần lớn là bằng nợ ngắn hạn,
áp lực về thanh toán các khoản nợ vay rất lớn.
Thứ hai, phân tích cân bằng tài chính: Cân bằng tài chính là sự cân bằng giữa tài sản với nguồn tài
trợ tương ứng của nó. Mối quan hệ trong trường hợp này thể hiện qua các phương thức, chính sách tài
trợ TSCĐ và TSLĐ. Chỉ tiêu phân tích: vốn lưu động ròng (VLĐR), nhu cầu VLĐR và ngân quỹ ròng
(NQR). VLĐR được xác định là phần chênh lệch giữa TSLĐ và ĐTNH với nợ ngắn hạn; hoặc VLĐR
được tính là phần chênh lệch giữa NVTX với TSCĐ và ĐTDH. Còn nhu cầu VLĐR bằng (=) hàng tồn kho
cộng (+) nợ phải thu của khách hàng trừ (-) nợ phải trả ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn). NQR là phần
chênh lệch giữa VLĐR và nhu cầu VLĐR. Nếu VLĐR âm liên tục qua các năm thì doanh nghiệp sẽ mất
cân bằng tài chính, tình hình và khả năng thanh toán sẽ gặp khó khăn; Tuy nhiên, để có đánh giá đầy đủ
hơn cần thông qua chỉ tiêu NQR. Nếu NQR âm, có nghĩa là doanh nghiệp phải huy động các khoản vay
ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR và tài trợ cho TSCĐ; cân bằng tài chính kém an toàn
và bất lợi cho doanh nghiệp. Nếu NQR dương thể hiện một cân bằng tài chính rất an toàn vì doanh
nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR.
Sản phẩm dịch vụ du lịch không có tồn kho, không có sản phẩm dự trữ cho tiêu thụ, không có sản phẩm
dở dang; quá trình sản xuất cũng đồng thời là quá trình tiêu thụ. Mặt khác, hoạt động cung cấp dịch vụ du
lịch phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của khách hàng, không qua trung gian mua bán, doanh thu cung cấp
dịch vụ phần lớn được khách hàng thanh toán bằng tiền, nên nợ phải thu của khách hàng các doanh
nghiệp du lịch chiếm tỷ trọng thấp trong tổng tài sản lưu động. Doanh thu bằng tiền thu được sẽ được
tiếp tục chi ra cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo và được luân chuyển liên tục. Do đó, ở các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch thông thường tài sản lưu động chiếm tỷ trọng thấp dẫn đến các chỉ tiêu về VLĐR, nhu
cầu VLĐR, cũng như NQR thông thường là thấp hơn các ngành sản xuất vật chất khác. Tại nhiều thời
điểm khác nhau VLĐR, cũng như NQR có thể âm nhưng doanh nghiệp không phải quá khó khăn trong
vấn đề thanh toán như các doanh nghiệp sản xuất vật chất khác.
Do vậy, khi phân tích cấu trúc tài chính, phân tích cân bằng tài chính thông qua chỉ tiêu VLĐR và NQR
cần lưu ý đặc điểm này để có đánh giá đúng thực trạng.
Thứ ba, phân tích hiệu quả hoạt động: Hiệu quả hoạt động được xem xét một cách tổng thể bao gồm
hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính. Hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính có mối quan
hệ qua lại do đó khi phân tích hiệu quả hoạt động cần phải xem xét hiệu quả của hai hoạt động này bởi lẽ
một doanh nghiệp có thể có hiệu quả hoạt động kinh doanh nhưng lại không có hiệu quả hoạt động tài
chính hoặc hiệu quả hoạt động tài chính thấp đó là do các chính sách tài trợ không phù hợp với tình hình
chung của doanh nghiệp.
- Phân tích hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất.
Phân tích hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp là một vấn đề hết sức phức tạp. Tuy nhiên, ở góc
độ phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính thì việc phân tích chỉ
giới hạn ở việc phân tích hiệu quả cuối cùng thông qua các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận mà doanh
nghiệp đạt được. Do vậy, nội dung phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm
các chỉ tiêu: tỷ suất lợi nhuận thuần trên doanh thu thuần; tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay; tỷ suất sinh
lời của TS (ROA); tỷ suất sinh lời kinh tế của TS (RE).
- Phân tích hiệu quả tài chính: Hiệu quả tài chính thường được các nhà đầu tư quan tâm, một doanh
nghiệp có hiệu quả tài chính cao thì sẽ có điều kiện tăng trưởng. Nghiên cứu hiệu quả tài chính nhằm
đánh giá sự tăng trưởng TS của doanh nghiệp so với tổng TS mà doanh nghiệp có, đó là khả năng sinh
lời của nguồn vốn chủ sở hữu (NVCSH). Khả năng sinh lời NVCSH (ROE) thể hiện qua mối quan hệ giữa
lợi nhuận cuối cùng của doanh nghiệp với NVCSH. Chỉ tiêu này được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm
khi họ quyết đinh bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. ROE cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng NVCSH có
hiệu quả. Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp thì doanh nghiệp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư.
Với T là tỷ suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hay ROE = ROA x (1-T) x (1+ Đòn bẩy tài chính). Trong đó, đòn bẩy tài chính = Nợ phải trả/NVCSH.
ROE chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: hiệu quả kinh doanh, khả năng tự chủ về tài chính và độ lớn
đòn bẩy tài chính.
Hoạt động kinh doanh du lịch ở nước ta chịu ảnh hưởng bởi tính mùa vụ, tính mùa vụ được thể hiện rất
rõ rệt; thời tiết trong năm được chia thành hai mùa là mùa khô và mùa mưa; hoạt động kinh doanh du lịch
phần lớn diễn ra trong mùa khô, kết quả hoạt động kinh doanh du lịch phần lớn mang lại cho doanh
nghiệp vào mùa khô, kết quả hoạt động của mùa mưa rất thấp. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh
doanh, hiệu quả tài chính giữa các kỳ có ảnh hưởng bởi tính mùa vụ. Do đó, khi phân tích các chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp du lịch giữa các kỳ thì cần phải quan tâm đến tính thời vụ để có
đánh giá hợp lý hơn.
Thứ tư, phân tích rủi ro kinh doanh: Trong hoạt động kinh doanh vấn đề rủi ro đều có khả năng xảy
đối với hoạt động của doanh nghiệp, thông thường doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có lợi nhuận
càng cao thì rủi ro càng lớn. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn, sự biến
thiên của kết quả và hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, có thể phân tích rủi ro kinh doanh thông qua độ biến
thiên của của các chỉ tiêu kết quả hay hiệu quả kinh doanh, thông qua đòn bẩy kinh doanh, đòn cân định
phí.
Sản phẩm du lịch mang tính tổng hợp gồm nhiều thành phần tạo thành từ việc lập tour du lịch đến vận
chuyển, lưu trú, phục vụ ăn, uống, vui chơi đến giải trí trong một quy trình khép kín. Sản phẩm du lịch
được cung cấp cho du khách ở nhiều khâu, diễn ra ở những khoảng thời gian và không gian khác nhau.
Thời gian và không gian cung cấp dịch vụ cho từng đối tượng là khác nhau, doanh thu, chi phí, giá thành
của từng tour du lịch cũng khác nhau. Do đó, việc phân tích rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp du lịch
phù hợp nhất là phân tích rủi ro kinh doanh thông qua mức độ biến thiên của các chỉ tiêu phản ánh kết
quả hay hiệu quả kinh doanh; phân tích rủi ro kinh doanh thông qua mức độ phân bổ giữa biến phí và
định phí.
- Phân tích rủi ro kinh doanh qua mức độ biến thiên của các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh
doanh như: doanh thu, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế; của hiệu quả kinh doanh: (các chỉ tiêu
phản ánh tỷ suất sinh lời trên doanh thu, tỷ suất sinh lời trên tài sản, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu).
Theo quan điểm phân tích thống kê, người ta thường sử dung phương sai để đánh giá tính bấp bênh của
một đại lượng, độ biến thiên của một chỉ tiêu. Để xem xét độ biến thiên của một chỉ tiêu người ta dùng
phương sai để thể hiện và phương sai sẽ được tính bằng bình phương các độ lệch của chỉ tiêu nghiên
cứu với giá trị trung bình của nó. Mặt khác, để chỉ tiêu có giá trị tương ứng và phù hợp trong nghiên cứu
và đơn vị tính toán, người ta còn dùng chỉ tiêu độ lệch tiêu chuẩn và được tính bằng căn bậc hai của
phương sai.
Nguyên tắc đánh giá rủi ro kinh doanh qua độ biến thiên: Ở mức độ hoạt động và quy mô tương tự
nhau, phương án (doanh nghiệp) nào có phương sai hoặc độ lệch tiêu chuẩn của một chỉ tiêu tài chính
nhỏ hơn phương sai, độ lệch tiêu chuẩn của chỉ tiêu tương ứng của phương án (doanh nghiệp) kia thì rủi
ro của phương án (doanh nghiệp) này nhỏ hơn.
Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hơn mức độ rủi ro khi kết quả hoặc sự kiện có giá trị trung bình giữa
các phương án kinh doanh khác nhau, người ta sử dung hệ số biến thiên và được tính bằng tỷ số giữa
độ lệch chuẩn với giá trị trung bình của chỉ tiêu tài chính. Phương án nào có hệ số biến thiên càng nhỏ thì
phương án đó ít rủi ro hơn.
- Ngoài ra, có thể phân tích rủi ro kinh doanh thông qua mức độ phân bổ giữa biến phí và định
phí. Rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn của hiệu quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào sự phân bổ
giữa biến phí và định phí. Trong các doanh nghiệp, định phí có ảnh hưởng đến đòn bẩy kinh doanh. Tại
một mức hoạt động, tỷ lệ định phí trong tổng chi phí càng lớn thì đòn bẩy kinh doanh càng cao và rủi ro
của doanh nghiệp càng lớn. Nhân tố về phân bổ định phí cũng còn được gọi là đòn cân định phí.
Trong kết cấu chi phí kinh doanh du lịch thì định phí chiếm tỷ trọng khá lớn, hay nói khác hơn là đòn cân
định phí rất lớn. Các doanh nghiệp du lịch thường rủi ro kinh doanh cao hơn các doanh nghiệp thương
mại. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh du lịch chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, nếu hoạt động
kinh doanh gặp khó khăn thì sẽ không thu hồi được lượng vốn rất lớn đã được đầu tư, rủi ro kinh doanh
sẽ rất lớn và cũng rất khó khăn khi chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác như các doanh nghiệp thương
mại.
Tóm lại, từ đặc điểm của sản phẩm du lịch, đặc điểm hoạt động tài chính của doanh nghiệp du lịch, dẫn
đến các doanh nghiệp du lịch có đặc điểm phân tích tài chính riêng, khác biệt với các ngành sản xuất vật
chất khác. Nghiên cứu đặc điểm phân tích tài chính của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch là căn cứ
khoa học phục vụ cho công tác phân tích và đánh giá tình hình tài chính của các doanh nghiệp này.
Th.s Phạm Rin
Đại học Dân lập Duy Tân
admin