Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm để xây dựng Lớp học thân thiện – Học sinh tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.39 KB, 23 trang )

Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm để xây dựng
“Lớp học thân thiện – Học sinh tích cực”.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện – Học sinh tích cực” giai đoạn 2008 -
2013 trong tất cả các trường học trên toàn quốc. Vì trường học là cái nôi đầu
tiên cho mỗi học sinh bắt đầu cuộc sống học tập và lao động. Trong nhà
trường các em được tiếp thu những tri thức khoa học một cách có hệ thống,
được rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cần thiết để hình thành và phát triển những
phẩm chất tốt đẹp, ban đầu của con người trong thời đại mới. Chính vì vậy
trường học là ngôi nhà thứ hai của các em. Môi trường giáo dục trong nhà
trường và lớp học có vai trò rất quan trọng, nó có tác động lớn đến sự hình
thành và phát triển nhân cách của mỗi con người thông qua các mối quan hệ
xã hội. Trong khi đó HS ở vùng sâu chủ yếu là dân tộc thiểu số, còn nhiều
hạn chế trong giao tiếp, hầu hết các em còn rụt rè, thụ động, thiếu tự tin vào
bản thân, chưa dám nói lên ý kiến, chưa mạnh dạn thể hiện khả năng của
mình. Vậy GV chủ nhiệm lớp phải làm gì? Thay đổi phương pháp chủ nhiệm
ra sao để nâng cao chất lượng các hoạt động cũng như chất lượng học tập cho
HS trong lớp? Lựa chọn cách thức giáo dục nào cho phù hợp để chuẩn bị thật
tốt cho các em trở thành những công dân tương lai có đạo đức, trí tuệ và thể
lực? Đó là vấn đề làm tôi băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ rất nhiều và tôi hiểu ra
rằng một trong những con đường giúp cho HS của mình tốt nhất là phải xây
dựng cho các em một môi trường thân thiện trong lớp học. Đó là tập hợp các
hoàn cảnh, điều kiện khác nhau để tập thể HS xây dựng các mối quan hệ với
nhau và quan hệ với cộng đồng một cách cởi mở, tích cực, cần thiết cho việc
hình thành, phát triển nhân cách theo các mục tiêu giáo dục của trường Tiểu
học. Đến nay, sau ba năm nỗ lực đổi mới công tác chủ nhiệm, sự băn khoăn,
lo lắng, trăn trở của tôi đã được đền đáp. Năm nào lớp tôi cũng được nhà
trường công nhận là “Lớp học thân thiện – Học sinh tích cực”. Vậy tôi xin
mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm của mình trong công tác chủ nhiệm
lớp để xây dựng “Lớp học thân thiện – học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất


lượng các hoạt động và học tập cho học sinh. Rất mong được các đồng nghiệp
đang là những GV chủ nhiệm lớp tham khảo và góp ý.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN:
1. Thực trạng:
Qua phong trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện – Học sinh tích
cực” của cả ngành Giáo dục cũng như quá trình làm chủ nhiệm lớp trong 3
năm công tác tại trường Tiểu học Châu Lộc (2009 – 2010; 2010 – 2011; 2011
- 2012), qua dự giờ thăm lớp của các lớp trong trường tôi nhận thấy thực
trạng học sinh như sau:
- Học sinh trong lớp, trong trường chủ yếu là dân tộc thiểu số nên kĩ năng
giao tiếp của các em còn nhiều hạn chế, rụt rè, chưa mạnh dạn.
- Mặc dù đến trường nhưng các em vẫn có thói quen trò chuyện, giao tiếp
với nhau bằng tiếng mẹ đẻ nên nói tiếng phổ thông còn chậm, câu nói ngắn,
diễn đạt chưa thành câu trọn vẹn.
- Nhiều trò chơi dân gian các em chưa biết cách chơi.
- HS còn thụ động nên chưa tích cực chủ động tham gia các hoạt động vui
chơi, văn nghệ, thể dục … ngại thể hiện trước đông người.
- Nhiều HS muốn thể hiện mình nhưng còn e ngại, không tự tin vào bản
thân, chưa nhận được sự động viên, cổ vũ của thầy cô cũng như bạn bè trong
lớp.
- Các em chưa thật sự thân thiện trong học tập cũng như trong vui chơi.
Một số HS còn có biểu hiện lôi kéo bạn bè nên có lúc làm ảnh hưởng đến tình
đoàn kết trong lớp.
- Chất lượng học tập và chữ viết của học sinh chưa cao.
- Việc trang trí lớp học chưa đẹp, chưa đúng yêu cầu thẩm mĩ, chưa tạo
được sự ấm cúng, tình thương yêu, sự gắn bó thân thiết như trong gia đình
các em.
2. Nguyên nhân:

* Về phía giáo viên chủ nhiệm lớp:
- GV chủ nhiệm chưa tích cực để xây dựng các phong trào thi đua nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động cho HS trong lớp của mình.
- GV chưa thật sự chú ý đến cách trả lời, xưng hô của các em trong giao
tiếp nên chưa uốn nắn, chưa hướng dẫn cụ thể để rèn thành thói quen trong
học tập, nói năng hàng ngày cho các em.
2
- GV chưa xây dựng được môi trường thân thiện và quy tắc ứng xử trong
lớp, chưa có kế hoạch vận động phụ huynh tham gia vào việc trang trí lớp
học.
- GV chủ nhiệm chưa kiên trì, chưa thật sự tâm huyết với việc rèn chữ viết
cho HS trong lớp.
* Về học sinh:
- Do vốn ngôn ngữ của các em còn ít, ở trường cũng như ở nhà đều nói
bằng tiếng Thái nên diễn đạt khó khăn do đó các em ngại nói bằng tiếng phổ
thông.
- Các em đã được tập các trò chơi dân gian nhưng chưa phong phú nên sức
cuốn hút, hấp dẫn đối với học sinh chưa cao.
- Thời gian dành cho các hoạt động vui chơi của HS còn hạn chế vì ở nhà
các em phải phụ giúp việc nhà nhiều.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP MỚI: (Có 4 nhóm giải pháp).
Sau khi nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo của ngành, của trường về phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” và đối
tượng HS trong lớp tôi quyết định lập Ban chỉ đạo xây dựng “Lớp học thân
thiện - học sinh tích cực” của lớp 5A – Trường TH Châu Lộc. Dưới đây là
các biện pháp thực hiện:
1. Nhóm giải pháp: Nâng cao chất lượng các hoạt động cho học sinh.
Để nâng cao chất lượng các hoạt động cho học sinh trong lớp tôi đã tiến
hành làm các việc sau:
1. Khảo sát thực trạng của lớp mình chủ nhiệm.

Trong 3 năm học qua, ngay sau khi nhận lớp tôi đều tiến hành khảo sát,
đánh giá thực trạng của lớp. Kết quả khảo sát đã giúp tôi đề ra kế hoạch xây
dựng “Lớp học thân thiện, HS tích cực” trong mỗi năm học. Ngoài ra tôi còn
tổ chức phát phiếu khảo sát đến các GV bộ môn dạy lớp tôi cũng như HS trong
lớp để tìm hiểu thêm về mối quan hệ thầy – thầy, thầy – trò và trò – trò hiện
nay ở trong trường, trong lớp. Việc khảo sát GV và HS giúp cho tôi xây dựng
các quy tắc ứng xử thân thiện dành cho GV và HS trong lớp.
(Quy tắc ứng xử của học sinh được kèm theo ở phần phụ lục).
2. Tổ chức quán triệt chủ trương và phối hợp thực hiện.
Sau khi thành lập Ban chỉ đạo (gồm các thành phần: GV chủ nhiệm, GV
bộ môn, Trưởng, phó Chi hội phụ huynh của lớp; lớp trưởng, lớp phó học tập,
3
lớp phó văn thể cùng các tổ trưởng), tôi đã tiến hành tổ chức hội nghị ban
hành kế hoạch thi đua xây dựng “Lớp học thân thiện - Học sinh tích cực”, tôi
đã tổ chức họp để tuyên truyền và phối hợp thực hiện như sau:
a. Cuộc họp thứ nhất

: Họp với phụ huynh HS trong lớp: Để thực hiện nội
dung thứ nhất “Xây dựng lớp xanh – sạch – đẹp – an toàn”. Tại cuộc họp này
tôi đã tuyên truyền sâu rộng và vận động cha mẹ HS xây dựng “gia đình thân
thiện” gắn với cuộc xây dựng gia đình văn hóa và cam kết đảm bảo “ba đủ”
cho HS: Đủ ăn, đủ mặc, đủ sách vở. Cũng tại cuộc họp này Ban đại diện cha
mẹ HS đã đề nghị phụ huynh của lớp đóng góp công sức và tiền để quét lại
vôi ve phòng học; đánh bóng, quét sơn mài lại toàn bộ bàn ghế, làm thêm các
câu khẩu hiệu (Kính thầy – Yêu bạn; Nói lời hay, làm việc tốt; Bỏ chuyện
riêng, siêng phát biểu; Học, học nữa, học mãi), rèm che cửa sổ, trồng chậu
cây cảnh trong lớp, cây xanh là dây leo trên cửa sổ, lẵng hoa nhựa treo ở các
góc phòng học … và xây dựng quỹ “khuyến học” trong phụ huynh để thưởng
cho HS có thành tích trong các hoạt động của lớp.
b. Cuộc họp thứ hai


: Họp với GV bộ môn và ban cán sự lớp (có mời Hiệu
trưởng và Tổng phụ trách Đội tham dự góp ý): để quán triệt kế hoạch xây
dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Cuộc họp tập trung thảo luận
các giải pháp thực hiện 3 nội dung “Rèn kĩ năng sống cho học sinh”; “Tổ
chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh”; “HS tham gia tìm hiểu,
chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa
phương”. Trong cuộc họp tôi thông báo kết quả khảo sát GV, HS rồi tổ chức
cho GV bộ môn cùng ban cán sự lớp góp ý bản dự thảo các quy tắc ứng xử
dành cho GV và HS trước khi thực hiện. Việc khen thưởng cho tổ, nhóm và
cá nhân có thành tích trong phong trào xây dựng “Lớp học thân thiện - Học
sinh tích cực” cũng được đặt ra để tạo thêm động lực cho phong trào.
c. Cuộc họp thứ ba

: Họp với lớp trưởng, lớp phó, các tổ trưởng và tập thể
học sinh trong lớp nhằm xây dựng chuyên đề “thân thiện trong học tập và
trong các hoạt động của lớp”. Giúp các em biết cách xây dựng khối đoàn kết,
thân ái, đầm ấm, vui vẻ trong lớp bằng các việc làm cụ thể như: nói năng
trong giao tiếp nhẹ nhàng, dễ nghe; sẵn sàng giúp đỡ khi bạn gặp khó khăn
hoạn nạn; thương yêu, chia sẻ, động viên nhau trong học tập và vui chơi qua
khẩu hiệu: “Ba cùng” là: (Cùng học, cùng chơi, cùng đi về). Giúp đỡ nhau
trong học tập như sử dụng 15 phút đầu buổi thứ 3, 5, 6 để truy bài, chữa bài
tập về nhà và kiểm tra phong trào “Vở sạch – Chữ đẹp”, …
3. Các công việc cụ thể đã thực hiện:
1.3. Để thực hiện tốt nội dung thứ nhất “Xây dựng lớp xanh - sạch - đẹp -
an toàn” ngoài việc vận động phụ huynh trang trí lớp học như đã nêu ở trên,
4
tôi còn tổ chức cho HS tham gia trồng cây đầu xuân. Nắm chắc và làm tốt
công tác vận động HS đến trường, không nghỉ học khi trời mưa. Tổ chức
nhóm “Bạn đường” cho những HS cùng xóm để các em có thể giúp đỡ, nhắc

nhở nhau, đảm bảo an toàn trên đường đi học. Cho các em kí cam kết “Không
tham gia đánh nhau, không mang theo và sử dụng hung khí, vật dễ sát
thương” khi ở trường cũng như khi ở nhà. Nhắc nhở HS tuyệt đối không leo
trèo hoặc ngồi trên lan can các phòng học ở trường hoặc lan can nhà sàn
nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân.
Ngoài ra để giáo dục HS tình yêu thiên nhiên, sống gần gũi với thiên
nhiên, biết bảo vệ môi trường tự nhiên, tôi lên kế hoạch ươm, trồng, chăm
sóc, bón phân, thay các giống hoa theo mùa sao cho các bồn hoa của lớp đảm
nhận chăm sóc mùa nào cũng có hoa nở.
Ví dụ

: Mùa thu, mùa xuân thời tiết thuận lợi, mưa nhiều có thể trồng được
nhiều loại hoa như: hoa sam, hoa mười giờ, hoa cúc, hoa bướm, … Nhưng
mùa đông thời tiết khắc nghiệt những loại hoa này khó phát triển, trồng
không đẹp thì tôi ươm và trồng hoa sống đời Nhật Bản (hay còn gọi hoa đá)
là một loại hoa nở vào dịp tết hoặc sau tết Nguyên đán. Hoa rất lâu tàn có thể
kéo dài hàng tháng. Sang tháng ba, tháng tư khi có mưa và hoa đá tàn tôi lại
cho học sinh trồng hoa cúc, hoa bướm, …
(Có ảnh kèm theo ở phần phụ lục).
Nhằm giúp cho mọi hoạt động của lớp đi vào nề nếp và thực hiện tốt các
kế hoạch của nhà trường và ngành đề ra, tôi đã tổ chức các hoạt động tự quản
trong HS như: Xây dựng kế hoạch làm trực nhật, làm vệ sinh khuôn viên
trường và chăm sóc cây cảnh, bồn hoa hàng ngày dành cho các tổ. Thực hiện
khẩu hiệu: “Không để giấy loại rơi trong khuôn viên nhà trường, lớp học”.
Trong lớp có thùng đựng rác, khi làm trực nhật các em phải đeo khẩu trang và
dùng chổi cán dài để đảm bảo vệ sinh. Nâng cao chất lượng hoạt động của lớp
trưởng, Ban cán sự lớp để giám sát, kiểm tra việc thực hiện vệ sinh trường
lớp, vệ sinh cá nhân, việc thực hiện nội quy HS…
2.3. Để thực hiện tốt 3 nội dung “Rèn kĩ năng sống cho học sinh”; “Tổ
chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh”; “HS tham gia tìm hiểu,

chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa
phương” tôi đã làm các công việc sau:
a. GVCN sưu tầm sau đó lần lượt giới thiệu và tập cho HS các trò chơi dân
gian trong trường và ở nhà như: Đi cà kheo, nhảy dây, bịt mắt bắt dê, mèo
đuổi chuột, ô ăn quan, đánh chuyền, rồng rắn lên mây, nhảy bao bố, múa sạp,
chi chi chành chành, nu na nu nống, … Hoạt động này do GV chủ nhiệm và
lớp phó văn thể phụ trách. Trong giờ ra chơi tôi vừa hướng dẫn, vừa tham gia
5
chơi cùng HS để tạo sự gần gũi, thân thiện giữa GV và HS. Đồng thời giúp
HS tự tin, say mê hơn trong khi chơi.
Để phục vụ cho hoạt động này được tốt, giúp cho HS có đủ dụng cụ khi
tham gia trò chơi, tôi đã bố trí phụ huynh cùng mình chuẩn bị đầy đủ dụng cụ
như: 3 bộ cà kheo, dây thừng để chơi kéo co, 2 bộ sạp để HS múa sạp, gậy để
chơi đẩy gậy; 3 tấm bìa cứng có kẻ ô + sỏi rửa sạch đựng trong 3 hộp nhựa có
nắp đậy cho HS chơi ô ăn quan khỏi bị bẩn tay và cất sau khi chơi xong, 5 bộ
chuyền vót bằng tre, … Qua đó tôi rèn cho HS ý thức giữ gìn dụng cụ chơi
và thói quen cất giữ cẩn thận sau khi chơi xong.
b. Tổ chức cho HS sưu tầm ca dao, tục ngữ, sưu tầm tranh ảnh phục vụ các
ngày chủ điểm trong năm. Do lớp trưởng và GV chủ nhiệm thực hiện.
c. Tổ chức cho HS sưu tầm, kể các câu chuyện về Bác Hồ kính yêu vào tiết
sinh hoạt tập thể thứ 2 đầu tuần, nói về các việc làm trong cuộc sống hàng
ngày của Bác, của mọi người có liên quan đến câu chuyện bạn vừa kể. Từ đó
đặt ra các câu hỏi ứng xử tình huống trong giao tiếp, trong các mối quan hệ
hàng ngày để HS trả lời qua việc hái hoa dân chủ ở cây hoa của lớp. Hoạt
động này do GV chủ nhiệm và lớp Phó học tập phụ trách.
d. Tổ chức lễ hội Văn hóa dân gian dành cho HS trong lớp vào các ngày lễ
lớn trong năm: 20/11; 8/3. Lễ hội gồm các nội dung: “Những khúc ca vui”;
“Họa sĩ là em”; “Nhà sử học tí hon”, thi hò vè, múa hát, đọc thơ… Đặc biệt
tổ chức cho HS trong lớp sưu tầm và thi hát dân ca xứ Nghệ, dân ca Thái (Vì
trong lớp chiếm 94,1% là HS dân tộc Thái) kết hợp với các trò chơi dân gian

nhằm gìn giữ những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
e. Xây dựng bảng tin của lớp: Bảng tin được trang trí đẹp mắt, phù hợp lứa
tuổi với các chuyên mục dành cho HS như sau: Góc ôn luyện - Chúng mình
cùng nhớ (ghi các công thức toán, Tiếng Việt, bảng nhân, bảng chia, cách
qua sông, qua suối khi mùa lũ, …); Điều em muốn nói (Học sinh trình bày
những ước mơ, ước muốn của bản thân; những ý kiến, đề xuất của HS dành
cho GV để cùng GV thực hiện các giải pháp giúp cho việc dạy học có kết
quả); Danh nhân - Việt Nam đất nước con người (Các bài sưu tầm về các
danh nhân văn hóa, các anh hùng Việt Nam, các liệt sĩ …); Ứng xử có văn
hoá (Các tình huống, các câu chuyện về nói năng, cách cư xử, ứng xử của
của các nhân vật, của mọi người trong câu chuyện hoặc trong cuộc sống
hàng ngày, …); Bác sĩ ơi - Địa chỉ đỏ (Nói về các vấn đề cần thiết để giữ vệ
sinh cá nhân, phòng tránh các bệnh truyền nhiễm, các bệnh về mắt, bệnh học
đường …); Ca dao tục ngữ Việt Nam (Sưu tầm các câu tục ngữ, cao dao về
gia đình, bạn bè, thầy cô, truyền thống dân tộc…); Đố bạn (HS tìm và dán
các câu đố, bài toán khó …); Em yêu khoa học; Em làm cảnh sát giao thông
6
(HS vẽ và dán các bài về chủ đề giao thông như: Đường phố, Đường em đi,
em đi học, Theo mẹ lên nương…); Bạn có biết; Em xử lí thế nào; Người tốt -
việc tốt (HS sưu tầm và dán các bài viết về gương người tốt, việc tốt trong
sách báo, trong lớp, trong trường …); Ai tài thế - Bạn nào giỏi thế (để trưng
bày các bài văn hay, chữ viết đẹp, tranh vẽ đẹp, sản phẩm thủ công của học
sinh).
(Bảng tin cùng các hoạt động: có ảnh và bài sưu tầm của HS kèm theo).
Thông qua bảng tin này, HS được giới thiệu bằng tiếng phổ thông gương
người tốt, việc tốt, được xem những bài văn hay, chữ viết đẹp của các bạn
trong lớp, được tham gia giải đáp các tình huống ứng xử hàng ngày, được tìm
hiểu kiến thức về lịch sử, về an toàn giao thông, về chăm sóc sức khoẻ ban
đầu, được rèn các kĩ năng sống hàng ngày như: Phòng chống tai nạn giao
thông, đuối nước, sạt lở đất và các tai nạn khác. Ngoài ra với các chuyên mục

nói trên các em được giới thiệu các sản phẩm của mình về vẽ, viết chữ đẹp,
bài văn hay nhằm phát huy tính mạnh dạn, khả năng của mình. Chuyên mục
“Việt Nam - đất nước con người”, “Danh nhân” giúp HS hiểu biết thêm về
lịch sử và địa lí Việt Nam, về các anh hùng liệt sĩ, những người có công với
nước, về các danh nhân văn hoá, … Chuyên mục “Mừng sinh nhật”, “Ai tài
thế” giới thiệu người tốt việc tốt giúp HS hiểu biết đạo lí và sống thân thiện
với nhau hơn. Chuyên mục “Ôn luyện kiến thức” giúp các em chủ động trong
học tập. Chuyên mục “Điều em muốn nói” tạo điều kiện cho HS mạnh dạn
nói lên những suy nghĩ của mình về thầy cô, bạn bè, nhà trường, gia đình, về
các mối quan hệ hàng ngày, góp phần thực hiện tốt hơn các quyền trẻ em.
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho HS trực tiếp đến động viên, thăm hỏi, giúp
đỡ mẹ Việt Nam anh hùng để giáo dục các em đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn”. Cụ thể những ngày lễ lớn của dân tộc tổ chức cho HS đến quét dọn,
vệ sinh nhà cửa và tặng quà cho bà mẹ Việt Nam Anh hùng Phạm Thị Đông ở
xóm Cầu Đá, xã Châu Lộc.
Để phong trào của lớp đạt kết quả tốt tôi còn xây dựng và thực hiện một
số quy ước về ứng xử thân thiện dành cho GV và HS: “Thân thiện trong học
tập và trong vui chơi” dành cho các tổ, cá nhân HS trong lớp. Xây dựng quy
ước về “gia đình thân thiện” và triển khai trong phụ huynh HS khi họp phụ
huynh của lớp vào đầu năm học.
2. Nhóm giải pháp: Nâng cao chất lượng đạo đức cho học sinh.
a. Đối với giáo viên:
Chúng ta đều biết hoạt động hàng ngày của mỗi GV gắn liền với việc giao
tiếp cùng HS. Do đó để nâng cao chất lượng đạo đức cho HS trong lớp GV
chủ nhiệm cần chú ý đến nét mặt, cử chỉ, lời nói, cách ăn mặc, đầu tóc, … của
7
mình. Cần tập dần để biết điều tiết những biểu cảm của bản thân thông qua
hành vi và lời nói. Một trong những phẩm chất cần thiết của người GV là nhẹ
nhàng, vị tha, nhân ái. Nó đòi hỏi người GV phải biết mình, biết người một
cách hết sức tế nhị và sâu sắc. Một biểu hiện của nét mặt, một âm điệu của lời

nói, … có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục. Tất cả những cái đó phải
xuất phát từ tình cảm chân thực của GV. Ngược lại nếu GV luôn cau có, quá
ưu tư hoặc suồng sã hay khắt khe quá sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc giáo
dục đạo đức, nhân cách của HS vì các em xem thầy cô giáo là tấm gương
sáng, mẫu mực về đạo đức và phong cách sống. Bên cạnh đó GV cần dành
cho HS một tình cảm sâu sắc, chân thành, xem HS như con cháu của mình,
thực sự sống gần gũi, biết chia sẻ, giàu lòng vị tha thì mới có thể đi vào nội
tâm của HS để lôi cuốn, cảm hóa các em.
Ở Tiểu học môn học đặc biệt quan trọng góp phần vào việc hình thành và
phát triển nhân cách trẻ nhỏ chính là môn đạo đức. Chẳng vì thế mà Bác Hồ
kính yêu đã nói:
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Vậy để đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu của môn đạo đức GV cần đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học, từng bước áp dụng phương tiện tiên tiến, hiện đại vào quá trình
dạy học, sử dụng các phương pháp dạy học một cách thích hợp, linh hoạt coi
nó như con đường để hình thành nhân cách cho HS. Đặc biệt khi các em được
tự mình khám phá, tìm hiểu tri thức hay do tự tay mình làm thì các em sẽ dễ
nhớ và nhớ lâu. Do đó trong quá trình học tập, GV cần tổ chức cho HS làm
việc thông qua các phương pháp dạy học mới như: Trò chơi học tập, Đôi bạn
học tập, nhóm tích cực, Đôi bạn cùng tiến, Rung chuông vàng, Ô chữ kì
diệu… Đồng thời GV cũng cần nắm được ưu điểm, tồn tại của từng PPDH để
từ đó vận dụng các PP sao cho linh hoạt và đem lại hiệu quả cao. Ví dụ:
+ Phương pháp “Phóng viên” có ưu điểm: phát triển kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng tư duy, kĩ năng viết, …
+ Phương pháp “Trò chuyện tay ba” có ưu điểm: phát triển kĩ năng nghe, kĩ
năng nói và biết cách chia sẻ, …
+ Phương pháp “Kim tự tháp”: phát triển kĩ năng quyết định nhanh, kĩ năng
tư duy, …

Trong thời gian qua nhờ vận dụng sáng tạo các PPDH nhóm tích cực cùng
với các phương pháp dạy học khác một cách linh hoạt nên các giờ học của lớp
nhẹ nhàng, học sinh hứng thú học tập và đem lại hiệu quả rất cao.
8
b. Đối với học sinh:
Như Lê – nin đã nói: “Cùng với dòng sữa mẹ con người hấp thụ tâm lí đạo
đức của xã hội mà nó là thành viên, nhân cách của con người hình thành và
phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm”. Vì thế có thể nói đối với
HS thì giáo dục đạo đức là một trong những con đường hình thành nhân cách
trẻ một cách gần gũi nhất. Chính vì vậy tôi thường xuyên cho HS sưu tầm các
câu chuyện hoặc đưa ra cho HS các tình huống có nội dung liên quan đến bài
học để các em đọc, tìm hiểu hoặc xử lí tình huống có liên quan đến cuộc sống
hàng ngày của các em nhằm rèn kĩ năng sống, kĩ năng ứng xử cho HS. Đặc
biệt tôi sử dụng PP nêu gương: Các gương về lòng hiếu thảo, cư xử, ứng xử
trong gia đình, với ông bà, cha mẹ, anh chị em; ứng xử trong trường, lớp với
thầy cô, bạn bè, …; ứng xử ngoài xã hội: với người lớn tuổi, em nhỏ, với
người tàn tật, với bạn bè quốc tế, … qua sách báo, truyện kể, truyền hình,
thông tin đại chúng và cả trong cuộc sống hàng ngày ở gia đình, trường lớp,
…. Từ đó HS biết vận dụng vào thực tế cuộc sống của bản thân, nhờ đó mà
các em lễ phép, nói năng nhẹ nhàng, biết cách ứng xử lịch sự hơn và có văn
hóa hơn.
3. Nhóm giải pháp : Nâng cao chất lượng học tập cho học sinh.
Để thực hiện nội dung “Dạy học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi của học sinh ở địa phương, giúp các em tự tin trong học tập” thì việc
làm cần thiết nhất của GV là rèn cho HS tính tự học để các em chủ động
chiếm lĩnh tri thức. Đây là việc làm khó khăn và lâu dài vì các em còn nhỏ, tư
duy độc lập còn hạn chế. Vì thế GV cần tìm hiểu: Để giáo dục tính tự học cho
HS thì cần có những điều kiện nào? Trong đó có hai điều kiện không thể
thiếu là cách học và sự say mê hứng thú học tập. Vì khi đã có cách học tốt
thì các em đã biết cách làm việc độc lập. Cộng với niềm say mê hứng thú học

tập thì các em sẽ tự giác học. Có cách học với tinh thần tự giác, say mê học
tập chắc chắn các em sẽ có tính tự học. Vì vậy trong quá trình dạy học GV
cần xây dựng, phát triển cho HS niềm say mê, hứng thú học tập cũng như
hình thành cho các em cách tự học bằng một số biện pháp như sau:
- Tạo sự say mê học tập ở các em bằng các tiết học hấp dẫn, lôi cuốn như:
GV chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học, chọn lọc phương pháp phù hợp với nội
dung bài dạy, phù hợp đối tượng HS, để tất cả mọi HS trong lớp đều được
tham gia vào quá trình học tập.
- Tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn ở nội dung giảng dạy là điều hết sức quan
trọng. Nó kích thích trí tưởng tượng của HS, thúc đẩy trí óc các em muốn tìm
tòi, khám phá để phát hiện ra những điều lí thú đối với bản thân. Từ đó các
9
em sẽ bị cuốn hút vào tiết học, sẽ không ngừng tìm tòi, liên hệ thực tế, tự đặt
câu hỏi và tìm cách để giải đáp thắc mắc. Thế là GV đã dẫn HS vào con
đường tự học.
- GV cần phân loại đối tượng HS trong lớp theo từng môn học rồi tổ chức
dạy phân hóa theo năng lực HS dựa theo chuẩn kiến thức kĩ năng của chương
trình đã quy định. Từ đó mọi HS trong lớp đều được tham gia vào quá trình
học, được làm việc theo yêu cầu, hướng dẫn của GV.
- Tâm lí HS thích thi đua, thích được khen để phát triển niềm say mê, hứng
thú học tập cho các em tôi đã tổ chức các phong trào thi đua trong lớp như:
+ Thi đua giữa các tổ, nhóm HS: Khi tổ chức thi đua giữa các tổ, nhóm.
Nếu thuận tiện GV có thể tiến hành thường xuyên trong các tiết học. Ví dụ
như: Thi “Tiếp sức”; “Liền anh – liền chị”; “Đối đáp”, “Truyền điện”, …
- Tổ chức các đôi bạn học tập, Đôi bạn cùng tiến.
Việc tổ chức đôi bạn học tập tôi thấy cách sắp xếp sau đây mang lại hiệu
quả rõ rệt. GV nên xếp 2 HS có lực học chênh nhau vừa phải như: Giỏi –
Khá; Khá – Trung bình; Trung bình – Yếu. Trong đó HS có học lực khá hơn
sẽ làm nhóm trưởng. Sau 1 – 2 tháng nếu HS yếu hơn trong nhóm có tiến bộ
sẽ được chuyển sang làm nhóm trưởng nhóm mới. Do các em luôn muốn tự

khẳng định mình, muốn được khen và thích làm người hướng dẫn cho bạn, dù
chỉ là một điều nhỏ cũng làm cho các em rất vui. Để hướng dẫn được cho bạn
hoặc để được làm người hướng dẫn cho bạn thì các em phải cố gắng học tập.
Đối với em còn lại trong nhóm muốn được chuyển sang làm nhóm trưởng
nhóm mới thì cũng phải nỗ lực học tập. Từ đó tạo nên không khí thi đua lành
mạnh, sôi nổi kích thích hứng thú say mê học tập ở HS.
Ngoài ra GV cần phải động viên, tuyên dương kịp thời dù em đó có tiến
bộ rất ít. Phối hợp với gia đình để nhắc nhở động viên HS thêm ở nhà. Mua
sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, tạo cho các em có góc học tập ở nhà tốt
như: bàn ghế phù hợp, đặt ở nơi có nhiều ánh sáng, yên tĩnh để các em ngồi
học. Bên cạnh đó có nhiều HS có ý thức học rất tốt, có mọi điều kiện để học
tốt nhưng không thể tự học được là vì các em đó chưa có cách học. Để giúp
cho những HS này GV cần:
+ Trong mỗi tiết học, ở mỗi nội dung ngoài dạng kiến thức kĩ năng đã có
trong sách giáo khoa, GV cần hướng dẫn cho các em cách tư duy. Tức là GV
tổ chức và hướng dẫn để HS tự làm việc theo yêu cầu của GV.
Ví dụ

: Trong dạy học Toán: GV giúp HS nắm các bước giải bài toán sau:
“Có 48 con gà. Số vịt kém số gà 4 lần. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà và vịt”.
Bước 1

: Đọc kĩ bài toán. (HS đọc).
10
Bước 2

: Xác định yêu cầu của bài toán. (HS dùng bút chì hoặc phấn gạch
chân yêu cầu của bài toán). (GV hoặc HS cùng bàn kiểm tra).
Bước 3


: Tóm tắt bài toán (HS tự tóm tắt bằng nhiều cách như: Tóm tắt bằng
lời thông thường:
Gà : 48 con
Gà : gấp 4 lần vịt
Tất cả: … con gà và vịt?
Hoặc HS tự tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
48 con
? con
Hay HS có thể suy nghĩ, dựa theo hướng dẫn của GV để tự tóm tắt bằng sơ đồ
như sau: Tất cả

Gà + vịt
Gà : 4
Như vậy từ cách lập sơ đồ phân tích như trên, cho phép HS biến những suy
nghĩ tìm cách giải bài toán của mình thành các hoạt động bằng tay, tức là
thành các thao tác. Nhờ có thao tác này mà GV tổ chức được cho tất cả HS
trong lớp phải làm việc và kiểm soát được toàn bộ quá trình làm việc đó.
Bước 4

: Phân tích để tìm cách giải.
Bước 5

: Giải toán (sau đó có thể tìm cách giải khác).
Bước 6

: Đặt 1 đề toán khác tương tự với bài toán vừa giải.
- Khi HS tự học ở nhà GV cần giao nhiệm vụ cụ thể vừa sức với HS, hướng
dẫn HS cách học bài, làm bài cụ thể.
Ví dụ cách học bài


: Trước khi học bài cần nhớ lại bài cô giảng trên lớp, tập
trung suy nghĩ để hiểu kĩ, nhớ lâu rồi làm bài tập liên quan (nếu có). Đọc kĩ
bài tập, làm nháp, thử lại rồi mới làm vào vở bài tập.
* Tóm lại: GV phải đặc biệt chú ý đến việc đổi mới PPDH của mình,tạo điều
kiện cho HS được tự làm việc, được khuyến khích đề xuất sáng kiến và cùng
GV thực hiện các giải pháp để việc dạy và học có hiệu quả ngày càng cao.
11
Số gà:
Số vịt:
=
=
?
4. Nhóm giải pháp: Nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu
hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp
phần rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với
mình cũng như đối với thầy và bạn mình”. Mặt khác từ xa xưa ông cha ta cũng
đã dạy “Nét chữ, nết người”. Vì vậy chữ viết là yếu tố hàng đầu không thể thiếu
được trong việc rèn luyện cho học sinh các phẩm chất tốt đẹp của con người lao
động trong thời đại mới ngày nay là: cẩn thận, kiên trì, yêu thích cái đẹp và biết
tạo ra cái đẹp thông qua việc thích viết chữ đẹp. Từ suy nghĩ đó nên ngay từ đầu
năm học, tôi đã cho HS viết một bài chính tả để chấm phân loại chữ viết, từ đó
phát hiện ra những ưu và nhược điểm về chữ viết của từng HS và ghi vào sổ tay
chủ nhiệm. Rồi tiến hành các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho
HS như sau:
- Xếp chỗ ngồi cho phù hợp với từng đối tượng HS. Hướng dẫn cho các em
thực hiện đúng quy định khi ngồi viết: Tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để
vở, xê dịch vở khi viết, cách trình bày bài. Khi dạy HS viết GV cần hướng dẫn
kĩ hơn ở các kĩ năng: Điểm đặt bút, điểm dừng bút, viết liền mạch, kỹ thuật lia
bút và rê bút.

- Cho HS luyện viết theo nhóm chữ, nhóm nét (nhóm nét cong, nhóm nét
khuyết, nhóm nét móc, nhóm nét thẳng) để giúp HS định hình biểu tượng được
nhanh nhất. GV cần tỉ mỉ, kiên trì hướng cho HS viết từng nét chữ, thật đúng về
chiều cao, độ rộng của con chữ, đặc biệt là nét khuyết trên, nét khuyết dưới và
nét thắt chữ s, r, cách đặt bút đưa nét của từng con chữ. Đặc biệt là cách viết
liền nét giữa các con chữ trong cùng một tiếng, viết hết các con chữ mới viết
dấu thanh của tiếng và dấu của con chữ như dấu của chữ ư , ơ , t , ô , ă , â…,
lưu ý các em viết đúng khoảng cách giữa các tiếng trong một từ (cách nhau với
độ rộng bằng một con chữ o hoặc 1 ô li). Ví dụ: Khi viết từ cần câu: GV hướng
dẫn HS viết chữ cần xong rồi cách 1 khoảng rộng bằng con chữ o và viết tiếp
chữ câu.
- GV cần hướng dẫn kĩ cách sử dụng bút mực như: không viết ấn bút làm toe
ngòi bút dẫn đến chữ viết to và xấu, không nghịch bút làm mực giây bẩn ra tay
và sách vở, quần áo, bàn ghế, … các em phải viết bằng bút mực đen hoặc mực
xanh, tuyệt đối không viết bút bi, không được dùng bút xóa trong vở.
- Hằng ngày tranh thủ thời gian rảnh rỗi như: đến lớp sớm hơn, giờ ra chơi,
giờ nghỉ trưa để kèm cặp các em viết yếu, giáo viên cầm tay hướng dẫn các em
viết hoặc viết mẫu để các em quan sát chữ viết mẫu trực tiếp cho dễ viết. Yêu
cầu HS luyện thao tác viết chữ, quy trình viết và kĩ thuật viết phải nhuần
nhuyễn và hợp lí. Giúp HS sớm hình thành kĩ xảo viết chữ linh hoạt.
12
- Không chỉ rèn luyện cho học sinh tập viết đúng đẹp trong vở thực hành
luyện viết, vở ô ly, mà còn phải rèn cả khi các em viết bảng con, bảng lớp, làm
bài tập toán, bài tập Tiếng Việt. Trong phần luyện viết bảng con giáo phải
hướng dẫn kĩ cách chuẩn bị bảng, cách lau bảng, cách giơ bảng, cách sử dụng
và bảo quản phấn hoặc bút viết bảng. Khi các em viết tiến bộ GV kịp thời biểu
dương, khen ngợi và hoan nghênh sự tiến bộ của các em trước tập thể lớp, để
khích lệ tinh thần viết đúng, viết đẹp của các em.
- Khi chấm bài cho HS, GV phải chữa lỗi cẩn thận, chữ viết câu nhận xét của
GV trong vở HS phải đẹp, mẫu mực, đúng qui định; Chữ viết bảng của GV cũng

phải đẹp, đúng mẫu. Nhận xét kết quả bài chấm cụ thể, khen ngợi những bài đạt
kết quả tốt, những bài viết tiến bộ, động viên những em viết chưa đẹp phải cố
gắng nhiều hơn, tuyệt đối không chê làm các em chán viết. Khi HS đã viết thành
thạo các chữ cái theo kiểu viết chữ đứng, GV hướng dẫn thêm cho các em kiểu
chữ viết nghiêng và phải tuyệt đối không được viết nghiêng trái.
- Để việc dạy chữ không đơn điệu, GV cần khắc sâu biểu tượng về chữ cho
các em bằng nhiều con đường, kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều
này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo chữ
mẫu, tìm sự giống và khác nhau của chữ cái trong cùng một nhóm. GV cần coi
trọng việc xử lý quan hệ giữa âm và chữ tức là giữa đọc và viết. Do đó trong
tiến trình dạy những âm mà địa phương hay lẫn như s/x; tr/ch; r/d/gi…, GV cần
đọc mẫu. Việc viết đúng củng cố việc đọc đúng và ngược lại đọc đúng có vai trò
quan trọng trong việc giúp cho HS viết đúng. Để động viên, khích lệ HS thi đua
luyện chữ viết tôi tổ chức các cuộc thi viết chữ đẹp của lớp vào các dịp giữa học
kì và cuối học kì. Qua đó giúp các em biết khả năng viết chữ của bản thân và
của các bạn trong lớp để các em phấn đấu rèn luyện chữ viết của mình đẹp hơn.
*Tóm lại: Để rèn chữ viết cho HS đòi hỏi GV phải thật tỉ mỉ, kiên trì và nhắc
nhở thường xuyên thì mới đem lại kết quả tốt.
III. KẾT QUẢ KINH NGHIỆM
1. Kết quả nâng cao chất lượng các hoạt động:
- Hầu hết HS có ý thức kỉ luật cao. Các em tự tin, tích cực tham gia các hoạt
động của trường của lớp, cùng nhau thi đua học tập; lễ phép, ngoan ngoãn, biết
cách ứng xử phù hợp, thân thiện trong giao tiếp, trong học tập, trong vui chơi và
trong cuộc sống hàng ngày ở trường cũng như ở nhà, …
13
- Nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa GV chủ nhiệm và gia đình, thông tin chính xác
kịp thời … nên trong lớp không còn học sinh học yếu, không còn tình trạng HS
không học bài, làm bài ở nhà.
- HS tự rèn cho mình ý thức giữ gìn lớp sạch đẹp. Trong suốt buổi học không
có hiện tượng xả rác bừa bãi, để dép ngoài hành lang, lớp học thoáng mát. Từng

tổ có ý thức về trách nhiệm được giao, bảo quản cây xanh đạt hiệu quả cao.
- Ý thức chấp hành nội quy của các em rất tốt. Đồng phục trước khi đến lớp.
Xếp hàng nghiêm túc trước khi vào lớp và khi ra về.
- Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng HS trong Ban cán sự lớp đã đem
lại hiệu quả cao trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các em thực
hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những trường hợp
GVCN không cần có mặt nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt.
2. Kết quả của việc đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy và học:
Chất lượng học tập của các lớp tôi chủ nhiệm trong 3 năm học qua đều được
nâng cao rõ rệt. Cuối năm học, tỷ lệ HS khá giỏi đạt 65 – 70%. Đặc biệt đạt kết
quả cao trong các cuộc thi do Phòng GD&ĐT Quỳ Hợp cũng như nhà trường tổ
chức. Cụ thể:
* Năm học 2009 – 2010:
- Giao lưu “Nói lời hay – Viết chữ đẹp” cấp huyện: 2 em đạt giải Khyến
khích.
- Thi viết chữ đẹp cấp huyện: có 2 em tham gia (trong đó có 1 em đạt giải
Nhất, 1 em đạt giải Ba).
* Năm học 2010 – 2011:
- Giao lưu học sinh giỏi cấp huyện 2 môn Toán + Tiếng Việt: có 5 em được
công nhận HS giỏi huyện.
- Thi viết chữ đẹp cấp huyện: Có 4 em tham gia (trong đó có 1 em đạt giải
Nhất, 1 em đạt giải Nhì, 2 em đạt giải Ba).
* Năm học 2011 – 2012:
- Giao lưu Ôlimpic Toán Tuổi thơ cấp huyện: có 5 em tham gia (trong đó có 1
em đạt giải Nhì, 3 em đạt giải Ba,1 em đạt giải Khuyến khích). (Có ảnh, danh
sách và giấy chứng nhận do Phòng GD&ĐT Quỳ Hợp trao kèm theo ở phụ lục).
14
- Giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cấp huyện: có 4 em tham gia (trong đó
có 2 em đạt giải Nhất, 1 em đạt giải Nhì, 1 em đạt giải Ba). ( Có ảnh, danh sách
và giấy chứng nhận do Phòng GD&ĐT Quỳ Hợp trao kèm theo ở phụ lục).

- Thi chữ viết đẹp cấp huyện: có 4 em tham gia (trong đó có 1 em đạt giải
Nhất, 1 em đạt giải Nhì, 2 em đạt giải Ba). (Có ảnh, bài viết của HS và danh
sách kèm theo ở phụ lục).
* Cả 3 năm học (2009 – 2010; 2010 – 2011; 2011 – 2012) các lớp tôi chủ
nhiệm đều được trường TH Châu Lộc công nhận là “Lớp học thân thiện – Học
sinh tích cực”.
3. Bài học rút ra:
- Muốn thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng lớp học thân thiện – Học
sinh tích cực” để nâng cao chất lượng các hoạt động và học tập cho HS thì GV
chủ nhiệm phải thật sự cố gắng, nỗ lực hết mình vì HS thân yêu. Đồng thời có
sự quan tâm đặc biệt của nhà trường và của phụ huynh HS.
- GV chủ nhiệm phải gần gũi HS, phải linh hoạt, năng động, sáng tạo và tập
hợp được sự đoàn kết cộng đồng trách nhiệm trong tập thể HS. Tích cực vận
động, tuyên truyền để nhận được sự đồng thuận, đồng lòng của phụ huynh đóng
góp công sức, tiền để ủng hộ lớp về mọi mặt. Đồng thời làm tốt công tác tuyên
truyền trong GV bộ môn, HS và phụ huynh để tạo nên sự thân thiện, tình đoàn
kết, sức mạnh tổng hợp, đồng lòng, đồng sức giúp lớp xây dựng thành công
“Lớp học thân thiện – HS tích cực”.
- Phải tích cực đổi mới PPDH, vận dụng linh hoạt các PPDH vào quá trình
DH để nâng cao chất lượng học tập của HS. Tạo cơ hội cho HS được đề xuất
với GV về việc cải tiến PPDH cho phù hợp với khả năng tiếp thu của từng đối
tượng HS trong lớp.
- GV chủ nhiệm phải tích cực đổi mới cách thức tổ chức các hoạt động cho
HS để các em tích cực chủ động tham gia nhằm mang lại hiệu quả giáo dục cao
nhất.
- Cần đổi mới công tác chủ nhiệm để khích lệ, động viên HS tích cực, nỗ lực,
cố gắng vươn lên về mọi mặt.
- GV chủ nhiệm cần biết tổ chức hướng dẫn các trò chơi dân gian để giúp HS
biết chơi và giáo dục HS ý thức gìn giữ những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc Việt Nam.

15
- Thông qua các hoạt động GDNGLL, GV chủ nhiệm phải biết tổ chức các
hoạt động tìm hiểu về di tích lịch sử, danh nhân, các anh hùng liệt sĩ, … nhằm
phát huy các giá trị di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh để giáo dục niềm tự hào
về truyền thống của quê hương đất nước.
4. Phương pháp thực hiện SKKN: Tôi đã sử dụng phương pháp điều tra,
phương pháp thống kê, phương pháp giảng giải, vấn đáp; phương pháp tuyên
truyền, vận động; phương pháp nêu gương, phương pháp xây dựng điển hình, …
5. Khả năng ứng dụng SKKN: Kinh nghiệm có khả năng ứng dụng rộng rãi
đối với các lớp thuộc trường Tiểu học chưa xây dựng được phong trào “Lớp học
thân thiện – Học sinh tích cực” trên cả nước.
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Kết quả của việc ứng dụng SKKN:
Sau khi đã xây dựng thành công phong trào “Lớp học thân thiện – Học sinh
tích cực” tôi đã trao đổi những kinh nghiệm tích lũy được của mình với GV chủ
nhiệm các lớp 5B, 4A, 4C, 2A trong trường Tiểu học Châu Lộc và GV chủ
nhiệm lớp 5A ở trường Tiểu học và THCS Thọ Hợp. GV chủ nhiệm các lớp này
đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của tôi nên đạt được kết quả cao trong phong
trào thi đua xây dựng “Lớp học thân thiện – Học sinh tích cực”.
2. Kết luận:
Qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng muốn xây dựng được “Lớp học
thân thiện – HS tích cực” thì trước hết phải được sự quan tâm đặc biệt của nhà
trường, của phụ huynh HS.
- GV luôn đổi mới PPDH, đổi mới công tác tổ chức để nâng cao chất lượng
giáo dục lên tầm cao mới. Có được như vậy thì lớp chắc chắn nhanh chóng xây
dựng được phong trào “Lớp học thân thiện – Học sinh tích cực”.
- Để có sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng
mà chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là “lớp
truởng và ban cán sự lớp”.
- Xây dựng được “Lớp học thân thiện – Học sinh tích cực” thành công hay

thất bại còn phụ thuộc vào yếu tố khác nữa. Chúng ta không nên áp dụng rập
khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp giáo dục nào bởi lẽ sản phẩm đây
chính là “con người”.
16
- Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các
phong trào khác, những hoạt động khác và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ với
nhà trường, với Ban cha mẹ HS để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng giáo
dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng.
- Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích
hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng đối tượng HS,…
- Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người
có uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm, tập hợp
được sức mạnh tổng hợp. Với vai trò là con chim đầu đàn, là yếu tố có phần
quyết định, tạo nên sự thành công hay thất bại cho mỗi HS, mỗi lớp học.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ tôi đã rút ra trong quá trình xây dựng
phong trào “Lớp học thân thiện – Học sinh tích cực” và đã có những thành
công. Tất nhiên trong quá trình trình bày không tránh khỏi những sai sót, rất
mong được lượng thứ và góp ý chân thành của các đồng nghiệp để bản kinh
nghiệm của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Châu Lộc, ngày 10 tháng 5 năm 2012
Người viết:
Nguyễn Thị Hoa
PHỤ LỤC
17
1. QUY TẮC ỨNG XỬ CỦA HỌC SINH TRONG LỚP 5A
TRƯỜNG TIỂU HỌC CHÂU LỘC
Điều 1. Đối tượng và phạm vi áp dụng
- Quy tắc này được áp dụng với học sinh lớp 5a trường Tiểu học Châu Lộc.
- Quy tắc này được áp dụng trong ứng xử của học sinh trong giao tiếp, học tập và sinh

hoạt.
Điều 2. Đối với thầy giáo, cô giáo, nhân viên nhà trường và khách đến trường
HS phải:
2.1. Trong chào hỏi, xưng hô, giới thiệu với thầy giáo, cô giáo, nhân viên nhà trường,
khách đến thăm, làm việc với nhà trường đảm bảo kính trọng, lịch sự, rõ ràng, ngắn
gọn, không thô lỗ, cộc lốc, không rụt rè. Không sử dụng các động tác cơ thể không
văn hóa như thè lưỡi, giơ tay, búng tay, đấm lưng nhau, hô to, hò hét, kéo dài giọng,
chỉ trỏ, bình phẩm
2.2. Ứng xử khi hỏi và trả lời đảm bảo trật tự trên dưới. Câu hỏi và trả lời ngắn gọn,
rõ ràng, có thưa gửi, cảm ơn.
2.3. Ứng xử khi làm phiền thầy giáo, cô giáo, nhân viên nhà trường đảm bảo thái độ
văn minh, tế nhị, chân thành, xin lỗi đúng lúc.
2.4. Ứng xử khi chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của bản thân với thầy giáo, cô giáo và
ngược lại đảm bảo chân tình, giản dị, cởi mở, thân mật, không khách sáo, cầu kỳ.
Điều 3. Đối với bạn bè phải:
3.1. Ứng xử trong xưng hô đảm bảo thân mật, cởi mở, trong sáng, không cầu kỳ;
không gọi nhau, xưng hô bằng những từ: mày, tao, … mà xưng hô với nhau bằng các
từ: bạn, mình, cậu, … không gọi tên gắn với tên cha, mẹ, gắn với những khiếm
khuyết ngoại hình hoặc đặc điểm cá biệt về tính nết…
3.2. Ứng xử trong chào hỏi, giới thiệu, bắt tay nhau đảm bảo thân mật, trong sáng,
không thô thiển, cục cằn, không làm ầm ĩ ảnh hưởng đến người xung quanh.
3.3. Ứng xử trong khi thăm hỏi, giúp đỡ bạn bè đảm bảo chân thành, tế nhị, không
che giấu khuyết điểm của nhau, không xa lánh, coi thường người bị bệnh, tàn tật hoặc
người có hoàn cảnh khó khăn; khi chúc mừng bạn đảm bảo vui vẻ, thân tình, không
gây khó xử.
18
3.4. Ứng xử trong đối thoại, nói chuyện, trao đổi với bạn bè đảm bảo chân thành,
thẳng thắn, cởi mở, ôn tồn, không cãi vã, chê bai, xúc phạm, huơ chân múa tay, nói
tục, chửi thề, Biết lắng nghe tích cực và có ý kiến phản hồi mang tính xây dựng khi
thảo luận, tranh luận.

3.5. Ứng xử trong quan hệ với bạn khác giới đảm bảo tôn trọng, nhã nhặn.
3.6. Trong học tập đảm bảo nghiêm túc, trung thực không vi phạm quy chế kiểm tra,
thi cử.
Điều 4: Đối với gia đình phải:
4.1. Ứng xử trong xưng hô, mời, gọi đảm bảo sự kính trọng, lễ phép, thương yêu,
quan tâm đến mọi người trong gia đình.
4.2. Ứng xử trong khi đi, về; lúc ăn uống đảm bảo lễ phép, có chào mời, thưa gửi,
xin phép. Khi được hỏi phải trả lời lễ phép, nhẹ nhàng, rõ ràng. Không khích bác, lên
án ông bà, cha mẹ và người hơn tuổi.
4.3. Ứng xử trong quan hệ với anh chị em trong gia đình đảm bảo trật tự họ hàng,
quan tâm chăm sóc, nhường nhịn, giúp đỡ, chia sẻ, an ủi chân thành.
4.4. Khi có khách đến nhà đảm bảo chào hỏi lễ phép, tiếp khách chân tình, cởi mở,
lắng nghe.
4.5. Ứng xử trong công việc gia đình đảm bảo làm việc chăm chỉ, vừa sức, không cãi
cọ, cau có khi bị nhắc nhở.
Điều 5. Đối với thôn, bản, xóm làng nơi cư trú phải:
5.1. Ứng xử trong giao tiếp đảm bảo lễ phép; ân cần giúp đỡ; hỏi thăm, chia sẻ chân
tình, không cãi cọ, xích mích, trả thù vặt.
5.2. Ứng xử trong sinh hoạt đảm bảo tôn trọng sự yên tĩnh chung, không gây mất trật
tự an ninh, không gây ồn ào, mất vệ sinh chung
Điều 6. Ở nơi công cộng
6.1. Ứng xử ở nhà trường khi tham gia sinh hoạt chung đảm bảo đúng giờ, tác phong
nhanh nhẹn, không hò hét, hô gọi nhau ầm ĩ; đảm bảo nếp sống văn minh, không xô
đẩy, chen lấn, không khạc nhổ, vứt rác bừa bãi; không đi lại mất trật tự, không trèo,
ngồi lên lan can, bàn học
19
6.2. Ứng xử khi có mặt trong khu vực công cộng như trên đường, bến xe đảm bảo
cử chỉ, hành động lịch thiệp; nói xin lỗi khi làm phiền và cảm ơn khi được giúp đỡ;
không làm ồn, ngó nghiêng, chỉ trỏ, bình phẩm người khác.
6.3. Ứng xử khi đến các cơ quan, công sở đảm bảo thái độ lễ phép, lịch sự, thẳng

thắn, mạch lạc; không gây mất trật tự; nhã nhặn khi hỏi và cảm ơn khi được phục vụ.
6.4. Ứng xử khi sinh hoạt tập thể đảm bảo trật tự, ngăn nắp, tôn trọng mọi người, biết
nhường nhịn, chia sẻ, cảm thông.
Điều 7. Ở trong lớp học phải:
7.1. Trong thời gian ngồi học trong lớp đảm bảo đúng tư thế, tác phong nghiêm túc,
trật tự, tôn trọng thầy giáo, cô giáo và bạn cùng lớp; không làm các cử chỉ như: vò
đầu, gãi tai, ngoáy mũi, quay ngang ngửa, phát ngôn tùy tiện, nhoài người, gục đầu
xuống bàn,
7.2. Khi cần mượn, trả đồ dùng học tập phải có thái độ nghiêm túc, lời nói nhẹ nhàng,
không làm ảnh hưởng đến giờ học.
7.3. Khi trao đổi, thảo luận về nội dung bài học đảm bảo thái độ cầu thị, tôn trọng ý
kiến người khác, không gay gắt, chê bai những ý kiến khác với ý kiến bản thân.
7.4. Trước khi kết thúc giờ học đảm bảo tôn trọng thầy, cô giáo, không nôn nóng gấp
sách vở, rời chỗ ngồi để ra chơi, ra về; đảm bảo trật tự, không xô đẩy bàn ghế, giữ vệ
sinh chung.
7.5. Khi bản thân bị ốm đau đột xuất đảm bảo kín đáo, tế nhị và nói nhỏ với GV, hạn
chế làm ảnh hưởng đến mọi người; đảm bảo giữ vệ sinh cá nhân và tránh làm lây lan
bệnh cho người khác.
Quy tắc này áp dụng từ ngày 5 tháng 9 năm 2009 và là một trong các căn cứ để
đánh giá, xếp loại, khen thưởng học sinh hàng năm.
20
2. Danh sách học sinh lớp 5A đạt giải Giao lưu “Ôlimpic Toán Tuổi thơ” cấp
huyện do Phòng Giáo dục và Đào tạo Quỳ Hợp tổ chức năm học 2011 - 2012.
TT Họ và tên Đạt giải Ghi chú
1 Trần Văn Hiếu Giải Nhì Đứng bên trái hàng trước.
2 Vi Thanh Tú Giải Ba
Đứng bên phải hàng trước
3 Lữ Văn Trung Giải Ba
Đứng bên trái hàng sau
4 Sầm Hằng Vi Giải Ba

Đứng giữa hàng sau
5 Lương Thị Hường Giải khuyến khích
Đứng bên phải hàng sau
21
Ảnh + Giấy chứng nhận do PGD&ĐT Quỳ Hợp cấp cho học sinh
3. Danh sách HS lớp 5A đạt giải Giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cấp
huyện do Phòng Giáo dục và Đào tạo Quỳ Hợp tổ chức năm học 2011 - 2012.
TT Họ và tên Đạt giải Ghi chú
1 Trương Thị Ngọc Diễm Giải Nhất Đứng thứ nhất từ trái sang.
2 Lương Thị Hường Giải Nhất
Đứng thứ hai từ trái sang.
3 Sầm Hằng Vi Giải Nhì
Đứng thứ ba từ trái sang.
4 Trương Thị Hồng Vi Giải Ba
Đứng thứ tư từ trái sang.
22
Ảnh + Giấy chứng nhận do PGD&ĐT Quỳ Hợp cấp cho học sinh
4. Danh sách học sinh lớp 5A đạt giải cuộc thi “Viết chữ đẹp” cấp huyện do
Phòng Giáo dục và Đào tạo Quỳ Hợp tổ chức năm học 2011 - 2012.
TT Họ và tên Đạt giải Ghi chú
1 Trương Thị Thủy Giải Nhất Đứng thứ nhất từ trái sang.
2 Sầm Hằng Vi Giải Nhì
Đứng thứ hai từ trái sang.
3 Lương Thị Hường Giải Ba
Đứng thứ ba từ trái sang.
4 Trương Thị Hồng Vi Giải Ba
Đứng thứ tư từ trái sang.
23
Ảnh + Bài viết của học sinh

×