Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh đề tài “ kinh doanh theo hình thức franchise”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.98 KB, 38 trang )

Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ

BÁO CÁO
Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh
Đề tài : “ Kinh doanh theo hình thức Franchise”
GVHD

: Th.s Nguyễn Quang Chương

Sinh viên thực hiện

: Lê Thị Duyên

Lớp

: KTCN - K55

MSSV

: 20106251

Hà Nội , 10 - 2013
SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 1


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN


ntents

MỤC LỤC

Lời Mở Đầu.
Bạn có thể đến bất kỳ một nước nào trên thế giới cũng có thể một loại gà rán
KFC hay một loại bánh Mc Donald như nhau. Những nhãn hiệu nổi tiếng này đã trở thành
quen thuộc với người tiêu dùng trên thế giới. Tuy nhiên ít ai để ý rằng bí quyết thành
công của họ là phương thức kinh doanh Franchise.
Franchise_Phương thức kinh doanh của tương lai.Franchise khởi nguồn từ Hoa
Kì giữa thế kỉ 19. Hơn 550000 franchisie với doanh thu lên tới 1503 tỷ USD, chiếm 40%
tổng doanh thu bán lẻ của nước này. Trung bình cứ 12 phút lại có 1 Franchise ra đời. Ở
Anh , Franchise là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với
khoảng 32000 doanh nghiệp nhượng quyền. Doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ bảng Anh, thu hút

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 2


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
317000 lao động và chiếm 29% thị phần bán lẻ. Điều đó như một minh chứng cho sức
mạnh của franchise_ phương thức đầu tư khôn ngoan và chắc chắn nhất.
Franchise là hình thức kinh doanh mới đã tạo nên bức tranh sống động của nền
kinh tế thế giới. Hình thức này khơng ngừng mở rộng và phát huy tính hiệu quả trong
kinh doanh.
Trong điều kiện Việt Nam ra nhập WTO, hàng loạt các tập đoàn bán lẻ, đồ ăn
nhanh ồ ạt chạy vào Việt Nam với hình thức franchisie. Thêm vào đó, Franchisie đã q
thành cơng ở Mĩ và Châu Âu. Tại sao đó lại khơng thể là ở Châu Á_tại Việt nam? Tại sao
chúng ta lại không nắm bắt những phương thức kinh doanh được coi là rất thành cơng

này. Đón đầu để khơng bị thua thiệt - dó là lý do em chọn đề tài nghiên cứu về Franchise.
Vậy Franchisie là gì? Doanh nghiệp kinh doanh Franchise sẽ được hưởng những
lợi ích gì, làm thế nào để thành cơng với hình thức kinh doanh mới mẻ này?...
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Nguyễn Quang Chương đã hướng dẫn
và gợi ý đề tài cho em !

Chương 1 : Cơ sở lý thuyết về nhượng quyền kinh doanh
1. 1 Khái niệm franchise và sự ra đời của franchise
1.1.1 Sự ra đời của Franchise
Nguồn gốc của franchise theo nhiều tài liệu nghiên cứu được cho là bắt đầu từ
Trung Quốc nhưng thực sự đã có từ thời Trung cổ (tức là vào khoảng những năm 400
trước công nguyên). Trải qua nhiều thế kỷ, franchise đã phát triển giống như một hệ thống
kinh tế quốc gia ở các nước phát triển. Hoạt động franchise được thừa nhận phát triển một
cách chính thức và hồn chỉnh là tại Mỹ vào giữa thế kỷ 19 (năm 1851) khi mà Nhà máy
Singer (sản xuất máy khâu) kí kết hợp đồng franchise đầu tiên với đối tác của mình. Từ

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 3


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
những năm 50-60 trở đi, khi franchise không chỉ dừng lại ở nhượng quyền phân phối sản
phẩm mà đã phát triển thành nhượng quyền công thức kinh doanh, phương thức franchise
hiện đại ngày nay, thì nó thực sự phát triển mạnh. Sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà
hàng, khách sạn và các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất
về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ
thống kinh doanh theo phương thức này.
Từ những năm 60, franchise trở thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành
công khơng chỉ tại Mỹ mà cịn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp... Ngày nay,

franchise đã có mặt tại hơn 150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn
cửa hàng kinh doanh theo phương thức nhượng quyền. Các tổ chức, hiệp hội franchise
quốc tế cũng như quốc gia đã lần lượt ra đời nhằm bảo vệ lợi ích cho các bên tham gia và
đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của phương thức kinh doanh này.

1.1.2 Khái niệm Franchise
Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh đã được nhiều nước trên
thế giới áp dụng. Đã có nhiều khái niệm được nêu ra của nhiều trường phái khác nhau
nhằm giải thích, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện họat động kinh doanh nhượng
quyền đạt hiệu quả. Tuy nhiên, do sự khác biệt về quan điểm và mơi trường kinh tế, chính
trị, xã hội giữa các quốc gia, nên các khái niệm này thường khác nhau.
Một số khái niệm về Franchise:
Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise
Association) là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế giới đã nêu ra Khái niệm nhượng quyền
thương mại như sau: "Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa
Bên giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên
tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh(knowhow), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức,
phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ
tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình".
Khái niệm của Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US Federal Trade
Commission - FTC): Khái niệm một hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng
theo đó Bên giao:

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 4


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
(i) hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt

chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận.
(ii) li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu
hàng hóa của Bên giao và
(iii) yêu cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản phí tối thiểu.
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là
liên minh Châu Âu EU). Khái niệm quyền thương mại là một "tập hợp những quyền sở
hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển
hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ
được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng".
Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được Khái
niệm ở trên.
Khái niệm về nhượng quyền thương mại của Mêhico: Luật sở hữu công nghiệp của
Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy định:
Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một
thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật để
một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các
phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương mại hoặc hành chính
đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng
(prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó."
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Nga: Chương 54, Bộ luật dân sự Nga
Khái niệm bản chất pháp lý của "sự nhượng quyền thương mại" như sau:
Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho
bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn,
quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các
quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại,
quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 5



Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ,.." => Tất cả các khái niệm về
nhượng quyền thương mại trên đây đều dựa trên quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại
mỗi nước
=>Franchise là phương thức kinh doanh mà theo đó bên nhượng quyền
(Franchisor, doanh nghiệp sản xuất, mua bán hoặc dịch vụ) cho phép bên nhận
quyền (Franchisee, doanh nghiệp kinh doanh độc lập) sử dụng nhãn hiệu hàng hóa,
khẩu hiệu kinh doanh và bí quyết kinh doanh hoặc quy trình vận hành hệ thống
kinh doanh. Ngược lại, bên nhận quyền phải trả phí ban đầu bao gồm: phí nhượng
quyền (Franchise fee), phí lãnh thổ (territorial fee) trong trường hợp kí hợp đồng
qua bên nhượng quyền của khu vực) và phí bản quyền (royalty fee) khi kinh doanh
hoặc cũng có một số hệ thống nhượng quyền thu phí cố định trả một lần trong thời
gian nhượng quyền. Bên nhượng quyền sẽ đem lại cho bên nhận quyền sử dụng
nhãn hiệu. Tuy nhiên, bên nhận quyền vẫn phải chịu sự kiểm soát trong q trình
kinh doanh dưới nhãn hiệu đã đăng kí.
Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam:
Luật Thương mại 2006 (có hiệu lực ngày 01/01/2006) lần đầu tiên quy định về
NQTM. Điều 284 quy định: “Nhượng quyền thương mại” là hoạt động Thương mại, theo
đó Bên Nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây :
• Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức

tổ chức kinh doanh do Bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa,
tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
quảng cáo của Bên nhượng quyền.
• Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền

trong việc điều hành công việc kinh doanh.

Các khái niệm trên về nhượng quyền thương mại đều dựa trên quan điểm cụ thể
của các nhà làm luật mỗi nước. Tuy nhiên, có thể thấy rằng điểm chung trong tất cả

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 6


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
những khái niệm này là việc một bên độc lập (Bên nhận) phân phối (marketing) sản
phẩm, hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí
tuệ, và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một bên khác (Bên giao) phát triển và sở hữu. Để
được phép làm việc này, bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn chế do bên
giao quy định.
Các quốc gia trên thế giới đã hình thành và phát triển một cách hợp lý các vấn đề
pháp lý liên quan tới họat động nhượng quyền. Do vậy, những cái tên như: Kentucky,
Burger Khan, Five Star Chicken, Jollibee, Carvel, Baskin Robbins, Texas Chicken,
Kentucky Fried Chicken, Hard Rock Café, Chili's không những chỉ xuất hiện tại các nước
sở tại mà còn vươn xa đến rất nhiều nước trên thế giới trở thành những hệ thống nhượng
quyền tòan cầu.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của các hệ thống nhượng quyền quốc tế, đã
xuất hiện các hệ thống nhượng quyền của Việt Nam như: Cà phê Trung nguyên, Phở 24,
Qualitea, Hệ thống chuỗi Bakery Kinh Đô... đã làm cho bức tranh thị trường của Việt
Nam càng trở nên hấp dẫn. Đến nay, Luật thương mại có hiệu lực ngày 1.1.2006 tại mục
8, điều 284 đã đề cập đến khái niệm nhượng quyền thương mại như sau:
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép
và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
theo các điều kiện sau đây:
(1) Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức
kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hố, tên

thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng
cáo của bên nhượng quyền;
(2) Bên nhượng quyền có quyền kiểm sốt và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc
điều hành kinh doanh

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 7


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
Sự khác nhau cơ bản trong các quan điểm về nhượng quyền thương mại ở trên xuất
phát từ quan điểm của các nhà làm luật tại từng quốc gia nhưng về cơ bản các định nghĩa
đều chung nhau ở điểm sau:
(1)Nhượng quyền thương mại về bản chất là mối quan hệ hợp đồng giữa hai bên độc lập
(bên giao quyền và bên nhận quyền)
(2)Mỗi bên trong một hợp đồng nhượng quyền thương mại đều có quyền lợi và nghĩa vụ
cụ thể. Bên nhận quyền được phép kinh doanh,phân phối sản phẩm,dịch vụ dưới nhãn
hiệu hàng hóa và phương thức kinh doanh do bên giao quyền phát triển và sở hữu.đổi lại
bên nhận phải trả phí cho bên giao và chấp nhận một số hạn chế do bên giao quy định.
(3)Chức năng của mỗi bên trong hệ thống nhượng quyền được phân biệt rõ rệt. Bên giao
đảm nhiệm vai trị chính trong việc phát triển hệ thống về thương hiệu, chuẩn hóa các quy
định, hỗ trợ về huấn luyện, quảng cáo và các điều kiện cần thiết khác để bên nhận triển
khai hoạt đông kinh doanh tốt nhất. Bên nhận chịu trách nhiệm trực tiếp triển khai, điều
hành hoạt động kinh doanh bằng vốn của mình dưới sự hỗ trợ thường xuyên của bên giao.

1.2. Hình thức của franchaise
Trong thực tiễn, Franchise là một phương thức kinh doanh có rất nhiều hình thức.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, người ta thường
phân chia franchise theo bản chất và hình thức hoạt động (hình thức bán franchise) của

nó.
• Theo bản chất hoạt động, có hai hình thức franchise sau:
- Nhượng quyền phân phối sản phẩm (Product distribution franchise)
Trong hình thức này, bên nhượng quyền sản xuất ra các sản phẩm sau đó bán lại sản
phẩm cho bên nhận quyền và bên nhận quyền sẽ phân phối trực tiếp sản phẩm tới người
tiêu dùng dưới thương hiệu của bên nhượng quyền. Bên nhận quyền thường không nhận
được sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía bên nhượng quyền ngoại trừ việc được phép sử dụng
thương hiệu (brand name), biểu tượng (logo), khẩu hiệu (slogan) và phân phối sản phẩm
của bên nhượng quyền trong một phạm vi khu vực và thời gian nhất định.

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 8


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
-

Nhượng quyền công thức kinh doanh (Business format franchise)

Theo hình thức này, bên nhận quyền ngồi việc bán hàng hóa, dịch vụ với thương hiệu
của bên nhượng quyền cịn được giao cả bí quyết sản xuất, bí quyết kinh doanh, cơng thức
điều hành quản lí. Các chuẩn mực của mơ hính kinh doanh phải tuyệt đối được giữ đúng.
Mối liên hệ và hợp tác giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền phải rất chặt chẽ và
lien tục. Hình thức nhượng quyền cơng thức kinh doanh được xem là hình thức nhượng
quyền phổ biến và hiệu quả nhất hiện nay.


Theo hình thức hoạt động, có ba hình thức franchise sau:
- Đại lí Franchise độc quyền (Master franchise):


Đây là hình thức mà trong đó bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều ở các quốc gia
khác nhau. Bên mua được phép độc quyền kinh doanh và phân phối hàng hóa tại một khu
vực nhất định, có thể là trong phạm vi một thành phố hay một quốc gia. Đổi lại, bên mua
sẽ phải trả một khoản phí franchise ban đầu cao hơn nhiều so với hợp đồng mua franchise
riêng lẻ.
-

Franchise phát triển khu vực (Area development franchise)

Đây là hình thức mà người mua franchise được độc quyền mở rộng và điều hành một số
lượng đơn vị kinh doanh theo đúng thỏa thuận trong phạm vi một lãnh thổ nhất định và
không được nhượng quyền cho bên thứ ba. Bên nhận quyền sẽ thực hiện các nhiệm vụ, kế
hoạch đã được bên nhượng quyền định trước. Mỗi đơn vị kinh doanh do bên nhận quyền
thiết lập đều không có tư cách pháp nhân và hạch tốn phụ thuộc vào bên nhận quyền.
-

Bán franchise cho từng cá nhân riêng lẻ (single unit franchise)

Đây là hình thức phổ biến nhất và được áp dụng đối với các quốc gia nằm cùng một khu
vực và chủ thương hiệu khơng có nhu cầu phải bán nhiều franchise. Chủ thương hiệu có
thể dễ dàng kiểm sốt tính đồng bộ và chất lượng của các cửa hàng nhượng quyền. Ngược
lại, chủ thương hiệu phải có một bộ máy quản lí cực kỳ chun nghiệp và khá là đồ sộ, từ
khâu nhân sự, quản trị đến đội ngũ hậu cần.

1.3. Những nhân tố cơ bản khi triển khai phương thức Franchise
- Bản sắc thương hiệu: Bản sắc thương hiệu là giá trị cốt l.i và đặc trưng của thương hiệu,
là dấu ấn tồn tại trong tâm trí khách hàng một cách sâu đậm nhất và tạo nên khác biệt so
với các thương hiệu khác.


SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 9


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
- Vị trí: Đối với các cửa hàng kinh doanh nhượng quyền, địa điểm là đòi hỏi khó khăn
nhất trong việc lựa chọn người được nhượng quyền. Một doanh nghiệp có địa điểm tốt
nghĩa là doanh nghiệp đó đãcó 50% cơ hội thành cơng.
- Nỗ lực tiếp thị: Các thương hiệu nhượng quyền phần lớn có ngân sách tiếp thị giành
riêng cho mình. Nhiều mơ h.nh nhượng quyền đòi hỏi những qui luật tiếp thị khá đặc biệt
và có sự kết hợp giữa người nhượng quyền và người được nhượng quyền. Tùy thuộc vào
loại hình kinh doanh được chọn, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức tiếp thị và
quảng cáo phù hợp nhất.
- Chiến lược dài hạn: Một đại lí nhượng quyền cũng cần khoảng 2 đến 3 năm trước khi
thấy được lợi nhuận, và nếu khơng có kế hoạch đầy đủ thì bản thân doanh nghiệp đó sẽ bị
nuốt chửng trước khi có cơ hội thành công.
- Quản lý con người: Khả năng quản lý con người rất cần thiết trong lĩnh vực kinh
doanh nhượng quyền thương mại bởi nó địi hỏi sự hợp tác và tin cậy lẫn nhau của các
thành viên tham gia.

1.4.Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại. Việc xác định đấy là một
hoạt động thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định mục đích sinh lợi của
hoạt động này. Xác định luật áp dụng là luật thương mại và xác đinh cơ quan tài phán
trong trương hợp có tranh chấp, trong trường hợp này là tịa kinh tế.
- Nhượng quyền thương mại được thể hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng nhượng
quyền thương mại là văn bản xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia
giao dịch. Hợp đồng sẽ quy định những gì bên nhượng quyền cũng như bên nhận quyền
được phép làm và có nghĩa vụ phải làm. Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương

mại đặc trưng mà nội dung của nó bao hàm nhiều vấn đề nêu trong nhiều văn bản pháp lý
khác nhau như vấn đề về sở hữu trí tuệ nêu trong luật dân sự, luật sở hữu trí tuệ, vấn đề về
quảng cáo nêu trong pháp lệnh quảng cáo…
- Bên nhượng quyền là bên đang sở hữu hoặc đang kiểm soát một phương thức kinh
doanh và đối tượng của sở hữu trí tuệ liên quan đến việc kinh doanh. Để có thể nhượng

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 10


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
quyền, bên nhượng quyền phải đang sở hữu hoặc kiểm sốt một phương thức kinh doanh
có hiệu quả cùng với đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến phương thức kinh doanh đó.
- Bên nhận quyền là một bên độc lập so với bên nhượng quyền. Đây là một nét đặc
trưng riêng của nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền có quan hệ về sở hữu đối với
bên nhượng quyền. Quan hệ giữa hai bên là quan hệ hợp đồng thương mại và bên nhận
quyền phải trả phí cho những dịch vụ mà bên nhượng quyền cung cấp và bên nhận quyền
tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình.
- Việc nhượng quyền nhằm thực hiện các hoạt động phân phối hàng hóa và dịch vụ,
không điều chỉnh các hoạt động liên quan đến li-xăng công nghiệp.
- Bên cạnh việc chuyển giao cho bên nhận quyền phương thức kinh doanh và quyền sử
dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ ở giai đoạn ban đầu, bên nhượng quyền cịn có quyền và
nghĩa vụ kiểm soát và trợ giúp đáng kể, thường xuyên hoạt động kinh doanh của bên nhận
quyền. Đặc trưng này giúp phân biệt nhượng quyền thương mại với chuyển giao công
nghệ và li-xăng thông thường khác.
- Bên nhận quyền phải trả phí cho việc nhượng quyền,phí nhượng quyền bao gồm phí
ban đầu và phí định kì. Ngồi ra bên nhận quyền cịn có nghĩa vụ tài chính khác như đóng
góp tiền quảng cáo, tham gia các hoạt động khuyến mãi chung, trả tiền cho các dịch vụ
khác do bên nhượng quyền cung cấp.


1.5. Ưu điểm, nhược điểm của Franchise
1.5.1 Ưu điểm
1.5.1.1 Đối với bên nhượng quyền
Một là - tiết kiệm nguồn vốn. Vốn luôn là một mối lo ngại lớn nhất khi muốn mở
rộng hoạt động kinh doanh. Trong tình hình đa số các doanh nghiệp Việt Nam là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nếu phân theo chỉ tiêu lao động thì có tới 80% doanh nghiệp sử dụng
dưới 300 lao động, cịn theo vốn thì có tới 90% dưới 5 tỷ thì nhượng quyền thương mại là
phương thức phù hợp nhất và mang lại hiệu quả cao. Nhưng trong hệ thống nhượng

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 11


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
quyền thì người bỏ vốn ra để mở rộng hoạt động kinh doanh chính là bên nhận quyền.
Điều này có thể giúp cho bên nhượng quyền mở rộng hoạt động kinh doanh bằng vốn của
ngưới khác và giảm chí phí xâm nhập thị trường
Hai là - mở rộng hoạt động kinh doanh một cách nhanh chóng. Hình thức
nhượng quyền thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh,
xấy dựng sự hiện diện ở khắp mọi nơi một cách nhanh chóng với hàng trăm cửa hàng ở
trong và ngồi nước mà khơng một hình thức kính doanh nào có thể làm được. Ví dụ như
Mc Donald’s, tính tới thời điểm cuối năm 2007,có tổng số 31000 nhà hàng tại 119 quốc
gia, trong đó có tới 78% số cửa hàng là do nhượng quyền và chỉ có 22% là cửa hàng do
cơng ty lập nên.
Ba là - thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu. Việc mở rộng thương hiệu và sự
xuất hiện ở khắp mọi nơi sẽ đưa ra hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm trí khách hàng
một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó vì chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất nhiều
cửa hàng, cho nên chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh sẽ rất nhỏ. Giúp cho bên

nhượng quyền xây dựng được một ngân sách quảng cáo lớn. Đặc biệt tạo dựng được hình
ảnh của thương hiệu đối với khách hàng giúp cho bên nhượng quyền và nhận quyền ngày
càng thu được nhiều lợi nhuận.
Bốn là - tối đa hóa thu nhập. Khi nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả tiền
bản quyền thuê thương hiệu và tiền phí kinh doanh với tên và hệ thống của bên nhượng
quyền, bên nhận quyền còn phải mua sản phẩm và nguyên liệu của bên nhượng quyền
nhờ đó mà bên nhượng quyền có thể tối đa hóa được thu nhập của mình. Chủ thương hiệu
có thể nhận được các khoản tiền sau đấy từ việc bán franchise:
- Phí chuyển nhượng quyền ban đầu: phí này chỉ được tính một lần. Đấy là khoản phí
hành chính, đào tạo, chuyển giao phương thức kinh doanh cho bên mua franchise
- Phí hàng tháng: là phí mà bên mua franchise phải trả cho việc duy trì nhãn hiệu,
thương hiệu của bên bán franchise và dịch vụ hỗ trợ mang tích chất tiếp diễn liên tục như

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 12


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
việc huấn luyện nhân viên, tiếp thị, quảng bá, nghiên cứu….phí này có thể là khoản phí
cố định theo sự thỏa thuận của hai bên hoặc tính theo phần trăm trên doanh số của bên
mua franchise và thường dao động trung bình từ 3 - 6% tùy vào loại sản phẩm mơ hình
và lĩnh vực kinh doanh còn ở Việt Nam từ 2 – 3% mức phí trên tổng doanh thu của các
franchisor Việt Nam : Trung Nguyên 2%, Phở 24 là 3%, Tapiocups là 2%
- Tiền bán hàng nguyên liệu đặc thù: Nhiều chủ thương hiệu yêu cầu các đối tác mua
franchise của mình phải mua một số nguyên liệu đặc thù do mình cung cấp, để đảm bảo
tính đồng bộ của sản phẩm và mang lại nguồn thu cho mình. Ví dụ như Mc Donald’s
cung cấp và bán cho các cửa hàng nhượng quyền của mình khoai tây chiên, pho mát, bánh
táo….
Năm là - tận dụng nguồn nhân lực. Bên nhận quyền sẽ là người bỏ vốn ra kinh

doanh điều này tạo động lực cho họ làm việc tốt hơn. Vì khi bên nhận quyền họ là chủ
nên họ sẽ làm việc có trách nhiệm hơn. Vì vậy bên nhượng quyền tận dụng được nguồn
lực từ phía bên nhận quyền và đặc biệt bên nhận quyền có thể tiếp cận những địa điểm mà
bên nhượng quyền khơng thể tiếp cận được và họ cịn nắm vững thông tin về địa phương
hơn bên nhượng quyền
1.5.1.2 Đối với bên nhận quyền
Một là giảm thiểu rủi ro. Mục đích chủ yếu của nhượng quyền chính là giảm thiểu
rủi ro. Việc mở cửa hàng, cở sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỉ lệ thất bại cao do
những người quản lý là những người mới bước vào nghề, khơng có kinh nghiệm và phải
mất nhiều thời gian để học hỏi các đặc trưng của từng loại hình kinh doanh. Khi tham gia
vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt
các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành cơng của loại hình kinh doanh đặc thù mà bên
nhượng quyền đã tích lũy được từ những lần trải nghiệm trên thị trường. Bên nhận quyền
không phải trải qua giai đoạn xây lắp và phát triển ban đầu, bên nhượng quyền sẽ hướng
dẫn bên nhận quyền những nguyên tắc chung. Theo kết quả nghiên cứu thì 90% các cơng
ty hoạt động theo mơ hình nhượng quyền thương mại tiêp tục hoạt động sau 10 năm trong

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 13


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
khi 82% công ty độc lập phải đóng cửa, dưới 5% cơng ty hoạt động theo mơ hình nhượng
quyền thương mại thất bại trong năm đầu tiên so với tỷ lệ 38 ở các công ty độc lập.
Hai là - được sử dụng thương hiệu của bên nhượng quyền. Muốn tồn tại trên thị
trường thì việc tạo dựng một thương hiệu nổi tiếng được khách hàng tin cậy và nhớ đến là
vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp. Thương hiệu hay uy tín của nhãn hiệu là bộ mặt của
cơng ty có vai trị quan trọng đối với khách hàng khi họ mua sản phẩm nào.
Ba là - tận dụng các nguồn lực. Bên nhận quyền chỉ tập trung vào việc điều hành

hoạt động kinh doanh, phần còn lại như xây dựng chiến lược tiếp thị, quy trình vận hành
chiến lược kinh doanh sẽ do bên nhượng quyền đảm trách và chuyển giao.
Bốn là - được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi. Bên nhượng quyền ln
có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên nhận quyền. Nâng
cao sức cạnh tranh của bên nhận quyền trên thị trường. Nếu thị trường có biến động lớn
như việc khan hiếm nguồn hàng thì bên nhượng quyền sẽ ưu tiên phân phối cho bên nhận
quyền trước, giúp cho bên nhận quyền ổn định đầu vào mà bất cứ hình thức kinh doanh
nào cũng không làm được
Năm là - dễ vay tiền ngân hàng. Do khả năng thành công cao nên các ngân hàng
thường tin tưởng cho các doanh nghiệp mua nhượng quyền vay tiền đầu tư. Trên thực tế
thì chủ thương hiệu thường đứng vai trò cầu nối giúp người mua franchise mượn tiền
ngân hàng hoặc chính mình đứng ra cho vay, nhằm phát triển và nhân rộng mơ hình kinh
doanh nhanh hơn. Điều này chưa xảy ra tại Việt Nam do hình thức kinh doanh chưa phổ
biến và chủ trương cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ của hệ thống ngân hàng còn
nhiều giới hạn.

1.5.2 Nhược điểm của Franchise
Nhược điểm lớn nhất của nhượng quyền chính là sự phụ thuộc:
Đối với Bên bán nhượng quyền:


Uy tín và thương hiệu của sản phẩm cũng như doanh nghiệp sẽ bị phụ

thuộc vào sự lớn mạnh của đối tác mua nhượng quyền.

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 14



Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
Việc hỗ trợ xây dựng các đối tác mua nhượng quyền sẽ suy giảm tính chủ



động trong nguồn vốn tài chính nếu có vấn đề xảy ra.


Việc quản lý chất lượng sản phầm cũng khó khăn hơn.



Bảo vệ bí quyết kinh doanh, quản lý đều khó khăn hơn.



Cần có hợp đồng nhượng quyền hợp lý và chặt chẽ thì mới tạo điều kiện

linh hoạt cho bên mua nhượng quyền phát triển đồng thời không ảnh hưởng tới bên bán
nhượng quyền.
Đối với bên mua nhượng quyền:
Giảm tính linh hoạt trong hoạt động phân phối sản phẩm, điều chỉnh giá



cả nhất là khi các địa phương và các khách hàng cần có những chiến lược giá khác nhau.


Phụ thuộc vào các ràng buộc với bên bán nhượng quyền




Nếu như bên bán nhượng quyền gặp vấn đề bất lợi thì bên mua nhượng

quyền cũng bị ảnh hưởng.
Ngồi ra, hợp đồng nhượng quyền khơng chặt chẽ sẽ gây khó khăn cho doanh
nghiệp, khó thích nghi với tình hình trượt giá của thị trường hơn nếu khơng có điều chỉnh
giá và chia phần lợi nhuận hợp lý.

1.6. Pháp luật điều chỉnh về nhượng quyền
Thế giới:
Dựa trên sự khác nhau trong việc quản lý điều chỉnh các hoạt động nhượng quyền
kinh doanh, có ba quan điểm khác nhau trong việc điều chỉnh hành vi nhượng quyền
thương mại:
- Nhóm các nước với hệ thống pháp luật bắt buộc (hoặc khuyến khích sự tự
nguyện) công khai chi tiết nội dung của thoả thuận nhượng quyền kinh doanh như: Úc,
Trung Quốc, Pháp, Inđônêxia, Ý, Nhật, Đài Loan, Mỹ... Các nước này dựa trên quan
điểm: Nhượng quyền có ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế, nhượng quyền được xây dựng
trên mối quan hệ khơng bình đẳng giữa các bên tham gia biểu hiện qua sự khơng bình

SVTH: Lê Thị Dun – KTCN K55

Page 15


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
đẳng về thông tin, về quyền lực; chính phủ có xu hướng thúc đẩy sự phát triển của loại
hình nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế.
- Nhóm các nước điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại trên tinh
thần tự nguyện. Ví dụ như Quy chế Đạo đức của Hiệp hội Nhượng quyền Thương mại

châu Âu được các nước thành viên thơng qua và có hiệu lực ràng buộc các bên nhượng
quyền là thành viên. Nhóm này cho rằng: Nhượng quyền có ý nghĩa to lớn trong nền kinh
tế, nhượng quyền được xây dựng trên mối quan hệ khơng bình đẳng giữa các bên tham
gia, tuy nhiên biểu hiện của sự khơng bình đẳng là không nghiêm trọng và các tổ chức
nghề nghiệp, các quy tắc đạo đức có thể điều chỉnh khá đầy đủ quan hệ này. Sự can thiệp
của pháp luật là không cần thiết, chính phủ có quan tâm đến loại hình nhượng quyền
thương mại trong nền kinh tế nhưng khơng có chủ trương điều chỉnh theo định hướng
kinh tế quốc gia
- Nhóm các nước khơng điều chỉnh nhượng quyền kinh doanh các nước này cho
rằng: Nhượng quyền thương mại khơng có ý nghĩa nhiều đối với nền kinh tế; không cần
thiết phải có các quy định về luật pháp để điều chỉnh hành vi này, đây là một quan hệ dân
sự bình thường trong xã hội, các bên tham gia tự thoả thuận và sử dụng pháp luật dân sự
làm khung pháp lý.
= >Tuy nhiên, xu hướng điều chỉnh hoạt động nhượng quyền ngày càng gia tăng.
Việt Nam :
Ở Việt Nam, nhượng quyền thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật. Hiện
nay, việc điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại được quy định chủ yếu tại:
- Luật Thương mại 2005 (Chương VI – Mục 8 về nhượng quyền thương mại).
- Nghị định 35/2006/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 31/3//2006 để quy
định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
- Thông tư 09/2006/TT-BTM do Bộ Thương mại ban hành ngày 25/5/2006 để
hướng dẫn thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 16


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
Ngoài ra, nếu việc nhượng quyền thương mại có liên quan đến việc chuyển giao

quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ, thì cịn phải chịu sự điều
chỉnh bổ sung của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật Chuyển giao cơng nghệ 2006.
Trước đây, theo pháp luật Việt Nam thì hoạt động Franchise được gọi chính thức
là cấp phép đặc quyền kinh doanh thuộc hoạt động chuyển giao cơng nghệ có đối tượng
sở hữu cơng nghiệp. Do đó, hoạt động nhượng quyền này vừa phải đăng ký Hợp đồng
chuyển giao công nghệ. Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng; các đối
tượng sở hữu công nghiệp theo quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp mà cả 2 loại
hợp đồng này đều do cơ quan thuộc Bộ Khoa học công nghệ quản lý.
Hiện nay, Luật Thương mại (năm 2005) xác định rõ: Franchise là nhượng quyền thương
mại, là hoạt động thương mại (không phải là chuyển giao công nghệ như trước đây, điều
này phù hợp với tập quán thương mại thế giới). Và trước khi nhượng quyền thương mại,
Bên dự kiến nhượng quyền phải đăng ký với Bộ Thương mại thay cho việc đăng ký tại
Cục Sở hữu Trí tuệ như trước.

Chương 2: Thực trạng nhượng quyền thương mại
2.1 Trên thế giới
Nhượng quyền thương mại được thế giới nhìn nhận là khởi nguồn tại Mỹ nhưng
thực tế đã hình thành trước đó tại Trung Quốc với hình thức có 2 – 3 điểm bán lẻ cùng
hình thức tại một số địa điểm khác nhau cùng kinh doanh. Năm 1840, các nhà sản xuất
bia của Đức cho phép một vài quán bia quyền bán sản phẩm của họ. Năm 1851, lần đầu
tiên trên thế giới nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ ký cho thực hiện hợp đồng
nhượng quyền kinh doanh. Singer đã ký hợp đồng nhượng quyền và trở thành người tiên
phong trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền. Năm 1880 bắt đầu nhượng quyền
bán sản phẩm cho các đại lý độc quyền trong lĩnh vực xe hơi, dầu lửa, gas. Trong thời
gian này, phạm vi hoạt động nhượng quyền chỉ là chuyển quyền phân phối và bán sản
phẩm của các nhà sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hình thức này đã thực sự phát
triển rất mạnh mẽ. Sự bùng nổ dân số sau chiến tranh đã kéo theo sự tăng vọt nhu cầu về

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55


Page 17


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
các loại sản phẩm và dịch vụ và lúc này, nhượng quyền đã trở thành mô hình kinh doanh
thích hợp để phát triển nhanh chóng trong ngành công nghiệp thức ăn nhanh và khách
sạn. Vào thập niên 60-70, nhượng quyền bùng nổ và phát triển mạnh ở Mỹ, Anh và một
số nước khác.
Ngày nay, quá trình tồn cầu hóa trên thế giới diễn ra rất nhanh và mạnh trong tất
cả các lĩnh vực. Hình thức nhượng quyền càng phát huy vai trị của nó trên tồn thế giới.
Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12 phút lại có 1 hệ thống nhượng quyền mới ra đời. Ở
Mỹ, 90% cơng ty kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động
sau 10 năm trong khi 82% cơng ty độc lập phải đóng cửa và cũng chỉ có 5% cơng ty theo
hợp đồng thương hiệu thất bại trong năm đầu tiên so với 38% công ty độc lập. Điều đó
cho thấy sự bùng nổ hình thức này trên thế giới là điều tất yếu.
Một số kết quả thực sự ấn tượng của hệ thống này mang lại trên thế giới : Doanh
thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên toàn thế giới năm 2000 đạt 1.000 tỷ USD
với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác nhau. Nếu so sánh với GDP của Việt Nam
cùng năm thì hệ thống này gấp trên 28 lần và cịn có dấu hiệu vượt hơn nữa trong những
năm gần đây. Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm trên 40% tổng mức bán lẻ, thu hút
được trên 8 triệu người lao động tứ là 1/7 tổng lao động ở Mỹ và có hơn 550.000 cửa
hàng nhượng quyền và cứ 8 phút lại có một cửa hàng nhượng quyền mới ra đời.
Ở Châu Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương mại; với
167.500 cửa hàng nhượng quyền thương mại, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro. Tạo ra
hơn 1.5 triệu việc làm. Ở Anh, nhượng quyền thương mại là một trong những hoạt động
tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với khoảng 32.000 DN nhượng quyền, doanh thu
mỗi năm 8,9 tỷ bảng Anh. Khu vực nhượng quyền thương mại cũng thu hút một lượng
lao động lớn với khoảng 317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần bán lẻ.
IFA cho hay, nhượng quyền kinh doanh thương hiệu riêng ở khu vực châu Á đã tạo
doanh thu hơn 50 tỷ USD mỗi năm.

Ở Thái Lan số hợp đồng nhượng quyền đang tăng rất nhanh, trong đó có tới 67%
thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, với số vốn ban đầu cho mỗi hợp đồng 20.00065.000 USD. Bộ thương mại cơng bố chương trình khuyến khích và quảng bá thương
hiệu nội địa ra thị trường quốc tế qua nhượng quyền thương mại. Được hỗ trợ đào tạo

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 18


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
trung và ngắn hạn về công nghệ nhượng quyền thương mại. Bước đầu: năm 2004 đạt 25
triệu Baht, năm 2005 tăng 10% tương tự các năm tiếp theo.
Tại Nhật Bản, nhượng quyền thương mại phát triển mạnh từ năm 1996, đến năm
2004 đó cú 1.074 hệ thống nhượng quyền thương mại và 220.710 cửa hàng nhận quyền
thương mại, doanh thu từ công nghệ nhượng quyền thương mại là khoảng 150 tỉ USD,
tăng trưởng hàng năm 7%.
Từ năm 1980, nhượng quyền thương mại vào Trung Quốc. Đến năm 2004, nước
này đó cú 2.100 hệ thống nhượng quyền (nhiều nhất thế giới), với 120.000 cửa hàng
nhượng quyền trong 60 lĩnh vực khác nhau. Biểu đồ tăng trưởng hoạt động nhượng quyền
của Trung Quốc dựng đứng kể từ khi nước này gia nhập WTO. Từ năm 2000, tại Trung
Quốc, bình quân mỗi năm hệ thống nhượng quyền tăng 38% vượt xa mức tăng trưởng
10%/năm của hàng tiêu dùng, các cửa hàng nhận nhượng quyền tăng 55%. Đặc biệt, hệ
thống nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp Trung Quốc cạnh tranh ngang hàng
với thương hiệu nhượng quyền nổi tiếng của nước ngồi.
Ở Malaysia, nhìn thấy lợi ích của nhượng quyền thương mại từ 1992, Chính phủ
thành lập chương trình quốc gia về chuyển nhượng (Franchise Development Programe FDP) với 2 mục tiêu: Gia tăng số doanh nghiệp bán / mua nhượng quyền thương mại;
Thúc đẩy phát triển những sản phẩm / dịch vụ đặc thù nội địa thông qua nhượng quyền
thương mại.
Ở Úc, tổng cửa hàng nhượng quyền thương mại khoảng 54.000, đóng góp 12% vào
GDP và tạo hàng trăm ngàn việc làm cho người lao động.


2.2Thực trạng nhượng quyền thương mại tại Việt Nam:
2.2.1 Vai trò của nhượng quyền thương mại đối với nền kinh tế Việt Nam
-

Nhượng quyền thương mại là một công cụ đào tạo của xã hội:
Thông qua hệ thống các cửa hàng franchise, doanh nhân mới vào nghề có cơ hội học hỏi
kinh nghiệm điều hành từ một hệ thống bài bản và đã được chứng minh thành công của
chủ thương hiệu. Sau khi được trang bị kiến thức và kinh nghiệm thực tế, người mua
franchise sẽ tự tin hơn nếu muốn bắt đầu xây dựng riêng cho mình một mơ hình kinh
doanh mới. Xã hội và nền kinh tế nói chung sẽ giảm bớt thiệt hại gây ra bởi những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ do thiếu kinh nghiệm.

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 19


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
Nhượng quyền thương mại là chất xúc tác giúp nền kinh tế phát triển:

-

Franchise giúp các doanh nghiệp thành công chuyển giao công nghệ cho nền kinh tế địa
phương. Khơng một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà khơng cần đến sự góp sức
năng động của mơ hình Franchise. Franchise quảng bá và phát huy đội ngũ doanh nhân đội ngũ làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế một cách bền vững.
-

Nhượng quyền thương mại là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam bước ra sân chơi
quốc tế:

Đây cũng được coi là một giải pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp Việt Nam cùng đứng
vững trên thương trường và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài sẽ "đổ bộ" vào
Việt Nam trong thời gian tới. nhượng quyền thương mại được coi là một trong những
phương thức đầu tư chắc chắn, nhất là đối với những doanh nghiệp Việt Nam đang có kế
hoạch mở rộng ra thị trường thế giới nhiều tiềm năng như Mỹ, EU hay Nhật Bản. Hình
thức này vừa giúp doanh nghiệp thâm nhập vào những thị trường lớn với chi phí thấp vừa
là cách hữu hiệu để bảo vệ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước
ngoài. Nhượng quyền thương mại là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam bước ra sân
chơi quốc tế. Dự báo trong thời gian tới, hình thức kinh doanh này sẽ bùng phát ở Việt
Nam, khi nhiều nhãn hiệu nước ngoài nổi tiếng đang ngấp nghé và một số thương hiệu
nội cũng đang ráo riết thực hiện phương thức kinh doanh mới này.

-

Giúp các doanh nghiệp học hỏi từ doanh nghiệp quốc tế: qua đó phát triển kinh doanh
cũng như sản phẩm mang thương hiệu Việt, cách phát triển và quảng bá thương hiệu cũng
như phát triển cộng tác.
Đối với tình hình đất nước hiện tại, khi mà khoa học cơng nghệ cịn thua xa các
nước phát triển thì điều này rất quan trọng vì giúp cơng nghệ cao có thể xâm nhập thị
trường dễ dàng, qua đó mà phát triển các sản phẩm khác. Đồng thời điều này cũng thu hút
vốn đầu tư, phát triển các khu cơng nghiệp, thúc đẩy q trình hiện đại hóa, chuyển giao
công nghệ và giải quyết vấn đề việc làm. Qua đó phát triển cơ sở hạ tầng đất nước.

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 20


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
2.2.2 Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam:

Giữa thập niên 90, ở nước ta đã có một vài doanh nghiệp kinh doanh thiết bị lọc
nước do Việt kiều về đầu tư đã đưa ra hình thức nhượng quyền thương mại, nhưng thị
trường lúc bấy giờ chưa thực sự sôi động và bản thân thương hiệu của các doanh nghiệp
đó cũng chưa mấy nổi tiếng nên đã không thành công.
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, nhượng quyền thương mại trở thành
một trong những phương thức kinh doanh quan trọng. Nhiều tập đoàn lớn của thế giới đã
“đổ bộ” vào thị trường Việt Nam tìm cơ hội phát triển thương hiệu: KFC, Lotteria,
Jollibee
Nhiều doanh nghiệp trong nước cũng áp dụng hình thức này để mở rộng thị phần.
Foci đã áp dụng nhượng quyền từ năm 1998 với 35 đối tác nhận nhượng quyền và đã mở
48 cửa hàng trên cả nước. Năm 2007, Foci có mặt tại tất cả địa phương và năm 2008 dự
kiến có tối thiểu 100 cửa hàng. 2007 Foci mở 7 cửa hàng tại Mỹ theo hình thức nhượng
quyền thương mại. Công ty Kinh Đô đã mở được 30 cửa hàng bánh Bakery, theo kế
hoạch sẽ có 100 cửa hàng và tiến đến mở rộng hình thức kinh doanh thành tiệm cà phê,
bánh ngọt và thức ăn nhanh Kinh Đô. Trà sữa trân châu Tapio đã mở được 10 cửa hàng
và đang cho ra mơ hình mới là Grand Tapio – bán kèm thêm thức ăn nhanh.
Trong 3 - 4 năm trở lại đây, hình thức nhượng quyền thương mại với sự phát triển
các thương hiệu tên tuổi như Kinh Đô, Trung Nguyên, Lotteria, Phở 24... Theo ông
Patrick Ho Lock Yin - Phó tổng giám đốc Cơng ty cổ phần Kinh Đơ, đến nay Kinh Đơ có
mạng lưới 150 nhà phân phối và trên 30.000 điểm bán lẻ rộng khắp trên cả nước với
nhiều chủng loại sản phẩm bánh, kẹo. Trong đó, có nhiều cửa hàng Kinh Đơ đã áp dụng
phương thức nhượng quyền thương mại. Còn đối với Công ty cà phê Trung Nguyên, đây
là thương hiệu cà phê số 1 và cũng là doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên áp dụng mơ hình
kinh doanh nhượng quyền thương mại. Hiện Trung Nguyên đó cú 1.000 quán cà phê ở
Việt Nam, Singapore, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc và đang tiếp tục phát triển tại Mỹ,
Đức, Australia thông qua phương thức nhượng quyền thương mại này. Theo phân tích của
chương trình dự báo bán lẻ tại TP.HCM, cơ hội kinh doanh nhượng quyền thương mại ở

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55


Page 21


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
Việt Nam rất lớn do có các yếu tố: kinh tế vẫn đang trong giai đoạn tăng trưởng tốt; các
trung tâm mua sắm, đô thị, khu thương mại dịch vụ... cịn phân bố rải rác, thích hợp để
các thương hiệu mạnh phát triển chuỗi - hệ thống bán hàng; với thị trường tiềm năng hơn
84 triệu dân, hạ tầng dịch vụ ngày càng hoàn thiện và tâm lý kinh doanh thích làm chủ
của người Việt Nam trong điều kiện vốn và kinh nghiệm đều có giới hạn thì kinh doanh
nhượng quyền là phương pháp thích hợp nhất. Tóm lại đến nay, ở Việt Nam có một số hệ
thống nhượng quyền rất thành công và một số đang trên đà phát tiển nhưng nhìn chung là
cịn rất khiêm tốn. Những hệ thống nhượng quyền thương mại nước ngoài đã vào Việt
Nam, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng gần 100 thương hiệu: Trà Dilmah, tập
đồn bán lẻ Bourbon Group ( BigC), KFC, Jollibee, Qualitea, khách sạn Sofitel, Hilton,
Sharaton, Metro Cash & Carry, Bourbon, Parkson (Malaysia), v.v … Trong thời gian tới
đây khi Việt Nam đã gia nhập WTO, sẽ có nhiều nhân tố làm phát triển thị trường nhượng
quyền thương mại hơn nữa, đặc biệt khi Việt Nam lại được đánh giá là thị trường bán lẻ
có tiềm năng cao.

2.3 Ví dụ về DN Việt Nam đã thành cơng trong kinh doanh theo hình
thức Franchise – Café Trung Nguyên
2.3.1 Đôi nét về Café Trung Nguyên
Ra đời vào giữa năm 1996 -Trung Nguyên là 1 nhãn hiệu cà phê non trẻ của Việt
Nam và trở thành thương hiệu cà phê quen thuộc nhất đối với người tiêu dùng cả trong và
ngồi nước. Chỉ trong vịng 10 năm, từ một hãng cà phê nhỏ bé nằm giữa thủ phủ cà phê
Buôn Mê Thuột, Trung Nguyên đã trỗi dậy thành một tập đồn hùng mạnh với 6 cơng ty
thành viên: Công ty cổ phần Trung Nguyên, công ty cổ phần cà phê hịa tan Trung
Ngun, cơng ty TNHH cà phê Trung Nguyên, công ty cổ phần thương mại và dịch vụ
G7 và công ty liên doanh Vietnam Global Gateway (VGG) với các ngành nghề chính bao
gồm: sản xuất, chế biến, kinh doanh trà, cà phê; nhượng quyền thương hiệu và dịch vụ

phân phối, bán lẻ hiện đại. Trong tương lai, tập đoàn Trung Nguyên sẽ phát triển với 10
công ty thành viên, kinh doanh nhiều ngành nghề đa dạng.
Lịch sử hình thành và phát triển:
• 16/06/1996: Khởi nghiệp ở Buôn Ma Thuột (Sản xuất và kinh doanh trà, cà phê )
• 1998:Trung Nguyên xuất hiện ở TP.HCM bằng khẩu hiệu “Mang lại nguồn cảm
hứng

sáng

tạo

mới”



SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

con

số

100

Page 22

quán



phê


Trung

Nguyên.


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
• 2000: Đánh dấu sự phát triển bằng sự hiện diện tại Hà Nội và lần đầu tiên nhượng
quyền thương hiệu đến Nhật Bản
• 2001: Trung Ngun có mặt trên khắp tồn quốc và tiếp tục nhượng quyền tại
Singapore và tiếp theo là Campuchia, Thái Lan
• 2002: Sản phẩm Trà Tiên ra đời
• 2003: Ra đời cà phê hòa tan G7 và xuất khẩu G7 đến các quốc gia phát triển
• 2004: Mở thêm quán cà phê Trung Nguyên tại Nhật Bản, mạng lưới 600 quán cà phê
tại VN, 121 nhà phân phối, 7000 điểm bán hàng và 59,000 cửa hàng bán lẻ sản phẩm
• 2005: Khánh thành nhà máy rang xay tại Buôn Ma Thuột và nhà máy cà phê hòa tan
lớn nhất Việt Nam tại Bình Dương với cơng suất rang xay là 10,000tấn/năm và cà phê
hòa tan là 3,000tấn/năm. Đạt chứng nhận EUREPGAP (Thực hành nông nghiệp tốt và
Chất lượng cà phê ngon) của thế giới. Chính thức khai trương khu du lịch văn hóa Trà
Tiên Phong Quán tại Lâm Đồng. Phát triển hệ thống quán cà phê lên đến con số 1.000
quán cà phê và sự hiện diện của nhượng quyền quốc tế bằng các quán cà phê Trung
Nguyên tại các nước Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc,
Ucarine,

Mỹ,

Ba

Lan.


• 2006: Đầu tư và xây dựng phát triển hệ thống phân phối G7Mart lớn nhất Việt Nam
và xây dựng, chuẩn hóa hệ thống nhượng quyền trong nước, đẩy mạnh phát triển
nhượng quyền ở quốc tế. Ra mắt công ty liên doanh Vietnam Global Gateway (VGG)
có trụ sở đặt tại Singapore. Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Mỹ và Việt
Nam. Trong đó có đến 6 ứng viên có hoạt động kinh doanh nhượng quỳờn dịch vụ
thực phẩm và đồ uống.
Giải thưởng “Nhượng quyền quốc tế 2007” càng khẳng định hơn nữa những thành
công của Trung Nguyên trong hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam cũng như quốc tế.

2.3.2.Thực trạng hoạt động của mô hình nhượng quyền thương mại cà phê Trung
Nguyên
Cà phê Trung Nguyên là Công ty Việt Nam đầu tiên áp dụng mơ hình kinh doanh
nhượng quyền thương mại. Bằng sự năng động và sáng tạo, Trung Nguyên đã xây dựng

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 23


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
được một hệ thống quán nhượng quyền rộng khắp trong nước và tại các nước Nhật Bản,
Singapore, Thái Lan và Campuchia, với một phong cách thưởng thức cà phê rất riêng…
Với hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại, các sản phẩm cà phê Trung
Nguyên được sản xuất từ những hạt cà phê ngon nhất của vùng cao nguyên Buôn Ma
Thuột, kết hợp với công nghệ hiện đại và bí quyết riêng được giới thiệu đến tất cả mọi
người tiêu dùng trong nước và trên thế giới. Trung Nguyên không bỏ vốn ra mở quán mà
chỉ cho mượn thương hiệu, các chủ quán lấy hàng và công thức pha chế của Công ty để
kinh doanh. Để được sử dụng biển hiệu Trung Nguyên các chủ quán mua franchising
buộc phải ký quỹ, số quỹ này có thể là 5-15,thậm chí 300 triệu đồng tùy thuộc vào quy
mơ quán rộng hay hẹp và hàng tháng phải trả thêm một khoản phí là 2% trong số tiền lãi

thu được. Phương thức này có lợi cho cả hai phía: Trung Ngun khơng mất vốn đầu tư
mà vẫn có hệ thống tiêu thụ, còn những người được mượn thương hiệu - các chủ qn cà
phê Trung Ngun - thì có thể nhờ cậy được một thương hiệu nổi tiếng, có được sản
phẩm mang đến cho khách hàng.. . Và Trung Nguyên đã đưa ra lời đảm bảo rằng chất
lượng của một ly cà phê ở những quán này cũng ngon như bất kỳ quán nào khỏc trờn cả
nước..
Bước đi ban đầu trong phương thức nhượng quyền của Trung Nguyên là nhằm vào
một thị trường lớn nhất và khốc liệt nhất, TP HCM. Lúc đầu, chưa ai tin tưởng vào một
"lính mới" đến từ tận xứ Bn Mê Thuột heo hút. Vì vậy, Trung Nguyên phải bỏ tiền để
mở quán kinh doanh của mình. Sau 4-5 tháng, nhìn thấy hiệu quả của Trung Nguyên,
các nhà kinh doanh TP HCM quyết định bắt tay làm ăn. “Tiếng lành đồn xa” Trung
Nguyên bắt đầu mở rộng phạm vi kinh doanh ra Miền Bắc.
Mở rộng hệ thống phân phối thông qua phương thức nhượng quyền là chiến lược
kinh doanh của Trung Nguyên. Với định hướng đó, ngồi việc "phủ sóng" ở trên 63 tỉnh
thành trên cả nước, Trung Nguyên đã ký hợp đồng nhượng quyền thương hiệu cho một
đối tác người Nhật mở quán tại Tokyo. Trung Nguyên cũng đã xúc tiến đàm phán với một
số đối tác khác tại Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ...

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 24


Đồ án ứng dụng quản trị học trong kinh doanh – Trường ĐH BK HN
Ngày nay, với khoảng 1,000 quán cà phê nhượng quyền, Trung Nguyên luôn đem
đến cho người thưởng thức những tách cà phê hàng đầu Việt Nam tại bất kì địa điểm quán
nhượng quyền Trung Nguyên nào. Đặng Lê Nguyên Vũ đã tự tin rằng: "Thương hiệu
Trung Nguyên chắc chắn sẽ được quốc tế hóa”
Ngày 21/9/2007 tại khánh đường Mariana, Mandarin Singapore, Trung Nguyên đã
chính thức nhận giải thưởng “Nhượng quyền quốc tế 2007”. Đây là giải thưởng thường

niên nằm trong khuôn khổ tổ chức FLA Singapore (Franchise and Licensing Association)
nhằm tơn vinh những cơng ty có hoạt động nhượng quyền xuất sắc tại quốc gia tham dự.
Năm 2007 Trung Nguyên là đại diện duy nhất của Việt Nam tham dự giải thưởng này.
Trung Nguyên được đánh giá là “Công ty đầu tiên của Việt Nam phát triển hoạt động
nhượng quyền trên cả hai thị trường nội địa và quốc tế”
Ban tổ chức giải thưởng đã xử lý hàng trăm hồ sơ dự giải của cỏc cụng kinh doanh
nhượng quyền từ nhiều quốc gia trong suốt 2 tháng. Vòng chung kết của giải thưởng
nhượng quyền quốc tế tại Singapore năm nay có 8 ứng cử viên đến từ: Ấn Độ, Malaysia.
Hoạt động của mơ hình nhượng quyền của cà phê Trung Nguyên:
Trung Nguyên mạnh dạn xây dựng mơ hình nhượng quyền với một hình thức rộng
khắp cả nước và tiến hành xây dựng các cửa hàng nhượng quyền trên các nước trên thế
giới. Công ty TNHH Trung Ngun có văn phịng chính và nhà máy sản xuất đặt tại Buôn
Ma Thuật cùng với rất nhiều chi nhánh trong toàn quốc. Các bộ phận trong tổ chức của
doanh nghiệp đảm bảo một nhiệm vụ khác nhau, thực hiện các chức năng chun mơn
hố.Giám đốc điều hành của cơng ty là doanh nhân trẻ: Đặng Lê Nguyên Vũ, là một
doanh nhân trẻ và có những chiến lược kinh doanh cũng như quản lý một hệ thống các
cửa hang theo mạng lưới phân phối bán lẻ hiện đại. Những người quản lý duy trì sự kiểm
sốt và thiết kế, sự phục vụ và chất lượng của các quán cà phê. Công ty tiến hành kinh
doanh nhượng quyền bằng việc xây dựng các quán cà phê trên khắp cả nước. Các đại lý
nhượng quyền phải mua cà phê của Trung Nguyên với mức chiết khấu 10%. Họ có quyền
sử dụng tên Trung Nguyên và dấu hiệu nâu-vàng đặc biệt của nó với hình ảnh một ly cà

SVTH: Lê Thị Duyên – KTCN K55

Page 25


×