Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề thi và đáp án môn Kế hoạch hóa phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.94 KB, 19 trang )

ĐỀ BÀI TẬP KIỂM TRA MÔN KHH PHÁT TRIỂN
LỚP CH KH 17 ab
Trong một Hội nghị về công tác Kế hoạch, Chủ tich Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh:"Cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"
Dựa vào những nội dung nghiên cứu của môn học anh (chị) hãy:
- Chứng minh rằng: KHH là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nhiều
nền kinh tế.
- Tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những thất bại trong trong một số kế
hoạch ở nước ta và các nước đang phát triển.
- Đưa ra ý kiến của mình về những hướng cần đổi mới trong công tác KHH ở
nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta (29/11/2005)
Kế hoạch hoá là quá trình hoạt động có ý thức của con người nhằm thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách có hiệu quả nhất, là quá trình mang tính
tổng hợp, liên ngành, từ khâu đánh giá khả năng, xác định nhu cầu, lựa chọn các mục
tiêu, nhiệm vụ, hệ thống giải pháp và tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
Suốt trong chặng đường 60 năm hoạt động và phát triển, công tác kế hoạch hoá ở
nước ta đã có những bước đổi mới và không ngừng trưởng thành. Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội đã ngày càng trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý, điều
hành và phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức và
mang lại nhiều thành tựu quan trọng.
Trong 60 năm qua, công tác kế hoạch hoá ở nước ta đã tiến hành trong những hoàn
cảnh phức tạp. Suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, mọi sự chỉ đạo của
Chính phủ tập trung vào kháng chiến. Sau đó, suốt 20 năm vừa khôi phục và phát triển
kinh tế - xã hội ở miền Bắc, vừa chi viện sức người, sức của cho công cuộc giải phóng
miền Nam, công tác kế hoạch hoá thực chất chỉ tiến hành trên một nửa đất nước với
những nét đặc trưng riêng, theo phương thức và quy trình phù hợp nhằm tận dụng mọi
khả năng, mọi nguồn lực để bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược đã được


đề ra trong giai đoạn này là: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
hoàn thành công cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Công tác kế hoạch
hoá trong giai đoạn 30 năm đầu sau khi lập ngành kế hoạch chủ yếu là cơ chế thích
hợp với hoàn cảnh đất nước còn trong tình trạng chiến tranh giải phóng, trong đó 20
năm 1955-1975 là thời kỳ kế hoạch hoá theo mô hình ”kinh điển” của Liên Xô trước
đây với cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp theo phương thức "cấp phát - giao nộp",
với kế hoạch hiện vật là chính. Bên cạnh nhiều nhược điểm mà chúng ta đã biết, cơ
chế này đã góp phần quan trọng để Nhà nước có thể tập trung sức người, sức của theo
khẩu hiệu ”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” trong cuộc chiến tranh giải
phóng đất nước. Cùng với sự hy sinh gian khổ của cả dân tộc, cán bộ viên chức ngành
kế hoạch cũng đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước.
1
Đó là truyền thống rất tốt đẹp của ngành kế hoạch mà chúng ta phải ghi nhớ và phát
huy trong thời kỳ mới.
Bước sang thời kỳ hoà bình thống nhất đất nước, việc duy trì quá lâu cơ chế kế
hoạch hoá gần như trong điều kiện thời chiến đã ngày càng tỏ ra không thích hợp. Cơ
chế kế hoạch hoá này dù có một số cải tiến nhưng về cơ bản đã không huy động tốt
mọi nguồn lực của đất nước cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, thậm chí có
lúc, có nơi đã làm thui chột các sáng kiến và động lực của người lao động và làm hạn
chế đáng kể sức sáng tạo và ước vọng phát triển của cả dân tộc cho công cuộc khôi
phục sau chiến tranh và kiến quốc. Có thể nói, cơ chế kế hoạch hoá theo kiểu tập
trung, quan liêu, bao cấp không còn thích hợp và đã bộc lộ những hạn chế lớn. Tính tự
chủ, sáng tạo của đơn vị cơ sở không được phát huy; các nguồn lực kinh tế, các thành
phần kinh tế không được khơi dậy; nền kinh tế phát triển kém hiệu quả, thị trường bị
bóp méo, giả tạo; tình trạng lỗ thật, lãi giả trở nên phổ biến trong nhiều các cơ sở sản
xuất kinh doanh, hợp tác xã của đất nước. Đất nước trong thời gian 10 năm 1976-1985
đã từng bước lâm vào tình trạng kinh tế trì trệ, đầu tư và tiết kiệm thấp kém, vay mượn
lớn từ nước ngoài, thâm hụt nghiêm trọng trong cân đối ngân sách, lạm phát phi mã,
đồng tiền mất giá, đời sống vật chất của nhiều bộ phận nhân dân và cán bộ lâm vào
tình trạng khó khăn nghiêm trọng. Trên thực tế đã xuất lộ những mầm mống của tình

trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đứng trước tình hình này, Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt thực tiễn và tổng kết các
bài học đổi mới từng phần của các đơn vị sản xuất kinh doanh với ”kế hoạch 3 phần”
trong xí nghiệp công nghiệp và ”khoán sản phẩm” trong nông nghiệp. Từ đó, với chủ
trương đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đã chủ động khởi xướng
chủ trương đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
và sâu sắc cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. Đảng ta chủ trương đổi mới tư duy kinh tế,
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp nhằm tạo ra chuyển biến căn bản trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Từ đó, nền kinh tế nước ta từng bước được vận hành theo cơ chế thị trường, phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật,
kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Điều đó có nghĩa là cơ chế kế hoạch hoá
“tập trung và mệnh lệnh” theo kiểu cũ không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải có sự thay
đổi căn bản cả nội dung, phương pháp và phạm vi kế hoạch hoá; phải chuyển mạnh
sang cơ chế kế hoạch hoá gián tiếp, giảm mạnh các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển từ kế
hoạch hoá hiện vật sang kế hoạch hoá giá trị, từ cân đối cụ thể sang cân đối tổng thể,
điều hành các mối quan hệ theo tổng cung - tổng cầu.
Khi bàn về lĩnh vực đổi mới công tác kế hoạch hoá, Đảng ta đã chỉ rõ: Kế hoạch nhà
nước phải quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng để đưa ra một hệ thống các mục
tiêu vĩ mô, xác định mục tiêu phát triển, cơ cấu và các cân đối lớn, các chính sách, giải
pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch. Tập trung sức xây dựng chiến
lược và quy hoạch phát triển, các chương trình và dự án lớn cho cả nước và cho từng
ngành, từng vùng, từng lĩnh vực. Chuyển dần sang xây dựng các kế hoạch 5 năm, có
phân ra từng năm, như các định hướng lớn; giảm nhẹ việc xây dựng kế hoạch hàng
năm quá chi tiết. Công tác kế hoạch hoá ngày càng bao quát các ngành, các vùng, các
lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế và quan hệ kinh tế với nước ngoài.
2
Quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá ở nước ta trong 20 năm gần đây là quá
trình chuyển đổi từ kế hoạch hoá theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp sang kế hoạch

hoá theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự chuyển đổi công tác kế hoạch hoá theo các phương hướng chính sau đây:
- Cơ chế đa thành phần: Chuyển đổi từ kế hoạch của ”đơn thành phần” kinh tế xã
hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể) là chủ yếu sang cơ chế kế hoạch hoá nhiều
thành phần, huy động toàn bộ nguồn lực của các thành phần kinh tế (công và tư, trong
và ngoài nước) phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng cơ
chế, chính sách, luật pháp và kế hoạch;
- Cơ chế kinh tế mở: Từ cơ chế khép kín, tự cấp, tự túc trong từng ngành, từng khu
vực chuyển sang cơ chế mở (trong nước loại bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ, nước
ngoài thi hành chính sách hội nhập kinh tế quốc tế), lấy hiệu quả làm thước đo trong
quá trình phát triển;
- Cơ chế phân bổ gián tiếp: Từ cơ chế phân bổ nguồn lực một cách trực tiếp, mà chủ
yếu là nguồn vốn Ngân sách nhà nước sang cơ chế động viên và khai thác các nguồn
vốn khác nhau bằng các cơ chế, chính sách phù hợp, định hướng huy động và sử dụng
các nguồn lực đó theo mục tiêu kế hoạch;
- Cơ chế định hướng dài hạn: Từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, với hàng loạt chỉ
tiêu pháp lệnh được bao cấp cả đầu ra lẫn đầu vào sang cơ chế kế hoạch hoá định
hướng, cung cấp thông tin dự báo và tạo hành lang pháp lý để cho các thành phần kinh
tế tự chủ trong mọi quyết định sản xuất kinh doanh, cùng phát triển.
Trên cơ sở đó, công tác nghiên cứu xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã
tập trung hơn vào việc xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch dài hạn; lấy việc
nghiên cứu xây dựng kế hoạch dài hạn có bước đi từng năm là chính, kế hoạch hàng
năm chỉ là bước cụ thể hoá của kế hoạch 5 năm. Đặc biệt, những kết quả nghiên cứu
xây dựng các quy hoạch tổng thể phát triển của từng vùng, từng tỉnh và quy hoạch
phát triển trong từng ngành, từng sản phẩm đã ngày càng có chất lượng cao hơn, xây
dựng linh hoạt hơn, ngày càng trở thành các cơ sở để xây dựng kế hoạch. Nội dung kế
hoạch đã thể hiện được mục tiêu phát triển bền vững đất nước về đồng thời cả kinh tế,
xã hội và môi trường, thực hiện xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và tăng thu nhập cho
mọi tầng lớp dân cư trên cơ sở chính sách và pháp luật.
Công tác kế hoạch hoá đã coi trọng hơn lĩnh vực dự báo, lĩnh vực xây dựng các cơ

chế chính sách, các Luật về kinh tế và các giải pháp thực hiện mục tiêu. Coi công tác
xây dựng cơ chế chính sách, các luật kinh tế, các giải pháp có tính đòn bẩy là động lực
để tháo gỡ khó khăn, vượt qua các thách thức trong lúc đất nước ta còn nghèo với mục
tiêu huy động toàn bộ nguồn lực của đất nước, của các thành phần kinh tế vào phát
triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh và bền vững. Đồng thời, công tác kế hoạch hoá
đã huy động được sự tham gia của cộng đồng dân cư vào việc xây dựng và thực thi kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tranh thủ sự tham gia của khu vực tư nhân, khu vực
doanh nghiệp, các nhà tài trợ và các chuyên gia trong công tác kế hoạch hoá, biến kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trở thành một cam kết đồng thuận giữa tất cả những
bên hữu quan: Chính phủ, các tổ chức xã hội, đoàn thể, doanh nghiệp và người dân.
Tăng cường phân cấp cho các địa phương trong lập kế hoạch và sử dụng ngân sách.
Mở rộng tính dân chủ trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và thực hiện kế hoạch.
3
Trong công tác kế hoạch hóa nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cũng đang
được đổi mới một cách căn bản theo hướng xoá bao cấp và huy động đa dạng các
nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh nguồn vốn ngân sách trước đây được coi là nguồn duy
nhất để đưa vào đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, công tác kế
hoạch hoá còn đi sâu nghiên cứu các cơ chế, chính sách khai thác nguồn vốn của tất cả
các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và của các thành phần kinh tế. Hiện nay,
có các nguồn vốn được huy động vào đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là (1) nguồn
vốn thuộc ngân sách nhà nước, bao gồm một phần vốn ODA; (2) nguồn vốn thuộc tín
dụng nhà nước, bao gồm một phần vốn ODA cho vay lại; (3) nguồn vốn thuộc doanh
nghiệp nhà nước đầu tư; (4) nguồn vốn thuộc các tầng lớp nhân dân đầu tư và (5)
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các nguồn vốn khác. Sự đổi mới này
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình huy động và định hướng sử dụng nguồn vốn đầu
tư theo cơ cấu hợp lý trong từng thời kỳ kế hoạch. Vốn đầu tư tập trung của Nhà nước
dành cho các công trình, lĩnh vực then chốt có ý nghĩa thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng, chủ yếu là công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội; tạo ra môi trường
thuận lợi cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn khác. Kế hoạch đầu tư
dài hạn gắn chặt chẽ với Chiến lược và chính sách phát triển, huy động mọi nguồn lực

của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Nhìn lại 60 năm ngành kế hoạch, có thể thấy nội dung đổi mới phương pháp xây
dựng kế hoạch đã được từng bước xuyên suốt trong tất cả các khâu nghiên cứu và tổng
hợp kế hoạch, từ việc xây dựng chiến lược, xây dựng quy hoạch và kế hoạch cả ở
Trung ương, địa phương, các bộ, ngành, lĩnh vực, các cơ sở sản xuất, kinh doanh đến
việc xây dựng kế hoạch hành động thực hiện các mục tiêu của kế hoạch, bao gồm cả
việc đánh giá, giám sát; tổ chức giao ban kế hoạch trong từng lĩnh vực, từng ngành,
vùng Phạm vi kế hoạch hoá cũng ngày càng được hoàn thiện và mở rộng hơn theo
hướng bao quát được hầu hết mọi hoạt động về kinh tế, văn hoá, xã hội, tài nguyên,
môi trường, quốc phòng - an ninh; khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế dân
doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Đồng thời, chúng ta cũng nhận thấy việc đổi mới công tác kế hoạch hoá diễn ra còn
chậm và chưa thực sự khơi dậy các nguồn lực phát triển của toàn xó hội, chưa bao quát
toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước để khai thác, động viên, thúc đẩy,
kích thích tiềm năng và khả năng sáng tạo của các doanh nghiệp, các thành phần kinh
tế trong nước và thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho sự nghiệp phát triển đất nước. Các
loại thị trường chưa được hoàn thiện và phát triển đồng bộ
Bước sang giai đoạn mới 2006-2010, đất nước đang đứng trước thời cơ lớn và cũng
có nhiều khó khăn thách thức không nhỏ phải vượt qua. Đảng ta đã chỉ rõ, phải nỗ lực
vượt bậc để nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, ngành kế hoạch cũng phải có những nỗ lực vượt bậc, đổi mới toàn
diện cả nội dung và phương pháp làm kế hoạch trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thích ứng với thời kỳ toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế. Bản thân đội ngũ cán bộ công chức ngành kế hoạch cũng phải có những
chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả công tác.
Ngành kế hoạch phải vừa làm tốt chức năng là cơ quan tham mưu kinh tế cho các cấp
uỷ Đảng và các cơ quan quản lý Nhà nước, phải vừa là cơ quan công bộc của nhân
dân, có ý thức phục vụ tốt sự nghiệp phát triển đất nước.
4

Cán bộ viên chức trong ngành nhận thức sâu sắc mục tiêu của Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là “đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình
thành cơ bản, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao“. Đứng trước yêu cầu
đó, cần phải “đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng công tác
xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường
công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê;
ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong dự báo, kiểm tra tình
hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp”. Kế hoạch phải được công khai, minh
bạch, có sự tham gia của các tầng lớp dân cư trong quá trình xây dựng, triển khai và
giám sát việc thực hiện kế hoạch.

VÕ HỒNG PHÚC
Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.


Kế hoạch hóa trong nền Kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta
Vũ Văn Phúc
(Cập nhật: 22/1/2007)
1. Quan niệm về vai trò nhà nước, kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế thấy rằng: một trong những nội dung quan
trọng mà các nhà kinh tế bàn đến là vai trò của nhân tố thị trường và nhân tố Nhà nước
trong điều hành quản lý nền kinh tế. Bởi lẽ, vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan
tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua, không những
ở nước ta mà ở cả nhiều nước trên thế giới, vì muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ

mô thích hợp và có hiệu quả hơn.
Đối với một nền kinh tế đặc thù như nước ta: nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thì giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước trong điều tiết, quản lý
nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phải nghiên cứu. Chẳng hạn
như :
Thứ nhất, Sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát huy được mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
5
Thứ hai, Với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước thì kế hoạch hóa được sử dụng
như là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như thế nào để đạt được tăng
trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng XHCN.
Ngày nay, kế hoạch hóa (KHH) được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các
hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền kinh tế để đạt được
những mục tiêu đã đề ra.
Bản chất, nội dung của KHH hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường (KTTT).
Quan niệm về Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN khác hẳn trong nền kinh
tế tập trung - bao cấp: nếu trước đây Nhà nước là cho phép và quyết định (theo cơ chế
xin - cho), thì ngày nay là Nhà nước tạo khung khổ pháp luật để mọi công dân tự do
kinh doanh theo pháp luật và hỗ trợ giúp đỡ, đồng thời giám sát để doanh nghiệp và
dân doanh hoạt động sản xuất - kinh doanh có hiệu quả.
Kế hoạch hóa trong nền KTTT định hướng XHCN cũng khác với KHH trước đây: nếu
trước đây kế hoạch chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước, thì bây giờ
kế hoạch phải bao hàm tổng thể nền kinh tế quốc dân với nhiều thành phần kinh tế và
phải nhấn mạnh đến vấn đề quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội v.v
Nhìn nhận kế hoạch hóa với tư cách là một chức năng cơ bản của quản lý kinh tế, thị
trường với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội thì mối quan
hệ giữa kế hoạch và thị trường có thể hiểu theo cách thị trường vừa là đối tượng, vừa
là cơ sở của kế hoạch hóa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 6, khóa VI
khẳng định: "Trong nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, thị trường vừa là một công cụ

vừa là một đối tượng của kế hoạch hóa".
Sự phát triển nền kinh tế hiện nay lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố môi trường, chứ
không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của Chính phủ. Ví dụ như môi
trường khu vực, môi trường quốc tế, môi trường địa kinh tế, môi trường thiên nhiên
v.v Vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính dự báo, tính định hướng và kế
hoạch không bao gồm kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ ba, Thị trường là khách quan, kế hoạch là sản phẩm chủ quan của Nhà nước, của
ngành, của địa phương Vậy thì xử lý mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ
quan ở đây như thế nào cho phù hợp trong một cơ chế để phát huy tác dụng cao nhất ?
Nói tạo "một sân chơi bình đẳng" cho các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau, vậy Nhà nước điều khiển "sân chơi" đó như thế nào để vừa không hạn chế
sự thi thố tài năng của các chủ thể kinh doanh, lại vừa không làm chệch hướng XHCN
của nền kinh tế, đảm bảo sự thỏa đáng giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công
bằng xã hội ?
Nhìn nhận kế hoạch hóa và thị trường với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô
của nhà nước, thì thực chất của vấn đề KHH và cơ chế thị trường được coi là sự kết
hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và điều khiển gián tiếp thông qua cơ
chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường cũng như đối với các hoạt động
kinh tế trong xã hội.
6
2. Đổi mới công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
Với cách đặt vấn đề như trên, cần thấy rằng: Kế hoạch hóa là một trong những công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm
bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công tác kế hoạch từ tư duy, quan điểm định
hướng, nội dung, quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ
đạo kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác kế hoạch. Bản
chất, nội dung của kế hoạch hóa hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang tính chất tư sản

và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế
- xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc
lột tư bản chủ nghĩa. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh
tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều
khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: nhà
nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt
cơ bản: Một là, nhà nước XHCN là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều
tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường (CCTT) là nhân tố trung tâm của nền
kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Trong nền KTTT vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự
quản lý can thiệp vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các quy luật kinh
tế thị trường. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế, luật
pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế - xã hội và khả năng, sức
mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị trường, điều tiết hoạt động của các
doanh nghiệp cho phù hợp.
Cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực: nó là cơ chế tự
điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác dụng kích thích
mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công nghệ quản lý,
đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn các
doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó, CCTT kích thích sản
xuất và lưu thông hàng hóa phát triển Về mặt tiêu cực : trên thị trường chứa đựng
tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các
nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị hủy hoại, tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, phân hóa xã hội cao, lợi ích
công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm, tệ nạn xã hội
gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp pháp, trốn lậu thuế, làm hàng giả. Cũng vì

mục tiêu lợi nhuận mà các nhà sản xuất, kinh doanh không làm những ngành nghề ít
lợi nhuận. Để hạn chế những khuyết tật đó, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý nền KTTT.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch định
hướng, bằng các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế CCTT chịu sự tác động rất
7
mạnh của các quy luật kinh tế thị trường, do đó sự can thiệp vĩ mô của nhà nước phải
phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường.
Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải xử lý hài hòa 3 vấn đề sau
đây: Một là, giải quyết tốt vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, sao cho vừa đảm bảo
cho các chủ thể KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội
bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp những nguyên tắc phân phối của
CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài
năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao
động là chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi nhà nước phải có
chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người
nghèo ; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của
người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch không được phép
chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn
nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách sâu sắc đến tính dân chủ và công
khai của kế hoạch. Ngay từ lúc dự thảo nội dung kế hoạch, các mục tiêu và biện pháp
không nên và không cần phải giữ bí mật. Nhà nước cần tăng cường khung khổ pháp lý,
hạn chế tối đa mọi can thiệp mang tính áp đặt, trực tiếp và chuyển sang hình thức tác
động gián tiếp và khuyến khích. Như vậy, những công cụ thường được áp dụng trong
nền kinh tế kế hoạch hóa trước kia phải được thay bằng những công cụ, chính sách
phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Liên quan chặt chẽ với những
điểm trên là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch được coi là cơ sở cho việc xây dựng kế
hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Cần phải
phân biệt rõ 2 loại quy hoạch: quy hoạch sử dụng không gian (bao gồm cả quy hoạch
sử dụng đất, quy hoạch đô thị) và quy hoạch phát triển ngành. Thời gian qua, quy

hoạch sử dụng không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mức,
quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí cho cả Nhà
nước lẫn mọi người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá mức, gần như
ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại được xác định trong điều kiện
"tĩnh" và "đóng cửa", không tính được đầy đủ những biến động trên thị trường thế
giới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm được hình
thành theo quy hoạch không thể có sức cạnh tranh trên thị trường nếu không được Nhà
nước bảo hộ. Tư duy về quy hoạch cần đổi mới theo hướng tăng cường công tác quy
hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, chỉ quy hoạch những ngành mang tính hệ thống
toàn vùng hoặc toàn quốc (đường giao thông, điện, viễn thông ), những ngành mang
tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công
nghệ để các doanh nghiệp tự làm. Cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch : Bản
chất quy hoạch là cụ thể hóa chiến lược về mặt không gian và thời gian. Quy hoạch
lãnh thổ bám sát nguyên tắc phân cấp, việc xây dựng và thực hiện quy hoạch của cấp
nào thì dựa chủ yếu vào tiềm lực của cấp đó, chính quyền cấp trên có trách nhiệm phối
hợp điều hòa quy hoạch của chính quyền cấp dưới trực tiếp. Quy hoạch sử dụng đất,
đặc biệt là quy hoạch đô thị là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và các cấp chính
quyền. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách công khai và ổn định, hạn
chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong thị trường bất động sản.
Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những ngành mang tính chiến lược và
tính hệ thống toàn quốc (điện, giao thông, bưu chính viễn thông) có tính đến sự tham
gia của các thành phần kinh tế và những biện pháp khuyến khích các thành phần kinh
8
tế tham gia thực hiện quy hoạch. Quy hoạch phát triển của các ngành khác có sản
phẩm và dịch vụ mang tính thương mại, phụ thuộc vào biến động thị trường trong
nước và thế giới, tiến bộ khoa học kỹ thuật chỉ nên dừng ở mức độ định hướng, dự
báo, hạn chế tối đa việc sử dụng nguồn ngân sách để đầu tư cho các dự án ở những
lĩnh vực này. Cần có quy chế công bố công khai các quy hoạch để các thành phần kinh
tế đóng góp ý kiến, tham khảo và tích cực thực hiện.
Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực tế. Cần phân cấp

quản lý nhà nước theo nguyên tắc "những hoạt động gắn liền với quyền lợi người dân
do chính quyền cấp gần dân nhất chăm lo, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những
nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp dưới không thực hiện được hoặc những việc mang
tính liên vùng".
Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung ương lẫn địa phương theo kiểu
năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng đều muốn đạt mức cao trong khi
tiềm lực có hạn cần được thay đổi một cách cơ bản. Kế hoạch phải căn cứ vào hiện
thực, phân tích quan hệ cung - cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường (trong nước
và quốc tế) để tính tốc độ tăng trưởng, từ đó xác định mục tiêu. Việc xác định các mục
tiêu phải đi kèm với xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là phải có sự "trả
giá", có khi phải hạ thấp yêu cầu mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu khác cao hơn.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN, AFTA, ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ, quá
trình toàn cầu hóa đang ngày càng gia tăng trên toàn thế giới, sự liên kết giữa thị
trường trong nước và thị trường thế giới ngày càng gắn bó, nền kinh tế tri thức và cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sức ép ngày càng cao đối với mọi quốc gia,
mọi doanh nghiệp. Việc nhận thức đầy đủ những vấn đề này sẽ buộc những nhà hoạch
định chính sách phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong bối cảnh chung, trong môi
trường "động" và "mở cửa". Không chấp nhận những thách thức này, chắc chắn nền
kinh tế sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, dẫn đến bất ổn định trong xã hội.
Trên cơ sở đổi mới về xác định mục tiêu và công cụ, quá trình xây dựng nội dung kế
hoạch cần đổi mới theo hướng xác định các mục tiêu phải được làm cùng với xác định
biện pháp tương ứng, công cụ chính sách đầu tư ngày càng giảm và công cụ chính sách
khuyến khích ngày càng tăng nhằm phát huy hết tiềm năng của cả xã hội (ví dụ: chính
sách khuyến khích các hoạt động xã hội hóa ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, đã làm
giảm đáng kể gánh nặng cho ngân sách nhà nước).
Việc xây dựng Chiến lược kinh tế - xã hội do Hội đồng Nghiên cứu chiến lược thực
hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược có thời hạn 10-15 năm nhưng được điều
chỉnh vào giữa kỳ; dự thảo chiến lược được công bố công khai và được các tầng lớp xã
hội, đặc biệt là các nhà trí thức và quản lý tham gia đóng góp ý kiến. Mục tiêu chiến
lược không được mang tính chủ quan, duy ý chí, những mâu thuẫn giữa các mục tiêu

cần được phân tích và xử lý thông qua việc xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu
nhằm đưa ra những biện pháp cụ thể cho từng thời kỳ. Nội dung chiến lược phải đảm
bảo tính hệ thống, tính đồng bộ giữa các ngành, các vùng trong phát triển kinh tế.
Xây dựng kế hoạch định hướng phát triển 5 năm. Kế hoạch 5 năm cụ thể hóa chiến
lược. Kế hoạch 5 năm xác định một số chỉ tiêu cơ bản định hướng cho sự phát triển
của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh tế sẽ ưu tiên tập trung phát triển,
xác định nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để toàn bộ nền kinh tế
9
phát triển theo hướng đã định. Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định hướng, dự
báo cao nên vai trò của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng.
Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là những dự báo phát
triển về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu thế hội nhập khu vực và
quốc tế, của tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế giới, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của một số ngành chủ chốt trên thị trường Việt Nam cũng như trên thị trường
quốc tế. Kế hoạch 5 năm cần tập trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan trọng
của thời kỳ, những mục tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu cần thiết.
Nội dung của kế hoạch 5 năm bao gồm một số chương trình trọng điểm của Nhà nước
và quan trọng hơn cả là một hệ thống cơ chế chính sách. Chính vì vậy, việc xây dựng
kế hoạch 5 năm cần được thực hiện theo một quy trình mới với sự phối hợp chặt chẽ
và phân công cụ thể giữa các cấp, giữa các bộ và có sự tham gia của các tầng lớp và tổ
chức trong xã hội.
Hệ thống kế hoạch 5 năm của toàn nền kinh tế bao gồm kế hoạch cấp quận huyện, cấp
tỉnh và cấp quốc gia.
Hệ thống kế hoạch hàng năm ở tầng vĩ mô: Kế hoạch hàng năm vừa là bộ phận vừa là
công cụ để điều hành thực hiện kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm chủ yếu chỉ mang nội
dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện một phần
mục tiêu của kế hoạch 5 năm, do vậy kế hoạch hàng năm không nên đưa ra mục tiêu
mang tính tổng quát.
Về nguyên tắc, hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị trường không

bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá
trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền hoặc chủ đạo ở một số ngành
then chốt, vì thế kế hoạch kinh tế quốc dân trong giai đoạn này vẫn có mối quan hệ
gắn bó với kế hoạch của những Tổng công ty chủ chốt ở những ngành này (ví dụ: Dầu
khí, Điện lực, Bưu chính viễn thông ). Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại
của Việt Nam tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định cho
nền kinh tế trong thời gian tới và cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc tính toán trong
xây dựng và điều hành kế hoạch. Do vậy, các ngân hàng thương mại lớn và những
Tổng công ty này cần phải định kỳ báo cáo về kế hoạch và tình hình sản xuất kinh
doanh của mình để Chính phủ có những thông tin cần thiết phục vụ cho việc lập và
điều hành kế hoạch. Điều hành kế hoạch cần dựa trên cơ sở thông tin báo cáo và mô
hình phân tích dự báo hàng quý. Phối hợp kết quả này với ý kiến chuyên gia sẽ cho
phép Nhà nước, các cấp xác định thời điểm, mức độ, phạm vi và cách thức can thiệp
một cách hợp lý vào nền kinh tế.
Đổi mới công tác kế hoạch hóa ở địa phương và ở các ngành. Nội dung kế hoạch của
các địa phương cần phản ánh đúng sự phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế. Kế hoạch
của các ngành, địa phương phải phù hợp với kế hoạch chung của cả nước. Bên cạnh
nhiệm vụ xây dựng quy hoạch phát triển của mình, các ngành, các địa phương cần hỗ
trợ cho việc lập và điều hành kế hoạch kinh tế quốc dân bằng cách cung cấp các thông
tin, dự báo và những kiến nghị cho việc xây dựng các chính sách kinh tế.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và các ngành trong việc dự báo tình hình
thị trường trong nước và quốc tế cũng như phân tích, đánh giá thực trạng trong nước,
10
bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch hóa: Đổi mới hệ
thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin. Xác định các loại thông tin báo cáo cần
thiết, thống nhất biểu mẫu các loại thông tin báo cáo; xác định hệ thống tổ chức bộ
máy thu thập và xử lý thông tin; khắc phục tình trạng "thương mại hóa" thông tin một
cách vô nguyên tắc, xác định rõ trách nhiệm cung cấp các loại thông tin đối với những

cơ quan có liên quan; thiết kế cụ thể các nguồn thông tin và địa chỉ cần phân phối
thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác kế hoạch hóa; xác định rõ ràng những thông tin
mật không công bố.
Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế. Dự báo và phân tích
chính sách được thực hiện độc lập ở nhiều cơ quan; tập trung vào dự báo ngắn hạn;
xác định một số mô hình không phức tạp không cần có độ chính xác quá cao nhưng
phải kịp thời xử lý được những thông tin để phân tích giúp cho việc điều hành một
cách nhanh nhạy.
Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ. Hoàn thiện bộ máy kế
hoạch ở Trung ương và địa phương, thực hiện chương trình đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ kế hoạch một cách cơ bản.
Công tác kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải nâng cao vai trò của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, phát huy vai
trò của các Bộ và Tổng công ty theo một phương pháp luận thống nhất. Công tác kế
hoạch hóa cũng không chỉ được thực hiện bởi những người trong ngành Kế hoạch, mà
cần được sự chú ý và tham gia của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt của những nhà
doanh nghiệp, những nhà khoa học. Việc điều hành thực hiện kế hoạch không phải là
công việc riêng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc một Bộ nào khác mà nó phải được
thực hiện thông qua sự phối hợp một cách thống nhất và tương hợp giữa các bộ, ngành
và các địa phương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đại hội lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam
đã xác định phải sớm “cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước…; tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCH”; coi đó là những nội dung
đổi mới và nhiệm vụ chính trị quan trọng trong thời gian tới.
Nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 ban hành Chương trình Tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2001-2010, và mới đây là Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 6/2/2006 phê duyệt
đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 –
2010, xác định cải cách hành chính là một trong 3 nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu năm

2007 và giai đoạn 2007 – 2010.
Để góp phần thực hiện những nhiệm vụ chính trị và chương trình cải cách nêu trên, bài viết
này sẽ tập trung phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cải cách hành chính
ở Việt Nam có tham khảo kinh nghiệm một số nước. Nội dung chính của bài viết bao gồm 5
nhóm vấn đề và đây là cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm hướng công
cuộc cải cách hành chính phục vụ tốt nhất cho việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.
11
1. Cải cách hành chính phải được xác định là một bộ phận quan trọng, không thể tách
rời của cải cách thể chế, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Trên thế giới cũng như trong nước, có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm cải cách hành
chính, tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và quan
điểm, mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên, đa số đều thống nhất rằng, cải cách hành chính là sự
thay đổi có kế hoạch, theo một hoặc một số mục tiêu nhất định, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành nhằm làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu
của người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Cải cách hành chính thường bao gồm bốn bộ phận cấu
thành là: cải cách thể chế (theo nghĩa hẹp); cải cách tổ chức bộ máy, công chức công vụ; cải
cách tài chính công; và cải cách thủ tục, hiện đại hóa hành chính.
Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010 cũng đã nêu rõ 4
nội dung cơ bản của cải cách hành chính Việt Nam; đó là: cải cách thể chế; cải cách tổ chức
bộ máy hành chính; đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức; và cải cách tài
chính công.
Theo Từ điển Việt Nam (do Hoàng Phê chủ biên năm 1992), thể chế được định nghĩa theo
nghĩa hẹp là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo”.
Các tác giả của Đề tài KX-01-06 (Bộ Khoa học và Công nghệ, 2005) đã đưa ra khái niệm thể
chế theo nghĩa rộng, theo đó: “thể chế là một cách thức xã hội xác lập khung khổ, trật tự,
trong đó diễn ra các quan hệ giữa con người và cơ chế quy chế, quyền lực, quy tắc vận hành
xã hội đó”. Như vậy, thể chế kinh tế nói chung và thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam nói riêng đều bao gồm ba bộ phận cấu thành chủ yếu sau đây:

- Các quy tắc tạo thành “luật chơi” kinh tế, bao gồm khung pháp luật về kinh tế và các quy
tắc, chuẩn mực xã hội về/hoặc liên quan đến kinh tế, kể cả các quy tắc hay chuẩn mực phi
chính thức.
- Các chủ thể tham gia “trò chơi” kinh tế, bao gồm các cơ quan, tổ chức quản lý nhà nước về
kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, cộng đồng dân cư và người dân.
- Cơ chế thực thi các “luật chơi kinh tế”, bao gồm cơ chế tự do cạnh tranh thị trường, cơ chế
phân cấp quản lý kinh tế, cơ chế phân công, phối hợp, cơ chế tham gia, giám sát, giải trình…
Rõ ràng là cải cách hành chính nếu không phải là đồng nghĩa với cải cách thể chế theo nghĩa
hẹp như không ít học giả ở một số nước đã đồng nhất (đều dùng khái niệm regulatory reform),
thì ít nhất nó cũng là bộ phận quan trọng không tách rời của cải cách thể chế kinh tế theo cả
nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp. Có xác định như vậy mới loại bỏ được cách nghĩ, cách làm giản
đơn, chỉ chú trọng khâu đơn giản hóa thủ tục hành chính, không hoặc ít chú ý đến những vấn
đề liên quan đến cải cách khung luật pháp chính sách, bộ máy tổ chức và cán bộ…
2. Việc xây dựng hoàn thiện luật pháp chính sách về kinh tế phải được coi là công việc
thường xuyên, lâu dài, dựa trên sự đổi mới cả về tư duy lẫn phương pháp, từ việc ban
hành, tổ chức thực hiện đến khâu đánh giá, điều chỉnh hoặc bãi bỏ.
Cải cách thể chế được đề cập trong Chương trình Tổng thể cải cách hành chính ở nước ta, về
thực chất chính là cải cách hệ thống luật pháp chính sách, trong đó và trước hết là luật pháp
chính sách về kinh tế. Không chỉ đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc,
Việt Nam mà các nước có nền kinh tế thị trường truyền thống, kể cả các nước thành viên Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), việc hoàn thiện luật pháp chính sách, cải thiện
môi trường kinh doanh luôn được xác định là công việc thường xuyên, lâu dài của Nhà nước,
thậm chí phải được cải cách để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế nhằm thích
ứng với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng. Một ví dụ cụ
12
thể là trường hợp nước úc; mặc dù đã là thành viên OECD, có nền kinh tế thị trường phát
triển, nhưng giữa năm 2006, Chính phủ úc đã chính thức phát động cuộc cải cách thể chế mới
với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan, tổ chức chính phủ và phi chính phủ, đặt dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của nhân vật thứ hai trong chính phủ liên bang và chính phủ từng bang; ở một số
bang đã thành lập cơ quan chuyên trách về cải cách thể chế đặt trong Văn phòng chính phủ

(Bang Victoria thành lập “The better regulation office” do bộ trưởng cao cấp chuyên trách chỉ
đạo).
Là một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi nên để cải cách thể chế thành công, Việt
Nam không chỉ cần tích cực, khẩn trương hơn trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật kinh tế,
mà quan trọng hơn là phải đổi mới sâu sắc hơn cả về tư duy lẫn phương pháp thực hiện.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta xây dựng là loại hình kinh tế thị
trường mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Vì thế, các thể chế cần thiết cho sự hình thành, phát
triển và vận hành nền kinh tế này ở Việt Nam có những cái chung của kinh tế thị trường hiện
đại, song cũng có không ít những đặc thù riêng bắt nguồn từ tính định hướng XHCN của nền
kinh tế như Nghị quyết đại hội IX đã chỉ rõ, “là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy
luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc
và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế và một khi Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục chủ động,
tích cực mở cửa hội nhập đầy đủ, sâu rộng hơn về kinh tế thì thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta phải hội đủ những đặc trưng, tiêu chí và yêu cầu chung của kinh tế
thị trường hiện đại. Chúng ta có thể xác định được những đặc trưng, tiêu chí và yêu cầu đó để
chủ động xây dựng, đáp ứng thông qua việc nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm phát triển kinh
tế thị trường ở các nước, vốn được xem là thành tựu của nhân loại cũng như trong nghiên cứu
triển khai thực hiện các cam kết hội nhập, đặc biệt là các cam kết gia nhập WTO, các tiêu chí
xác định tư cách “kinh tế thị trường” của Việt Nam do Liên minh châu Âu (EU) và Hoa kỳ
đưa ra. Lịch sử kinh tế thế giới cho thấy, các nền kinh tế thị trường được thực hiện dưới rất
nhiều dạng thức khác nhau, nhưng chúng đều có những đặc trưng đồng nhất rất cơ bản, đó là:
- Thị trường là cơ sở cho việc phân bổ nguồn lực.
- Hệ thống các thị trường, bao gồm thị
trường hàng hóa, dịch vụ và các thị trường các nhân tố sản xuất phát triển, trở thành
đầu mối cho mọi hoạt động kinh tế.
- Các thực thể kinh tế như các doanh nghiệp, doanh nhân tham gia vào hoạt động của thị
trường theo các quy luật của nền kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, giá cả, quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh…
- Sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được tự do lưu thông trên thị trường.

- Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật.
Do vậy, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật kinh tế để hình thành thể chế kinh tế thị trường ở
Việt Nam sẽ nhanh chóng và hiệu quả nhất nếu biết kế thừa có chọn lọc thành quả xây dựng
pháp luật kinh tế của các nước. Ví dụ: cả EU và Hoa kỳ đều đưa ra tiêu chí là phải ban hành
và thực thi luật doanh nghiệp bảo đảm tính minh bạch, không phân biệt đối xử, tạo điều kiện
cho việc quản lý doanh nghiệp; các nước có nền kinh tế thị trường đều ban hành, thực thi luật
doanh nghiệp hoặc luật công ty và các luật này qua hàng trăm năm hoàn thiện đều có những
điều khoản quy định tương tự nhau về nội dung liên quan đến việc tổ chức hoạt động của
13
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… Sẽ không hiệu quả nếu không nghiên cứu,
lựa chọn đưa các quy định như vậy vào Luật Doanh nghiệp của Việt Nam.
Định hướng XHCN là đặc thù riêng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Vì vậy, đồng thời
với việc tôn trọng “cái chung”, không làm trái với cái chung, nghiên cứu tiếp thu những giá trị
chung của nhân loại, còn cần phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để cải cách hành chính, cải
cách thể chế đảm bảo tính định hướng XHCN của nền kinh tế. Như các Nghị quyết của Đảng
đã chỉ rõ, Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam thể hiện ở mục tiêu “dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh; ở chế độ sở hữu bao gồm nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; ở cách thức thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển, tăng
trưởng kinh tế; ở vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới
sự lãnh đạo của Đảng”.
Trên cơ sở tư duy mới đó, cần phải đổi mới phương pháp tiến hành cải cách thể chế. Về vấn
đề này, kinh nghiệm quốc tế do Jacobs và các cộng sự (USAID, 2007) tổng kết rất đáng được
tham khảo. Theo đó, quy trình cải cách thành công thường được tiến hành theo mô hình sau
(Lược đồ 1).
Lược đồ 1: Mô hình quy trình cải cách hành chính thành công (Để xem lược đồ bạn
click vào đây để tải bài viết về – Civillawinfor)
Trong mô hình nêu trên, các nước đều rất quan tâm đến nhiệm vụ và phương pháp đánh giá
tác động của chính sách (RIA: Regulation impact assesment), coi đó là vấn đề có ý nghĩa

quyết định mà cả chính phủ, các cơ quan của chính phủ lẫn các tổ chức tư vấn độc lập phải
nghiêm túc thực hiện trong quá trình xây dựng ban hành và thực thi pháp luật. Cần quan tâm
đến cả công tác lập quy, ban hành văn bản mới (lọc nước sạch trước khi đổ vào bể) lẫn công
tác giải quy, soát xét, sửa đổi, bổ sung hoặc loại bỏ các văn bản không còn phù hợp (làm sạch
bể nước).
3. Đổi mới chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của chính phủ là tiền
đề quan trọng hàng đầu cho thành công của cải cách hành chính và xây dựng, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
ở các nước có nền kinh tế thị trường, chính phủ đều được xác định là cơ quan hành chính,
hành pháp cao nhất. Do vậy, khi tiến hành cải cách hành chính, việc cần làm đầu tiên và quan
trọng nhất là phải cải cách chính phủ. Trong 20 năm đổi mới vừa qua, Chính phủ đã có nhiều
đổi mới cả về chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức lẫn cơ chế vận hành, ngày càng đáp ứng tốt
hơn cho sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, các
nghiên cứu, đánh giá của chương trình cải cách hành chính cũng đã chỉ ra không ít những yếu
kém, tồn tại như: còn ôm đồm về chức năng; bộ máy còn cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả;
chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ cũng chưa rõ ràng và
còn nhiều bất cập; cơ chế phân công, phối hợp trong nội bộ chính phủ, giữa các bộ với nhau
và giữa chính phủ, các bộ với chính quyền các địa phương cũng chưa thật rõ ràng, cụ thể và
khoa học… Đặc biệt là “cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” cũng
cần được nghiên cứu hoàn thiện thêm.
Thực tế nêu trên đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và cơ chế
hoạt động của chính phủ. Mục tiêu của quá trình này là nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt
động của chính phủ phù hợp và đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta. Muốn vậy, cần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề quan trọng sau đây:
14
Một là, phải xác định công cuộc đổi mới, hoàn thiện Chính phủ là bộ phận không tách rời
công cuộc đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo
đó, Đảng lãnh đạo về chủ trương, đường lối phát triển đất nước; nhà nước pháp quyền XHCN
có sự phân công, phối hợp khoa học giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp; Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất, tập trung làm tốt chức năng lập pháp; Chính phủ là cơ quan hành

chính cao nhất, tập trung thực hiện tốt chức năng hành pháp; Toà án tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân là các cơ quan tư pháp cao nhất, có vai trò độc lập, khách quan trong các hoạt động
tố tụng.
Hai là, Chính phủ phải được đổi mới để làm tốt cả hai chức năng quản lý hành chính nhà
nước và phục vụ phát triển kinh tế – xã hội thông qua việc đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, hoạch định chính sách
để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, cung ứng dịch vụ công, dịch
vụ quản lý công, bao gồm cả dịch vụ quản lý và kinh doanh vốn nhà nước…
Ba là, Chính phủ phải luôn quan tâm xử lý đúng mối quan hệ giữa thị trường và kế hoạch,
giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Sự khác biệt chủ yếu giữa kinh tế thị trường định hướng
XHCN với kinh tế thị trường tự do cạnh tranh chính là ở chỗ có sự kết hợp “hợp lý” giữa thị
trường và kế hoạch. Trong khi tôn trọng đầy đủ vai trò của thị trường trong việc phân bổ các
nguồn lực và điều tiết các hoạt động kinh tế mang tính kinh doanh, Chính phủ cần có kế
hoạch mở rộng thị trường đến đâu, và chính sách đặc thù như thế nào đối với một số lĩnh vực
nhạy cảm hoặc thuộc độc quyền tự nhiên của nhà nước như đất đai, điện nước, bảo hiểm, y tế,
giáo dục đào tạo… Tính định hướng XHCN của nền kinh tế phải được thực hiện trên cơ sở
chính sách và kế hoạch đầu tư của nhà nước, kinh tế nhà nước nhằm đảm bảo phát triển bền
vững, công bằng và an sinh xã hội… Thực tiễn trong nước cũng như quốc tế đều cho thấy
nguồn lực của nhà nước, kể cả trong thời kế hoạch hóa tập trung cũng rất có hạn, do vậy
Chính phủ phải biết khơi dậy tất cả các tiềm năng, nguồn lực của các thành phần kinh tế và
các tổ chức xã hội, bao gồm các hiệp hội nghề nghiệp và các tổ chức phi chính phủ khác.
Bốn là, trong cơ cấu tổ chức của chính phủ, ngoài các bộ thuộc khối đối ngoại và an ninh
quốc phòng mà nước nào cũng có thì các bộ thuộc khối kinh tế – xã hội cần được tổ chức, sắp
xếp lại vừa thích hợp với thực tế Việt Nam, vừa có sự tương thích với các nước đối tác để phù
hợp với điều kiện hội nhập. Bộ máy tổ chức, cán bộ của các bộ đủ mạnh để thực hiện chức
năng quản lý hành chính, hoạch định chính sách và cung ứng dịch vụ công. Để từng bộ nói
riêng và chính phủ nói chung có đầy đủ cơ sở khoa học thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của
mình, cần phải có hệ thống các cơ quan nghiên cứu, tham mưu và các cơ quan điều hành và
giám sát độc lập, khách quan đủ mạnh. Trong điều kiện nền kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực có
quy mô ngày càng lớn, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn lại đang trong quá trình chuyển đổi,

thì để tiếp tục đổi mới và phát triển nhanh, bền vững hơn, rất cần nhấn mạnh vai trò của cơ
quan “tổng tham mưu trưởng về đổi mới và phát triển” của cả Đảng và Nhà nước, trong đó có
Chính phủ.
Năm là, phải đổi mới cơ chế hoạt động của chính phủ theo hướng có sự phân công rõ ràng, cụ
thể chức năng nhiệm vụ của các bộ và sự phối hợp chặt chẽ, khoa học giữa các bộ; đồng thời
tăng cường sự phân cấp của các cơ quan trung ương cho chính quyền các địa phương; đẩy
mạnh đổi mới công tác kế hoạch hóa.
Sự phân công rõ ràng cụ thể và sự phối hợp chặt chẽ, khoa học giữa các bộ sẽ giúp khắc phục
tình trạng vừa chồng chéo vừa bỏ trống các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thuộc chính
phủ. Tăng cường phân cấp cho các chính quyền các địa phương trong việc tổ chức thực thi
pháp luật không chỉ làm cho chính phủ gần dân hơn, đáp ứng nhanh hơn yêu cầu của người
dân mà còn phát huy tính chủ động, tinh thần thi đua của chính quyền cơ sở. Duy trì nhưng
đổi mới công tác kế hoạch hóa phù hợp với
15
kinh tế thị trường sẽ không chỉ giúp đảm bảo tính định hướng XHCN của nền kinh tế mà còn
giúp cho việc khai thác tính tích cực của cơ chế thị trường, làm cho nền kinh tế sống động,
khắc phục được nhược điểm của kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trước kia…
4. Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu của nền
kinh tế thị trường là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho thành công của sự nghiệp cải cách
hành chính phục vụ cho việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Không ai có thể nghi ngờ về vai trò có ý nghĩa quyết định của yếu tố con người trong thành
công hay thất bại khi tiến hành triển khai thực hiện mọi công việc. Tuy không thể phủ nhận sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và đạo
đức của cán bộ công chức những năm qua. Nhưng chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào sự thật
để thấy rằng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của một chính
phủ trong sạch, vững mạnh và sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam. Hiện tại, chúng ta đang thiếu những cán bộ hiểu biết về kinh tế thị trường, do vậy
khó có thể làm tốt việc hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển, cơ
chế quản lý đối với nền kinh tế thị trường. Vấn đề cấp bách được đặt ra là phải đào tạo lại đội
ngũ cán bộ công chức hiện có để đáp ứng yêu cầu trước mắt, thực hiện thắng lợi Kế hoạch

Phát triển kinh tế – xã hội 2006-2010; đồng thời phải đẩy mạnh công tác đào tào đội ngũ cán
bộ cho tương lai, từ 2010 trở đi. Nội dung đào tạo phải được đổi mới không những phải gồm
những kiến thức của kinh tế thị trường hiện đại mà còn phải phù hợp với mỗi loại cán bộ công
chức.
Các cán bộ cấp bộ trưởng, bí thư, chủ tịch tỉnh trở lên ngoài những kiến thức cần có của một
chính khách, cần được trang bị những kiến thức về kinh tế phát triển, chính sách công, chính
sách kinh tế vĩ mô… của kinh tế thị trường. Để khắc phục bệnh thành tích bắt nguồn từ tính
ngắn hạn của nhiệm kỳ, việc đánh giá, đề bạt cán bộ loại này không thể chỉ dựa vào thành tích
tăng trưởng cao hoặc các công trình mang dấu ấn.
Các cán bộ cấp thứ trưởng trở xuống và các cán bộ hoạch định chính sách phải là những
chuyên gia, được đào tạo, trang bị những kiến thức của kinh tế thị trường hiện đại và thực tế
phát triển đất nước, nhất là thực tiễn đổi mới, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu sang kinh tế thị trường.
Các cán bộ thực thi luật pháp chính sách, bao gồm các cán bộ có chức năng cung ứng dịch vụ
hành chính công phải được đào tạo, trang bị các kiến thức về luật pháp chính sách và ý thức
chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Đồng thời với việc đào tạo, giáo dục nâng cao đạo đức và năng lực chuyên môn của đội ngũ
cán bộ, công chức, cũng cần phải quan tâm đầy đủ đến cơ chế giám sát đánh giá, khen
thưởng, kỷ luật, lương thưởng, đề bạt để tạo động lực… Chỉ bằng những chính sách biện pháp
đồng bộ như vậy cải cách hành chính mới thành công và phục vụ tốt cho việc hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường ở nước ta.
5. Cải cách tài chính công cũng phải gắn kết và phục vụ việc hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Nếu nhìn nhận một cách giản đơn thì cải cách tài chính công dường như không có mối quan
hệ trực tiếp với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường vì tài chính công lâu nay
được hiểu là tài chính của nhà nước, gắn liền với chế độ xin cho.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, khái niệm và nội hàm của tài chính công đã
được đổi mới và mở rộng hơn. Ngân sách nhà nước không chỉ được chi cho các hoạt động của
bộ máy nhà nước mà còn được chi cho đầu tư phát triển, trong đó có các dự án sản xuất kinh
doanh hoặc cho doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công như viện nghiên cứu,

16
bệnh viện, trường học… Do vậy, trên cơ sở đổi mới tư duy về chức năng nhiệm vụ của nhà
nước, về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội dân sự như đã nêu trên cần phải đổi
mới tư duy, xác định những hoạt động tài chính công phải tiếp tục thực hiện theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung và những hoạt động tài chính công có thể và cần phải chuyển sang áp
dụng cơ chế thị trường. Bằng cách đó, chúng ta sẽ làm cho cải cách tài chính công gắn kết và
phục vụ tốt hơn việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Cụ thể hóa chủ trương đường lối đổi mới, cải cách hành chính của Đảng và nhà nước theo 5
hướng chủ yếu trên đây, chắc chắn rằng công cuộc cải cách hành chính sẽ gắn liền và phục vụ
tốt hơn cho việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
Đội ngũ cán bộ làm công tác lập kế hoạch chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu, nhất là việc vận dụng
các công cụ lập kế hoạch.
Nguồn lực tài chính để thực hiện theo yêu cầu, ý kiến của người dân không do địa phương chủ động
mà lệ thuộc hoàn toàn vào việc cân đối từ huyện.
Qui mô các cuộc hội nghị còn hạn chế vì vậy mà thành phần tham gia chưa thật sự đa dạng.
Tham vấn cộng đồng khi xây dựng kế hoạch - một cách tiếp cận mục tiêu phát triển con
người
(Cập nhật: 23/10/2007)
Việc chấm dứt cơ chế kế hoạch hoá tập trung không có nghĩa là phủ định hoạt động kế
hoạch. Trong giai đoạn mới, khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thức kế hoạch hoá tập trung được thay
thế bằng một hệ thống kế hoạch mới, đó là, kế hoạch hoá gián tiếp hay kế hoạch hoá phát triển
phù hợp với kinh tế thị trường. Tham vấn cộng đồng là hoạt động không thể thiếu khi hoạch
định kế hoạch và chiến lược quốc gia.
Trong hệ thống kế hoạch mới, vai trò của các chủ thể có những biến đổi nhất định. Quyền hạn và
trách nhiệm của các chủ thể xã hội được thể hiện trong công tác kế hoạch. Nhà nước tiếp tục quản lý
và điều tiết các lĩnh vực kinh tế - xã hội một cách gián tiếp thông qua công cụ, chính sách, các nguồn
lực để đạt được những mục tiêu phát triển đã đề ra, không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế.

Với mục tiêu nâng cao chất lượng và hoàn chỉnh nội dung của Chương trình quốc gia về phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, theo hướng thực thi hơn và phản ánh được nguyện vọng của mọi
tầng lớp xã hội, đợt tham vấn cộng đồng về kế hoạch 5 năm 2006-2010 của quốc gia đã được thực
hiện tại 15 tỉnh/ thành phố trên phạm vi cả nước. Đây không chỉ là hoạt động nhằm tiếp tục triển khai
các bước trong tiến trình đổi mới công tác lập kế hoạch mà hơn thế, đó là một biện pháp quan trọng
trong tiếp cận mục tiêu phát triển con người trên cơ sở nâng cao vai trò và trách nhiệm của cộng
đồng dân cư đối với việc xây dựng kế hoạch cũng như các cơ chế, chính sách của Nhà nước; từng
bước thực sự đưa con người vào vai trò chủ thể của công tác kế hoạch, tăng cường tính chủ động,
sáng tạo của chính quyền các cấp, từ khâu xây dựng đến các bước thực hiện kế hoạch và thụ hưởng
thành quả.
Chương trình đã thực hiện lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp dân cư và các cấp lãnh đạo địa
phương tại 15 tỉnh, thành phố vào bản Dự thảo. Mỗi nhóm đối tượng tham vấn có quy mô từ 8-10
người, bao gồm nhóm dân cư tại cộng đồng; nhóm cán bộ lãnh đạo; nhóm doanh nhân, được phân
chia theo giới tính, nghề nghiệp, chức vụ. Ước tính có khoảng 7.500 người được huy động tham gia
hoạt động tham vấn đợt đầu tiên. Khung tham vấn cơ bản gồm 8 chủ đề: việc làm, các dịch vụ xã hội,
xoá đói giảm nghèo, dân tộc thiểu số, bình đẳng giới và bảo vệ môi trường, năng lực của cán bộ cơ
sở; môi trường kinh doanh và môi trường kêu gọi đầu tư. Đối với các vấn đề mang tính vĩ mô thì tập
trung tham vấn đối tượng lãnh đạo.
Quá trình tham vấn người dân trong xây dựng Chương trình quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2006-2010 đã khép lại, nhưng kết quả tham vấn đã làm sáng tỏ một số vấn đề, đồng thời mang
17
lại những kinh nghiệm bước đầu góp phần nâng cao hiệu quả các đợt tham vấn xây dựng kế hoạch
trong thời gian tới.
1. Một số vấn đề rút ra qua quá trình tham vấn:
- Có sự chuyển biến trong nhận thức về tham vấn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
trong các đối tượng dân cư. Đối với người dân, hoạt động tham vấn bước đầu tạo được sự thay đổi
trong cách nghĩ, trong nhận thức về cách làm kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo phương pháp
mới; người dân có cơ hội tích cực, chủ động tham gia vào toàn bộ quy trình của công tác kế hoạch, từ
xây dựng đến giám sát và đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch tại địa phương mình. Do được thể
hiện vai trò và trách nhiệm của mình đối với những vấn đề trọng đại của đất nước, nên sự đồng

thuận, nhất trí trong dân rất cao. Người dân đánh giá cao phương pháp tham vấn này và mong muốn
được tham gia nhiều hơn nữa vào việc góp ý kiến trong quá trình lập kế hoạch và các cuộc họp cộng
đồng. Tuy nhiên, nhiều người cũng bày tỏ mong muốn các ý kiến đóng góp của họ được “cấp trên”
xem xét, không chỉ dừng lại ở việc lấy ý kiến mang tính hình thức.
Đối với các cấp lãnh đạo, hoạt động tham vấn có ý nghĩa tích cực đối với các chủ thể của công tác kế
hoạch và thực thi chính sách (cán bộ lãnh đạo các cấp tỉnh, huyện, các bộ, ngành ở trung ương)
Đây là cơ sở để chỉnh sửa và bổ sung bản kế hoạch dự thảo cho sát thực với thực tế và mong muốn
của người dân, nhằm đạt tính khả thi cao trong hiện thực. Thông qua hoạt động tham vấn, cán bộ
lãnh đạo có nhiều nguồn thông tin và cách nhìn tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội không chỉ ở địa
phương mình mà trên phạm vi cả nước. Từ đó, đưa ra việc xếp hạng ưu tiên các giải pháp tuỳ theo
tính cấp bách và cần thiết của từng giải pháp.
Đối với các doanh nghiệp, hoạt động tham vấn tạo cơ hội để các doanh nghiệp đưa ra những đề xuất,
giải pháp, kiến nghị cụ thể tháo gỡ những khó khăn, bức xúc từ thực tiễn hoạt động của mình. Các
doanh nghiệp đã có những ý kiến đóng góp có giá trị trong việc huy động nguồn lực cho phát triển của
địa phương. Cũng như người dân /cộng đồng, nhóm các doanh nghiệp đánh giá cao việc đổi mới
trong lập kế hoạch và mong muốn các ý kiến đóng góp của họ được ghi nhận và xem xét một cách
nghiêm túc.
Bên cạnh những yếu tố tích cực trên, cũng vẫn còn những băn khoăn, lo ngại khi triển khai hoạt động
tham vấn như: trình độ dân trí thấp tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc sẽ khó thu được
ý kiến đóng góp sát thực; liệu ý kiến của mình có được xem xét nghiêm túc trong quá trình chỉnh sửa
bản kế hoạch hay không Ở một số địa phương, vẫn còn tâm lý thụ động, ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ
trợ từ cấp trên.
- Huy động được nhiều nguồn lực để xây dựng kế hoạch. Phương pháp lập kế hoạch có sự tham
gia của cộng đồng dân cư đã thực sự phát huy được trí tuệ của các tầng lớp dân cư, tạo nguồn lực
đa dạng, phong phú hơn cho quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Những khiếm khuyết của kế hoạch, những “lỗ hổng” trong các cân đối khi tính toán trên lý thuyết đã
được phát hiện và điều chỉnh qua những ý kiến đóng góp từ cấp cơ sở, từ người dân và các doanh
nghiệp. Hoạt động tham vấn đã giúp cho các đối tượng người dân và doanh nghiệp thực sự vừa là
người xây dựng, vừa là người thực hiện kế hoạch. Phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia đã tỏ
rõ tính hiệu quả, sức thuyết phục, giúp cho công tác lập kế hoạch trở nên bao quát và mang tính khả

thi cao hơn.
- Hoàn thiện các kỹ năng chuyên môn trong công tác kế hoạch, đổi mới phương pháp lập kế
hoạch. Qua triển khai hoạt động tham vấn cộng đồng đã bộc lộ một số khiếm khuyết trong năng lực
làm kế hoạch của cán bộ cần được nhanh chóng khắc phục. Một trong những nguyên nhân dẫn tới
hạn chế đó là: các chuyên gia làm kế hoạch của nước ta từ lâu đã quen với cách lập kế hoạch truyền
thống, ít được cập nhật kiến thức và kỹ năng mới. Đó là những trở ngại, ảnh hưởng tới hiệu quả của
các hoạt động lập kế hoạch. Vẫn còn có những chuyên gia kế hoạch chưa phân định rõ ràng sự khác
biệt giữa mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch và chỉ số giám sát đánh giá. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm kế
hoạch càng xuống cấp cơ sở càng thấp, càng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Một số địa phương
không có cán bộ chuyên trách về kế hoạch, ngay cả khi có thì hầu hết không được đào tạo bài bản và
ít được cập nhật kiến thức chuyên môn.
Quá trình tham vấn này cũng cho thấy thêm một thực tế là quan điểm về phát triển con người, về đo
lường phát triển con người chưa đến được các chuyên gia làm kế hoạch ở tất cả các cấp. Trong khi
cốt lõi của việc lập kế hoạch theo phương pháp mới hiện nay chú trọng đến việc xác lập định hướng
chiến lược gắn với nguồn lực và các mục tiêu ưu tiên trong phát triển, lấy việc nâng cao phúc lợi dân
cư (mục tiêu xã hội) là trọng tâm và mục tiêu cuối cùng cho kế hoạch, thì hầu hết các chuyên gia làm
kế hoạch tại các địa phương vẫn quen với việc chú trọng các chỉ tiêu định lượng về tăng trưởng và cơ
18
cấu, muốn đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, cho dù nguồn lực và các điều kiện khách quan chưa cho
phép.
2. Những nhiệm vụ cấp thiết
Để tiếp cận quan điểm về phát triển con người, về đo lường phát triển con người trong công tác kế
hoạch, theo chúng tôi, cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Triển khai tích cực khâu tập huấn kỹ năng cho cán bộ làm kế hoạch tại địa phương. Trang bị
kiến thức cho cán bộ tham gia tham vấn tại địa phương để họ hiểu rõ phương pháp và công cụ mới
áp dụng trong việc xây dựng kế hoạch và tiến hành tham vấn. Thông qua hoạt động tham vấn, năng
lực của người dân và cán bộ các cấp sẽ được nâng lên khi tiếp xúc với các công cụ, các thông tin về
phương pháp lập kế hoạch.
- Tăng cường vai trò tham gia trực tiếp của người dân vào công tác kế hoạch. Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giải thích để người dân hiểu đây là cơ hội để họ thực hiện quyền làm chủ của mình

đối với cộng đồng, khắc phục tâm lý ỷ lại vào các cấp chính quyền. Cung cấp cho người dân thông tin
chân thực về tình hình thực hiện kế hoạch để nâng cao chất lượng tham gia của người dân. Người
dân không chỉ dừng lại ở việc đóng góp ý kiến, mà cần trực tiếp tham gia thực hiện và giám sát thực
hiện kế hoạch ở cấp thôn, xã nơi họ sinh sống. Khi Xây dựng kế hoạch cấp thôn, xã đạt sự đồng
thuận cao, việc triển khai thực hiện, tuân thủ đúng những mục tiêu đề ra, sẽ là bằng chứng thuyết
phục nhất để dần dần nâng cao chất lượng tham gia của người dân và biến sự tham gia trở thành
một yêu cầu không thể thiếu trong quản lý của chính quyền cơ sở. Những ý kiến đóng góp của người
dân cần được xử lý thoả đáng và phải được phản hồi minh bạch để việc thu hút sự tham gia của họ
trong những lần tham vấn sau thuận lợi hơn.
- Mở rộng đối tượng tham vấn đến mọi công dân, tới cả những người đã qua độ tuổi lao động,
chú trọng hơn tới vấn đề giới. Chẳng hạn: hiện nay tuổi lao động của phụ nữ chỉ tính đến 55,
nhưng tuổi lao động của nam giới là 60. Nếu chọn đối tượng tham gia tham vấn theo độ tuổi lao động
thì vô hình trung tạo nên một rào cản cho nhóm phụ nữ được tham gia vào quá trình tham vấn kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, cơ hội tham gia vào một công việc có ý nghĩa, có ảnh hưởng to lớn
đến đời sống của họ.
- Đưa các nội dung quan điểm về phát triển con người, về đo lường phát triển con người vào
chương trình hoạt động trong những chu kỳ kế hoạch mới. Đưa các chỉ số đánh giá phát triển
con người (HDI, GDI, HPI) thành các chỉ tiêu pháp lệnh từ cấp quốc gia đến cấp tỉnh/thành phố. Quan
điểm về phát triển con người, về đo lường phát triển con người phải được đưa vào chương trình các
lớp tập huấn. Đối tượng tham dự các chương trình các lớp tập huấn không chỉ có cán bộ kế hoạch
mà nhất thiết phải có thành phần lãnh đạo cấp ủy, ủy ban nhân dân các cấp
19

×