Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Những yếu tố đảm bảo việt nam sớm vượt khỏi ngưỡng các nước có thu nhập thấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.33 KB, 38 trang )


CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

1
NHỮNG YẾU TỐ ĐẢM BẢO
ĐỂ VIỆT NAM SỚM VƯỢT KHỎI NGƯỠNG
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN CÓ THU NHẬP THẤP

A.
MỘT SỐ NHẬN THỨC VÀ KINH NGHIỆM VỀ VƯỢT NGƯỠNG NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN CÓ THU NHẬP THẤP

1. Thế nào là vượt khỏi ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp
1.1. Khái quát về cách thức phân loại các nước
Hiện nay, một số tổ chức quốc tế tiến hành phân loại các nước theo cách thức
khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau, trong đó có tiêu chí thu nhập bình quân
đầu người. Dưới đây là các cách phân loại của một số tổ chức tiêu biểu.
- Thứ nhất, cách phân loại của Ngân hàng Thế giới (WB):
Cách phân loại này bao gồm các n
ước đang phát triển và các nước phát triển.
Dựa vào mức thu nhập bình quân đầu người, Ngân hàng Thế giới phân chia thành
bốn nhóm nước, bao gồm: (1) Nước có thu nhập thấp, với mức thu nhập bình quân
đầu người từ 905 USD/năm trở xuống; (2) Nước có thu nhập trung bình thấp, với
mức thu nhập bình quân đầu người từ 906 USD đến 3.595 USD/năm; (3) Nước có
thu nhập trung bình cao, với mức thu nhập bình quân đầu người từ 3.596 USD đến
11.115 USD/năm; và (4) N
ước có thu nhập cao, với mức thu nhập bình quân đầu
người từ 11.116 USD/năm trở lên.
- Thứ hai, cách phân loại của Liên hợp quốc (UN):
Theo cách phân loại của Liên hợp quốc, có bốn mức đánh giá nền kinh tế dựa
theo thu nhập bình quân đầu người. Theo đó, thu nhập bình quân dưới 765


USD/người/năm là nước có thu nhập thấp; từ 765 USD đến dưới 3.000
USD/người/năm là nước có thu nhập trung bình thấp; từ 3.000 USD đến 9.100
USD/ng
ười/năm là nước có thu nhập trung bình cao và trên 9.100 USD/người/năm
là nước có thu nhập cao (mức này thay đổi tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế toàn
cầu, nếu tính đến thời giá hiện nay thì ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp
là 875 USD/người/năm).
Ngoài ra, Liên hợp quốc còn có một cách phân loại nữa áp dụng cho các nước
thuộc Thế giới thứ ba (đang phát triển). Sự phân loại này dựa trên cơ sở thu nhập
bình quân đầu người GNP và có ba loạ
i chính, bao gồm: (1) Các nước kém phát

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

2
triển nhất; (2) Các nước đang phát triển (không xuất khẩu dầu mỏ); và (3) Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC).
- Cách phân loại của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP):
Cách phân loại của UNDP dựa trên cơ sở Chỉ số Phát triển Con người (HDI)
chứ không phải là tiêu chí thu nhập bình quân đầu người. HDI là một thước đo phát
triển bên cạnh thu nhập bình quân đầu người, nó cũng kết hợp vớ
i tuổi thọ, tỷ lệ sinh
đẻ và kiến thức, tỷ lệ biết chữ trung bình và số năm tới trường. Có ba nhóm nước
được phân loại dựa trên tiêu chí này, bao gồm: (1) Các nước phát triển con người
cao, với HDI lớn hơn hoặc bằng 80; (2) Các nước phát triển con người trung bình,
với HDI lớn hơn hoặc bằng 51 và nhỏ hơn hoặc bằng 79; và (3) Các nước phát triển
con người thấp, với HDI nhỏ hơn hoặc bằ
ng 50.
- Cách phân loại của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD):
OECD

đưa ra một cách phân loại khác về các nước thế giới thứ ba và bao
gồm cả các nước không nằm trong hệ thống Liên hợp quốc. Phân loại này gồm có:
(1) Các nước thu nhập thấp; (2) Các nước có thu nhập trung bình; (3) Các nước
công nghiệp mới; và (4) Các nước thuộc OECD.
1.2. Nội dung của “vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp”
Trong số những cách phân loại các nước nêu trên, nếu căn cứ một cách có hệ
thống vào mứ
c thu nhập bình quân đầu người để phân loại các nước, thì cách phân
loại thứ nhất của Liên hợp quốc và cách phân loại của Ngân hàng Thế giới sẽ được
lựa chọn. Theo đó, một quốc gia muốn vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu
nhập thấp thì nước ấy phải có thu nhập bình quân đầu người (GDP bình quân đầu
người) cao hơn giới hạn thu nhập bị xếp vào nhóm nước có thu nhập thấp. C
ụ thể là,
nếu căn cứ vào cách phân loại của Liên hợp quốc, thì một nước sẽ vượt qua ngưỡng
nước đang phát triển có thu nhập thấp khi GDP bình quân đầu người của nước ấy
cao hơn 875 USD/năm (theo thời giá hiện nay). Còn nếu căn cứ vào cách phân loại
của Ngân hàng Thế giới, thì nước ấy phải có mức GDP bình quân đầu người tối
thiểu 906 USD/năm thì mới được coi là vượt qua ngưỡng n
ước đang phát triển có
thu nhập thấp.
Tóm lại, việc đánh giá phân loại các nước chỉ đơn thuần dựa vào mức thu
nhập bình quân đầu người hàng năm là khá đơn giản. Người ta chỉ cần căn cứ vào
các ngưỡng thu nhập để phân loại các nước do các tổ chức phân loại đưa ra theo thời
giá, so sánh các ngưỡng ấy với mức thu nhập bình quân đầu người của các nước là
có thể xếp loạ
i nước ấy thuộc nhóm nào. Hiện nay, cách phân loại này đang được áp
dụng phổ biến trên thế giới.

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu


3
2. Nghịch lý của chỉ số GDP bình quân đầu người (viết tắt là GDP/người)
Chỉ số GDP bình quân đầu người của một nước được tính bằng cách lấy tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) chia cho số dân của nước ấy cho một năm nhất định. Chỉ
số này thường được sử dụng để đánh giá mức độ thu nhập của người dân ở các
nước. Nó phản ánh nh
ững biến đổi về mặt tăng trưởng kinh tế, là bộ phận cấu thành
của một số chỉ số tổng hợp khác. Tuy nhiên, mặc dù hiện nay nhiều nước vẫn dùng
chỉ số GDP/người, nhưng nhìn chung nó có nhiều nhược điểm và chưa phản ánh sát
đúng tình hình kinh tế của một nước. Cụ thể hơn, chỉ số GDP bình quân đầu người
không thể phản ánh một cách chân thực m
ức thu nhập của người dân ở mỗi nước.
Có một số lý do chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, chỉ số GDP/người không phản ánh được sự khác biệt về sức mua
tương đương của các đồng tiền do tác động của cơ chế tỷ giá hối đoái, thuế… do
vậy không phản ánh chân thực thu nhập thực tế của người dân ở mỗi nước. Thí dụ,
n
ăm 2005 Việt Nam có mức GDP/người đạt 639 USD, còn Singapore có mức
GDP/người đạt 25.000 USD- tức là Singapore cao gấp 39 lần so với Việt Nam xét
trên danh nghĩa. Tuy nhiên, nếu xét tới sức mua tương đương của đồng tiền, thì mức
GDP/người của Việt Nam năm 2005 đạt 3.025 USD, trong khi đó mức GDP/người
của Singapore đạt 28.370 USD- chỉ cao gấp 9,4 lần so với Việt Nam. Rõ ràng ở đây
có sự chênh lệch rất lớn (39 so với 9,4), và người ta thừa nhận r
ộng rãi rằng chỉ số
GDP/người có tính tới sức mua tương đương (PPP) phản ánh chân thực hơn mức thu
nhập thực tế của người dân ở mỗi nước. Điều đó cho thấy những nhược điểm rõ
ràng của chỉ số GDP/người danh nghĩa.
- Thứ hai, chỉ số GDP/người, thậm chí đã tính tới sức mua tương đương, mới
chỉ phản ánh mặt s
ố lượng bình quân của thu nhập của người dân ở mỗi nước, trong

khi chưa thể phản ánh được tính chất phân phối thu nhập giữa các bộ phận dân cư
trong xã hội. Hay nói cách khác, nó chưa phản ánh được mức độ phân hoá giàu–
nghèo ở một nước. Khi xem xét sâu hơn chỉ số GDP/người của một nước, người ta
thường đặt câu hỏi: Liệu có bao nhiêu phần trăm dân số nước đó có mức thu nhập
bình quân ngang b
ằng hoặc cao hơn mức GDP bình quân đầu người của cả nước?
Nếu tỷ lệ là cao, thì chỉ số GDP/người mới phản ánh chân thực mức thu nhập và đời
sống dân cư của nước đó. Còn nếu tỷ lệ là thấp, rõ ràng chỉ số GDP/người chỉ là một
cách thống kê che đậy một trong những vấn đề hết sức bức xúc của bất kỳ xã hội
nào, đ
ó là tình trạng bất bình đẳng thu nhập và phân hoá giàu- nghèo trong xã hội.
- Ngoài ra, chỉ số GDP/người không thể phản ánh được nhiều mặt thuộc về
chất lượng của tăng trưởng và phát triển kinh tế như: cơ cấu kinh tế; năng suất, hiệu
quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; sự ổn định của các cân đối vĩ mô; sự bền

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

4
vững về tài nguyên, môi trường; sự gắn kết và lành mạnh xã hội… Trong khi đó,
đây là những yếu tố không thể thiếu để đảm bảo một nền kinh tế đạt được tăng
trưởng và phát triển bền vững, thực sự vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu
nhập thấp.
Những lý do trên cho thấy rằng, để vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu
nhập thấp m
ột cách đích thực, một nước không chỉ phải đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng GDP để mức GDP bình quân đầu người vượt qua các ngưỡng đã định, mà
còn phải đạt được một loạt các yếu tố đi kèm khác (những yếu tố này sẽ được trình
bày rõ hơn trong các phần sau).
3. Những kiểu vượt ngưỡng khác nhau
Do những nhược điểm của chỉ số GDP bình quân đầu người, cho nên có nhi

ều
vấn đề được đặt ra xoay quanh sự vượt ngưỡng của các quốc gia, hình thành nên hai
kiểu vượt ngưỡng cơ bản trái ngược nhau: (1) Vượt ngưỡng giả; và (2) Vượt ngưỡng
đích thực và bền vững. Vượt ngưỡng giả diễn ra khi sự vượt ngưỡng ấy là không
đích thực và không bền vững. Có thể sự vượt ngưỡng ấy là phiến diện, với mức
GDP bình quân đầu người vượt qua ng
ưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp,
nhưng đi kèm theo đó là sự bất ổn kinh tế vĩ mô, năng suất, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế thấp, bất bình đẳng xã hội tăng cao,… Sự vượt ngưỡng giả
cũng có thể là sự vượt ngưỡng rất mong manh, dễ trồi lên, thụt xuống do tính chất
không ổn định của tăng trưởng kinh tế
. Những năm kinh tế tăng trưởng cao sẽ đảm
bảo cho mức GDP bình quân đầu người vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có
thu nhập thấp, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau khi tăng trưởng kinh tế sụt
giảm sẽ không đảm bảo cho mức GDP/người vượt qua ngưỡng thu nhập này, khi đó
nước ấy lại rơi vào nhóm nước có thu nhập thấp. Vượt ngưỡng giả cũng có thể xảy
ra trong trườ
ng hợp sự vượt ngưỡng gây nguy hại cả trước mắt và trong tương lai.
Điều này xảy ra khi một nước chạy theo tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá để nâng
cao thu nhập bình quân đầu người mà coi nhẹ những yếu tố khác dẫn đến bất ổn các
cân đối vĩ mô, tham nhũng cao, phá vỡ gắn kết xã hội, cạn kiệt nguồn tài nguyên,
tàn phá môi trường, gia tăng bất bình đẳng,…
Trái với vượt ng
ưỡng giả, sự vượt ngưỡng đích thực và bền vững không chỉ
hàm ý một sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững để đảm bảo người dân có một
mức thu nhập cao và ổn định. Đi kèm theo tăng trưởng cao và bền vững là hàng loạt
những yếu tố quan trọng khác như: tiết kiệm và đầu tư có hiệu quả, duy trì bình
đẳng thu nhập giữa các nhóm dân cư để tạo ra g
ắn kết xã hội, nhà nước và toàn dân
đầu tư mạnh vào giáo dục để nâng cao dân trí, vận dụng khoa học - công nghệ, diệt

trừ tham nhũng, xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, có hiệu lực, phát triển

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

5
khu vực doanh nghiệp năng động, có năng lực cạnh tranh để duy trì tăng trưởng và
phát triển.
Có những thí dụ thú vị và nhiều bài học xoay quanh sự vượt ngưỡng của các
quốc gia. Một trong những hình ảnh gần đây thường được các nhà kinh tế nói tới là
“cái bẫy thu nhập trung bình”, hàm ý tình trạng của một số nước sau khi đã thoạt
được ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp (GDP bình quân đầu người
khoảng dưới 1.000 USD/năm) rất lâu không vươn lên được ngưỡng 10.000 USD của
nước giàu. Trong số những nước nghèo, có một số nước đã thoát nghèo và trở thành
những “con hổ” châu Á, có thu nhập trung bình. Song, một số nước như Philippin,
Inđônêsia và cả Thái Lan, Malaysia đều chỉ loanh quanh ở mức thu nhập bình quân
dưới 10.000 USD/người. Từ những nước thu nhập trung bình này, có rất ít nền kinh
tế tiếp tục tăng trưởng bền vững để trở
thành những nền kinh tế có thu nhập cao trên
10.000 USD/người và trở thành “con rồng” như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore.
Thực tế trên gợi ý rằng, một nước sau khi vượt qua ngưỡng nước đang phát
triển có thu nhập thấp, thì cần phải nỗ lực vượt qua cái “bẫy thu nhập trung bình”.
Muốn vậy nước ấy phải tìm mọi cách để đảm bảo sự vượt ngưỡng của mình là đích
thực và bền vững.
















CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

6
B. NHỮNG YẾU TỐ ĐẢM BẢO VIỆT NAM SỚM VƯỢT NGƯỠNG NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN CÓ THU NHẬP THẤP
1. Thực trạng thu nhập trong phát triển hiện nay của Việt Nam
1.1. Những thành tựu
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của quá trình đổi mới ở Việt Nam
là luôn đạt và duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP cao hàng đầu trong khu vực và
cả trên thế giới. Đây là một yếu tố cơ bản để đảm bảo Việt Nam có thể sớm vượt
ngưỡng nước đang phát triển có thu nhậ
p thấp. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, trong giai đoạn 1990-2007, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm
của Việt Nam đạt 7,5%, trong đó năm cao nhất đạt 9,5% (1995) và năm thấp nhất
đạt 4,8% (1999) (Hình 1).
Hình 1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, giai đoạn 1990-2007
Đơn vị: %
5.1
5.8
8.7
8.1
8.8

9.5
9.3
8.2
5.8
4.8
6.8
6.9
7.1
7.3
7.8
8.4
8.17
8.5
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008).
Trong giai đoạn 1990- 2007, sự sụt giảm tăng trưởng GDP trong các năm
1997, 1998 là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á. Tuy
nhiên, kể từ năm 2000 đến nay tốc độ tăng trưởng GDP luôn được duy trì ở mức khá

cao, ổn định và vững chắc. Xu thế này nhiều khả năng sẽ tiếp tục trong những năm
tới.

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

7
Tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn đáng kể so với tốc độ gia tăng dân số trong
nhiều năm liên tục là nhân tố chủ yếu khiến mức GDP bình quân đầu người của Việt
Nam tăng cao gấp nhiều lần trong giai đoạn 1990- 2007. Theo số liệu của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, GDP bình quân đầu người năm 2007 của Việt Nam đạt 835 USD,
cao gấp hơn 7 lần so với m
ức GDP bình quân đầu người năm 1990 (Hình 2).
Hình 2. Mức thu nhập GDP bình quân đầu người của Việt Nam, giai
đoạn 1990-2007
Đơn vị: USD
118 118
145
190
231
288
338
361
357
374
402
413
440
492
553
639

722
835
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008).
Với tốc độ tăng trưởng GDP khá vững chắc hiện nay, năm 2008 nền kinh tế
Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 8,5-9% như kế hoạch đã đề ra, khi đó GDP
bình quân đầu người sẽ đạt 960 USD. Nếu kịch bản này xảy ra, thì kết thúc năm
2008 lần đầu tiên mức GDP bình quân đầu người của Việt Nam vượt ngưỡ
ng thu
nhập bình quân của nước đang phát triển có thu nhập thấp. Năm 2009, dự báo mức
GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt 1.060 USD, khi đó Việt Nam sẽ
hoàn toàn vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Bên cạnh tăng trưởng kinh tế, công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam trong
mấy thập kỷ qua cũng đạt được những thành tựu quan trọng. Trước khi tiến hành
công cuộc đổi m
ới, tỷ lệ các hộ nghèo ở Việt Nam rất cao, lên đến 70%. Bước vào

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu


8
thời kỳ đổi mới, công tác xoá đói giảm nghèo đã được Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, kết quả là tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã
giảm khá nhanh chóng. Việt Nam được cộng đồng quốc tế công nhận là nước có tốc
độ giảm nghèo nhanh trên thế giới và là một trong những nước đi đầu trong thực
hiện mục tiêu giảm 50% số người nghèo vào năm 2015.
Trong giai
đoạn 1991- 2000, cả nước giảm được trên 2 triệu hộ nghèo đói. Tỷ
lệ hộ nghèo đói giảm nhanh từ trên 30% vào năm 1992 xuống còn 10% vào năm
2000, bình quân mỗi năm giảm 250.000 hộ. Riêng trong giai đoạn 1996- 2000, mỗi
năm giảm 300.000 hộ nghèo đói. Trong giai đoạn 2001-2004, xét theo các chuẩn
nghèo mới, cả nước giảm được hơn 970.000 hộ nghèo, làm cho tỷ lệ hộ nghèo giảm
từ 17,18% năm 2001 xuống còn 8,30% năm 2004. Đến n
ăm 2005, Chính phủ ban
hành chuẩn nghèo mới, nên số hộ xếp vào diện nghèo tăng lên so với năm 2004. Số
hộ nghèo năm 2005 là gần 3,9 triệu hộ, chiếm 21,85% tổng số hộ trên toàn quốc.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2005-2007, số hộ nghèo tiếp tục giảm mạnh, ước tính
mỗi năm có khoảng 340.000 hộ thoát nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn
18% năm 2006 và 14% năm 2007 (Bảng 1).
Bảng 1. Tỷ lệ hộ
nghèo toàn quốc giai đoạn 1992-2007
Năm Số hộ nghèo (1000 hộ) Tỷ lệ hộ nghèo (%)
1992 3810,7 30,01
1993 3446,0 26,00
1994 3208,8 23,14
1995 2943,9 20,37
1996 2857,1 19,23
1997 2633,2 17,70
1998 2387,1 15,66
1999 2056,7 13,00

2000 1615,0 10,00
2001 2800,1 17,18
2002 2500,0 14,30
2003 1700,0 11,00
2004 1440,0 8,30
2005 3898,6 21,85
2006 3568,5 18,00
2007 3229,0 14,70
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008).

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

9
Việc thay đổi chuẩn nghèo quốc gia qua các giai đoạn tạo ra những đột biến
về tỷ lệ hộ nghèo ở thời điểm tính theo chuẩn nghèo mới, do vậy phần nào gây khó
khăn cho việc đánh giá thành tựu xoá đói giảm nghèo trong khoảng thời gian dài.
Tuy nhiên, xét tổng thể, công tác xoá đói giảm nghèo trong gần 20 năm qua đã được
thừa nhận rộng khắp là đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích l
ệ. Tính theo chuẩn
nghèo quốc tế thì thấy rằng quá trình giảm nghèo ở Việt Nam là khá vững chắc khi
mức chi tiêu bình quân đầu người liên tục gia tăng và tỷ lệ dân số sống dưới mức 1
USD/ngày và 2 USD/ngày (tính theo ngang giá sức mua- PPP) liên tục giảm theo
thời gian. Năm 2005, tỷ lệ dân số sống dưới mức 1 USD/ngày và dưới mức 2
USD/ngày của Việt Nam tương ứng là 8% và 51,2%, giảm tương ứng 79% và
42,8% so với năm 1990 (Hình 3).
Hình 3. Tỷ lệ nghèo của Vi
ệt Nam tính theo chuẩn quốc tế, giai đoạn
1990- 2007
50.8
39.9

23.6
16.4
16.9
15.2
14.6
13.6
12
10.6
8
87
80.5
69.4
63.5
61.8
58.2
55.8
53.4
51.2
65.4
65.9
48.9
63.7
68.5
68
71.3
73.8
78.7
82
85.5
89.9

41.7
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
1990 1993 1996 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tỷ lệ dân sống dưới mức 1 USD và 2 USD PPP ngày (%
)
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Chi tiêu bình quân đầu người (USD PPP/tháng
)
Tỷ lệ dân số sống dưới 1 USD PPP/ngày
Tỷ lệ dân số sống dưới 2 USD PPP/ngày

Chi tiêu bình quân đầu người

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008).
Mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 của Việt Nam
là phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ mức gần 22% năm 2005 xuống còn 10- 11%

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

10
năm 2010 (trong 5 năm giảm 50% số hộ nghèo). Với đà thành tựu đã đạt được, Việt
Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu trước thời hạn.
1.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được nêu trên, quá trình gia tăng thu nhập
trong phát triển của Việt Nam vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế. Đánh giá khái quát,
những tồn tại, hạn chế thể hiện ở
một số khía cạnh sau đây:
- Thứ nhất, tính chất tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua
còn nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Tăng trưởng đạt được chủ yếu do gia
tăng về lượng các yếu tố đầu vào như vốn đầu tư, số lượng lao động, trong khi chất
lượng, hiệu quả đầu tư còn thấp, trình độ công nghệ l
ạc hậu và chất lượng lao động
còn nhiều hạn chế.
Hiện nay, tăng trưởng kinh tế ở nước ta chủ yếu do đóng góp của yếu tố vốn
và lao động, đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) có tăng, nhưng còn
rất thấp nếu so với các nước đang phát triển ở châu Á. Đóng góp của TFP vào tăng
trưởng trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay ch
ỉ đạt 28,2% (Bảng 2), thấp hơn nhiều
so với các con số 39,96% và 40,78% tương ứng của Hàn Quốc và Ấn Độ trong thời
kỳ 1980- 2000.
Bảng 2. Mức đóng góp của TFP vào tăng trưởng, giai đoạn 1993-1997

Đơn vị: %
Giai đoạn
1993-1997
Giai đoạn
1998-2002
Giai đoạn từ
2003 đến nay
Tổng GDP 100 100 100
Đóng góp nhân tố vốn 69,3 57,5 52,7
Đóng góp nhân tố lao động 15,9 20 19,1
Đóng góp TFP 14,8 22,5 28,2
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007).
Hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lý, quản lý đầu tư còn nhiều
thất thoát, kém hiệu quả, thể hiện qua hệ số ICOR còn khá cao. Hệ số ICOR trung
bình của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 là 5,16, giảm xuống còn 5 năm
2006 và 4,76 năm 2007. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, nếu so sánh với các
nước trong khu v
ực ở giai đoạn tăng trưởng nhanh thì hệ số ICOR của Việt Nam cao
hơn đáng kể (Bảng 3).

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

11
Bảng 3. So sánh ICOR của Việt Nam với các nước trong thời kỳ tăng
trưởng nhanh
Nước Thời kỳ tăng
trưởng nhanh
Tỷ lệ đầu tư
(% GDP)
Tỷ lệ tăng

trưởng (%)
Hệ số ICOR
2001-2005 37,7 7,5 5,16
2006 40,0 8,17 5,00

Việt Nam
2007 40,6 8,5 4,76
Trung Quốc 1991-2003 39,1 9,5 4,1
Nhật Bản 1961-1970 32,6 10,2 3,2
Hàn Quốc 1981-1990 29,6 9,2 3,2
Đài Loan 1981-1990 21,9 8,0 2,7
Nguồn: Đại học Kinh tế Quốc dân (2007) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007).
Trình độ lao động của Việt Nam rất thấp, đến năm 2005 tỷ lệ lao động qua
đào tạo của cả nước mới đạt 25%, hệ quả là năng suất lao động của Việt Nam thấp
hơn đáng kể so với các nước trong khu vực (Bảng 4).
Bảng 4. So sánh về năng suất lao động c
ủa Việt Nam với các nước trong
khu vực, 2005
Nước Năng suất lao động
(USD/lao động)
So sánh (lần)
Việt Nam 1243,4 1,00
Trung Quốc 2152,3 1,73
Philippin 2419,2 1,95
Inđônêsia 2483,1 1,99
Thái Lan 4514,1 3,63
Malaysia 11276,2 9,06
Hàn Quốc 29057,6 23,37
Singapore 48563,9 39,05
Nguồn: Đại học Kinh tế Quốc dân (2006).

Trình độ công nghệ trong nền kinh tế Việt Nam cũng rất thấp, lạc hậu 3-4 thế
hệ so với những nước công nghiệp phát triển, đứng thứ 92 trong số 117 nước được

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

12
điều tra (WEF, 2005-2006). Nếu dựa vào “tiêu chuẩn công nghệ” của Tổ chức Phát
triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) về: những ngành công nghệ cao, công
nghệ trung bình và công nghệ thấp sẽ cho thấy bức tranh so sánh về trình độ công
nghệ sản xuất của Việt Nam so với các nước trong khu vực (Bảng 5).
Bảng 5. Trình độ phát triển công nghệ của Việt Nam và các nước trong
khu vực, 2005
Đơn vị: %
Nước Công nghệ cao Công nghệ TB Công nghệ thấ
p
Việt Nam 20,6 20,7 58,7
Philippin 29,1 25,5 45,7
Inđônêsia 29,7 22,6 47,7
Thái Lan 30,8 26,5 42,7
Malaysia 51,1 24,6 24,3
Singapore 73,0 16,5 10,5
Nguồn: Đại học Kinh tế Quốc dân (2006).
Thực tế trên đe doạ tính bền vững của tăng trưởng và phát triển trong cả hiện
tại và tương lai. Nó làm nảy sinh và gia tăng mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng (số
lượng) và chất lượng, hiệu quả tăng trưởng mà chúng ta chưa thể giải quyết một
cách có hiệu quả.
- Thứ hai, tuy mặt bằng thu nhậ
p của người dân Việt Nam tăng lên theo đà
tăng trưởng kinh tế nhưng sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các vùng miền, giữa
các tầng lớp dân cư có xu hướng ngày càng gia tăng. Xét tới cả ba phương pháp

đánh giá mức chênh lệch giàu nghèo ở nước ta thì đều cho kết quả là chênh lệch
giàu nghèo có xu hướng ngày càng tăng lên.
Phương pháp thứ nhất là tính hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm hộ giàu
và nhóm hộ nghèo. Tổ
ng số hộ được chia thành 5 nhóm với số hộ bằng nhau (mỗi
nhóm có số hộ bằng 20% tổng số hộ), theo mức thu nhập bình quân đầu người
(nhóm 1 là nhóm nghèo, nhóm 2 là nhóm dưới trung bình, nhóm 3 là nhóm trung
bình, nhóm 4 là nhóm khá, nhóm 5 là nhóm giàu). Hệ số chênh lệch giàu, nghèo
được tính bằng cách chia thu nhập bình quân đầu người của nhóm 5 cho nhóm 1.
Các chỉ số thống kê cho thấy, hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo qua
các năm ở nước ta như sau: năm 1990 là 4,1 lần, năm 1991 là 4,2 lần, năm 1993 là
6,2 lần, năm 1994 là 6,5 l
ần, năm 1995 là 7,0 lần, năm 1996 là 7,3 lần, năm 1999 là
7,6 lần, năm 2002 là 8,1 lần và năm 2004 là 8,4 lần. Hệ số chênh lệch ở khu vực

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

13
thành thị cao hơn ở nông thôn (năm 2004 là 8,1 lần so với 6,4 lần). Theo vùng lãnh
thổ chênh lệch cao nhất là ở Đông Nam bộ (8,7 lần), tiếp đến là Tây Nguyên (7,6
lần), Đông Bắc (7 lần)
Phương pháp thứ hai là tính tỷ trọng tổng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập
thấp nhất (tức là nhóm 1 và nhóm 2) chiếm trong tổng thu nhập của tất cả 5 nhóm.
Tỷ trọng này của nước ta năm 1995 là 21,1%, năm 1996 là 21%, năm 1999 là
18,7%, năm 2002 là 18%, n
ăm 2004 là 17,4%. Tỷ trọng này có xu hướng ngày càng
giảm đi cho thấy chênh lệch thu nhập ngày càng tăng lên.
Phương pháp thứ ba là tính hệ số GINI
1
. Các chỉ số thống kê của Việt Nam cho

thấy, hệ số GINI năm 1994 là 0,350, năm 1995 là 0,357, năm 1996 là 0,362, năm
1999 là 0,390, năm 2002 là 0,420, năm 2004 là 0,423. Hệ số GINI ngày càng tăng cho
thấy sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng tăng lên.
Bất bình đẳng thu nhập gia tăng cho thấy rằng thành quả của tăng trưởng đã
không được phân bổ đồng đều giữa các tầng lớp dân cư. Thực tế
này đặt ra câu hỏi:
Có bao nhiêu phần trăm dân số Việt Nam có thu nhập ít nhất là ngang bằng với mức
thu nhập bình quân đầu người? Nếu tỷ lệ này là cao thì việc vượt ngưỡng nước đang
phát triển có thu nhập thấp mới thực sự có ý nghĩa.
- Thứ ba, ở Việt Nam trong những năm qua, cùng với tăng trưởng kinh tế thì
cũng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc, ô nhiễm môi trườ
ng ngày càng trầm
trọng, ảnh hưởng xấu trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người dân. Các tệ nạn
xã hội như mại dâm, nghiện hút ma tuý, nhiễm HIV/AIDS, có xu hướng gia tăng,
diễn biến phức tạp, tỷ lệ các trường hợp tái phạm cao, cho dù các ngành, các cấp đã
thực hiện nhiều biện pháp phòng và chống. Sự phát triển của tệ nạn xã hội không chỉ
ảnh hưởng tiêu c
ực đến nguồn nhân lực, mà còn ảnh hưởng đến môi trường xã hội
và làm gia tăng chi phí của xã hội cho việc phòng, chống tệ nạn cũng như giải quyết
hậu quả của nó. Tình trạng khai thác khoáng sản quá mức, phá rừng, xói mòn đất, ô
nhiễm các nguồn nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường công nghiệp, đô thị
và nông thôn, thiên tai thường xuyên với tần suất cao và diễn biến phức tạp, sự suy
giảm các nguồn tài nguyên
đa dạng sinh học, tình trạng ô nhiễm xuyên biên giới,
đang là một thực tế nghiêm trọng ngày càng phổ biến ở nước ta. Điều đáng ngại là
những người nghèo lại chính là những người phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất
của tình trạng ô nhiễm và tàn phá môi trường. Ngoài ra, trong xã hội cũng nảy sinh

1
Hệ số này nhận giá trị từ 0 đến 1, càng tiến gần đến 0 là tiến đến sự bình đẳng cao, càng tiến gần

đến 1 thì sự bất bình đẳng càng cao.

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

14
nhiều mặt trái liên quan đến văn hoá, thuần phong, mỹ tục, chuẩn mực văn hoá và
đạo đức của dân tộc bị xâm hại phổ biến, gây trở lực đáng kể đối với sự phát triển.
Tóm lại, những hạn chế nêu trên cho thấy rằng vẫn còn không ít rủi ro có khả
năng ảnh hưởng đến sự vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp của Việ
t
Nam một cách đích thực và bền vững. Cụ thể hơn, chúng ta có thể nhận thấy khá rõ
những dấu hiệu ảnh hưởng này từ bối cảnh kinh tế của năm 2007. Bên cạnh những
con số kinh tế đầy ấn tượng của năm 2007 là những con số và hiện tượng gây quan
ngại và rất đáng lưu tâm (Hộp 1).
Hộp 1. Hai mặt của những chỉ số kinh tế ấ
n tượng năm 2007
Năm 2007 được coi là năm của những chỉ số kinh tế đầy ấn tượng như
tăng trưởng GDP đạt xấp xỉ 8,5% - mức cao nhất trong 11 năm qua; hay thu
nhập bình quân đầu người được nâng lên 835 USD/người/năm; thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI đạt mức cao kỉ lục 20,3 tỉ USD
Tuy nhiên, những con số này, dù ấn tượng đến mấy, cũng chỉ là những chữ
số
được ghép lại với nhau. Quan trọng hơn cả là chúng có tác động như thế nào đến đời
sống của các tầng lớp nhân dân.
Xe hơi giờ không còn là thứ phương tiện xa xỉ với nhiều người thành phố, tại
những trung tâm mua sắm, siêu thị lớn đông nghẹt người. Tốc độ tăng trưởng GDP
cao 8,5% năm 2007 phần nào được thể hiện qua sức mua ngày Tết ở những siêu thị
lớn này.
Nhưng chợ cóc, chợ truyền thống mới là nơi sắm Tết của đa số người dân, kể
cả dân thành phố. So với một năm trước, thì mớ rau, cân thịt trong chợ đều đã tăng

giá gấp rưỡi, gấp đôi. Lương tăng, thu nhập tăng. Nhưng tốc độ trượt giá hơn chục
phần trăm trong năm 2007 đã làm cho sự tăng thu nhập
đó giảm giá trị.
Trong những ngày giáp Tết, sân golf Chí Linh vẫn đông khách. Gậy golf và
sân golf giờ đã quen thuộc hơn cày cuốc và đồng ruộng với những nhân viên sân
golf, dù họ xuất phát từ nhà nông. Sân golf mọc lên, ruộng hết, nhưng đó lại là cơ
hội tốt để hàng trăm dân địa phương chuyển đổi nghề nghiệp với thu nhập mỗi tháng
bằng cả năm làm nông.
Chị Nguyễn Hải Hạt, nhân viên sân golf Chí Linh, Hả
i Dương cho biết:
"Trung bình một tháng từ 2 triệu trở lên đến 4 triệu. So với nhà nông cao hơn rất là
nhiều. Chưa bao giờ nhà nông có thể nghĩ tới một mức thu nhập cao như thế".
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI năm 2007 đạt mức cao kỉ lục 20,3 tỉ
USD là niềm hy vọng để có thêm nhiều dự án sân golf, khu công nghiệp, nhà máy, tạo

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

15
thêm nhiều công ăn việc làm. Nhưng giữa hy vọng và thực tế là một khoảng cách.
Xây nhà trọ cho công nhân thuê là nghề "phát" nhất của thôn Tứ Thông sau
khi nhường hết đất nông nghiệp cho khu công nghiệp Đại An. Nhưng đại bộ phận
người dân lại không thể có việc trong khu công nghiệp vì không trong "độ tuổi lý
tưởng để làm công nhân". Ngày giáp Tết, thôn vẫn vắng bóng người đi làm xa.
Ông Nguyễn Văn Vinh, Trưởng thôn Tứ Thông, xã Tứ Minh, thành phố Hải
Dương, t
ỉnh Hải Dương cho biết: "Lứa tuổi 30 - 50 chiếm khoảng 40% dân số trong
thôn. Họ không vào Đại An được vì không có tay nghề, mà Đại An người ta cũng
không tuyển lứa tuổi như thế. Người ta cũng không đào tạo, mà không đào tạo thì
sao mà vào được".
Đất rào bỏ không, đất công nghiệp chưa triển khai hạ tầng, vẫn còn nhiều khu

đất được thu hồi cho các dự án FDI đang để không. Trong 20,3 tỉ USD vốn FDI
đăng kí năm 2007, mới ch
ỉ có chưa đầy 1/3 được đưa vào thực hiện. Giải ngân
chậm, nhà máy chưa mọc lên, tức là cơ hội việc làm vẫn chưa thể có.
Những chục tỉ USD FDI hay tốc độ tăng trưởng 8-9% mỗi năm là những con
số tăng trưởng kinh tế cực kỳ ấn tượng và đang góp phần làm cho đời sống người
dân được cải thiện ít nhiều. Nhưng sẽ còn ấn tượ
ng hơn nếu tăng trưởng kinh tế cao
đi kèm với một tỷ lệ lạm phát hợp lý, nếu FDI được giải ngân cao hơn, tạo ra nhiều
công ăn việc làm hơn. Đó cũng là bài toán mà Chính phủ đã đặt ra và tập trung
quyết liệt trong năm 2008 với một quyết tâm biến những chỉ số tăng trưởng kinh tế
ấn tượng thành những tăng trưởng cụ thể trong đời sống c
ủa người dân.
Nguồn: Hanoimoi.com.vn, ngày 10/2/2008.
2. Những yếu tố bảo đảm sớm vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu
nhập thấp
2.1. Nhận thức và tư duy mới về phát triển đất nước
Để nước ta sớm vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp một cách
đích thực và bền vững, cần nhanh chóng có giải pháp giải quyết những hạn chế nêu
trên đây. Muốn vậy, trước hết c
ần có sự đổi mới nhận thức và tư duy về phát triển
đất nước. Cần bồi đắp tư duy chất lượng, phát triển bền vững, loại bỏ tư duy chạy
theo thành tích có khi ảo, loại bỏ tư duy đang quá nặng về chiều rộng, theo thói quen
dễ dãi chậm đi vào chiều sâu, ngại khó. Cốt lõi của tư duy mới về phát triển đất
nước là giải quyết vấn
đề tốc độ tăng trưởng phải trên nền tảng giải quyết vấn đề
chất lượng tăng trưởng. Theo đó, trong dài hạn, cần từ bỏ quan điểm phải đạt được
tốc độ tăng trưởng nhanh với mọi giá nhờ khai thác chiều rộng, nhờ tăng mạnh vốn

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu


16
đầu tư và khai thác tài nguyên; chuyển dần sang tăng trưởng dựa vào hiệu quả và
bền vững, tập trung nhiều hơn, quyết liệt hơn vào mục tiêu chất lượng dài hạn. Cụ
thể hơn, trong những năm tới, cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau đây:
- Thứ nhất, nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng: nâng cao chất
lượng nguồn nhân lự
c, trình độ khoa học công nghệ, tăng cường ảnh hưởng của yếu
tố TFP, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, hướng hoạt động
của nền kinh tế theo các ngành, các lĩnh vực tạo ra nhiều giá trị gia tăng, giảm chi
phí trung gian, chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hoá có dung
lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế c
ủa đất nước và thực hiện
đồng bộ hoá quá trình khai thác và chế biến sản phẩm.
- Thứ hai, phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế: các
nhà hoạch định chính sách cần chú trọng các chính sách tạo ra, duy trì và củng cố cơ
sở tăng trưởng dài hạn, như yếu tố vốn nhân lực, cở sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, cơ
cấu kinh tế hợp lý, cân đố
i. Theo đó, có thể phải chấp nhận trong một số năm trước
mắt nền kinh tế không đạt được tốc độ tăng trưởng cao như kỳ vọng, vì phải tập
trung tạo lập và củng cố cơ sở tăng trưởng dài hạn, nhưng suốt cả giai đoạn sau đó
sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững.
- Thứ ba, g
ắn tăng trưởng với việc tạo tác động lan toả tích cực đến các đối
tượng chịu ảnh hưởng, có nghĩa là duy trì một mục tiêu tăng trưởng hợp lý trong mối
quan hệ ràng buộc với những điều kiện về tài nguyên môi trường và các vấn đề xã
hội. Một mặt, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với đảm bảo sử dụng hợp lý và tiết ki
ệm
tài nguyên, nâng cao khả năng tái sinh tài nguyên, phòng chống ô nhiễm môi trường.
Mặt khác, quá trình tăng trưởng kinh tế phải được kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ

bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là xoá đói giảm nghèo, công
bằng xã hội, giải quyết việc làm, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hoá nghệ thuật
- Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: cần có chính sách tạo
môi tr
ường kinh doanh lành mạnh và năng động, bảo đảm sự phát triển đồng bộ các
thị trường, phân định hợp lý vai trò của Nhà nước với thị trường, phân công và phối
hợp chức năng tối ưu giữa các chủ thể thị trường mà quan trọng nhất là các thành
phần và khu vực kinh tế, một hệ thống thuế đơn giản và có định hướng khuyến
khích rõ ràng, một hệ thống ngân hàng thương mạ
i hoạt động theo nguyên tắc không
thiên vị xuất xứ thành phần của doanh nghiệp.
2.2. Các yếu tố vĩ mô
2.2.1. Tạo lập thể chế đúng, tạo thuận lợi, tăng động lực, phát huy sức mạnh
và tiềm năng của nền kinh tế, của doanh nghiệp, của nhân dân

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

17
Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, việc hình thành và từng bước hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đạt nhiều thành tựu quan trọng và
đóng góp có ý nghĩa quyết định vào quá trình phát triển đất nước. Chúng ta đã thực
hiện thành công quá trình chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan
liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hệ
thống pháp luật,
chính sách được đổi mới, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho các thành phần
kinh tế thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng hoạt động trên cơ sở dân chủ,
tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Quản lý nhà nước về kinh tế từng bước
được đổi mới từ chỗ Nhà nước quản lý cụ thể các hoạt động kinh tế sang quản lý
tổng thể nền kinh tế qu
ốc dân, từ chỗ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp vào

hoạt động sản xuất- kinh doanh thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô của kinh tế thị
trường. Các loại thị trường được hình thành và từng bước phát triển đồng bộ, tạo
thuận lợi cho việc lưu chuyển các yếu tố sản xuất, hàng hoá, dịch vụ ở thị trường
trong nước, mở rộng ra khu vự
c và thế giới. Nhiều chuyển biến tích cực đã được ghi
nhận trong việc gắn kết các thành tựu của phát triển kinh tế với giải quyết các vấn
đề xã hội. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giải quyết việc
làm, xoá đói giảm nghèo dành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước,
các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Trong những năm tới, việc ti
ếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường vẫn
được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm phát triển toàn diện và bền vững
đất nước. Mới đây (tháng 1/2008), Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá X) đã khẳng định tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Hội nghị quyết định phải tiếp tục hoàn thi
ện thể chế về sở hữu, phát
triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất -
kinh doanh; hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển
đồng bộ các loại thị trường; gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường; tăng cường sự lãnh đạo c
ủa Đảng về kinh tế, nâng cao
năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, tăng cường sự tham gia của nhân
dân, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
Sự nghiệp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là quá
trình lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng từ phía Đảng, Nhà nước, sự tham gia
tích cực, sự chung vai góp sức của toàn xã hội. Trong những năm tới, để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp này, cần thực hiện một số định hướng giải pháp lớn sau đây:
- Thứ nhất, tiếp tục làm rõ nội hàm cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN: đặc biệt một số vấn đề cơ bả

n liên quan đến bản chất của "kinh tế thị

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

18
trường định hướng XNCH" như: công cụ thực hiện kinh tế thị trường, các vấn đề
liên quan đến sở hữu, vai trò của Nhà nước, cần sớm được làm sáng tỏ và được thể
chế hóa.
- Thứ hai, hoàn thiện khung pháp luật cho nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN: đó là khung pháp luật về sở hữu ( trong đó có việc làm rõ nội hàm cụ thể
của sở hữu toàn dân, s
ở hữu nhà nước và xác định rõ quyền của chủ sở hữu, quyền
của người sử dụng, cơ chế quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân, ); khung pháp
luật bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, phù hợp với cam kết quốc tế; xác định nguyên tắc và làm rõ giới hạn của sự
can thiệp của Nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào hoạt
động của doanh
nghiệp; xây dựng khung pháp luật về: hợp đồng mang tính thống nhất, giao dịch
điện tử, tài chính công, thuế, tài nguyên và môi trường
- Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế thị trường:
Đối với chủ thể là Nhà nước, để hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh
tế, cần:
+ Cải cách mạnh hơn nữa tổ chức bộ máy hành chính thông qua việ
c từng
bước điều chỉnh, khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ
giữa chính quyền các cấp, cũng như các cơ quan đồng cấp, chuyển giao cho doanh
nghiệp hoặc tổ chức xã hội dân sự thực hiện một số dịch vụ công không nhất thiết
do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp đảm nhiệm; cải tiến phương thức qu
ản lý
cũng như lề lối làm việc của cơ quan nhà nước các cấp,

+ Kiên quyết đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt xóa bỏ những quy định không cần thiết về cấp phép, thanh tra, kiểm tra,
giám định, kiểm dịch
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thông qua đổi mới công tác
tuyển chọn, sử dụng, sa thải và quản lý cán bộ,
đồng thời tăng cường các biện pháp
giáo dục cán bộ về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận tâm, tận tụy với công việc đi
đôi với trả lương thỏa đáng (lương đủ cao và có các chế tài đi kèm để góp phần
chống tham nhũng), thực hành kỷ luật nghiêm minh, nghiêm khắc.
Đối với chủ thể là doanh nghiệp, cần tiến hành: đổi mới phương thức giám sát
doanh nghiệp theo hướng nâng cao tính chủ
động và tự chịu trách nhiệm của doanh
nghiệp; hoàn thiện, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện cơ chế hỗ
trợ, hoạt động và cạnh tranh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; mở
rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường năng lực thị trường cho các chủ thể
kinh tế nông nghiệp và nông thôn,

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

19
Đối với các tổ chức xã hội dân sự - một bộ phận cấu thành quan trọng và ngày
càng thể hiện vai trò không thể thiếu của nền kinh tế, cần có cơ chế khuyến khích,
hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức này mạnh hơn nữa, đặc biệt là tạo điều kiện cho
việc tham gia thực thi một số nhiệm vụ: cung cấp các dịch vụ công; thay thế Nhà
nước trong việ
c thực hiện một số chức năng kinh tế - xã hội; thực hiện vai trò giám
sát, giám định xã hội và phản biện chính sách; khuyến khích tham gia vào quá trình
xây dựng và thực thi pháp luật,
- Thứ tư, hoàn thiện từng bước cơ chế thực thi thể chế kinh tế thị trường:
+ Bảo đảm lấy "tự do cạnh tranh thị trường" làm cơ chế chủ yếu cho việc vận

hành nền kinh tế, tậ
p trung vào các hướng điều chỉnh cấu trúc thị trường, điều chỉnh
hành vi và giám sát các hành vi lạm dụng vị thế trên thị trường.
+ Hoàn thiện việc phân cấp trong quản lý nhà nước về kinh tế, trong đó đặc
biệt là xác định rõ những nhiệm vụ Nhà nước cần làm và những việc không nhất
thiết phải thực hiện, phân định rõ các công việc địa phương có toàn quyền quyết
định và những việc ph
ải tham vấn ý kiến của Trung ương hoặc phải thực hiện theo
quyết định của Trung ương. Cần nghiên cứu kỹ để thực hiện cơ chế phân cấp khác
nhau cho các địa bàn khác nhau tùy theo điều kiện và năng lực các cấp.
+ Tăng cường khả năng phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc hoạch
định, thực thi chính sách và cung cấp dịch vụ công. Song song với việc phân định rõ
chứ
c năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý nhà nước, cần có các quy định, các
chế tài bảo đảm nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình, có sự tham gia của
cộng đồng, làm rõ trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan và cá nhân
+ Tạo lập các cơ chế hữu hiệu để mở rộng quyền tham gia, quyền giám sát
thực hiện chính sách và quyền được thông tin của người dân, đặc biệt chú trọng
nâng cao chất lượ
ng, lưu lượng thông tin cho các chủ thể tham gia thị trường và thể
chế hóa quyền được tham gia và cơ chế tham gia của người dân bằng việc sớm ban
hành Luật Trưng cầu ý dân và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.

2.2.2. Nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
Việc nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có ý
nghĩa đặc biệt quan tr
ọng đối với sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Bởi lẽ việc
quan tâm đến những tiêu chí về chất lượng tăng trưởng này chính là cơ hội để đạt
được mục tiêu tăng trưởng về số lượng. Hơn nữa, việc nền kinh tế đạt được năng
suất, hiệu quả và sức cạnh tranh cao sẽ có hiệu ứng tác động lan toả trực tiế

p đến

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

20
các khía cạnh khác của phát triển bền vững quốc gia, như chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cải thiện các chỉ tiêu xã hội như nâng cao mức sống dân cư, xoá đói giảm nghèo,
giảm mức độ phân hoá xã hội, thực hiện các mục tiêu về môi trường…
Muốn vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp toàn diện và đồng
bộ về hoàn thiện thể chế kinh t
ế thị trường định hướng XHCN như đã nêu trên đây.
Những giải pháp đó sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, từ đó hỗ trợ tích
cực cho việc nâng cao năng suất lao động xã hội, hiệu quả đầu tư và sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Cụ thể hơn, cần tập trung thực hiện một số định hướng giải
pháp chính sau đây:
- Thứ
nhất, nâng cao năng suất lao động xã hội:
Để không ngừng nâng cao năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế
quốc dân, trong thời gian tới chúng ta phải hết sức chú ý đầu tư cho phát triển sản
xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý sản xuất, đẩy mạnh
đào tạo nâng cao trình độ của người lao động để phấn đấu tăng năng suất lao độ
ng
đều hơn ở cả ba khu vực kinh tế, cũng như tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Phải
đặc biệt chú ý nâng cao năng suất lao động ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng
như nâng cao năng suất lao động ngành nông- lâm nghiệp, vì ở các khu vực và
ngành kinh tế này hiện nay trình độ kỹ thuật còn rất thấp, nhưng lại có phạm vi hoạt
động rộng và chiếm tỷ lệ lao động rất lớn.
Mặt khác, phải tạo môi trường thật thông thoáng để lao động dễ dàng dịch
chuyển từ những lĩnh vực, những ngành kinh tế có năng suất lao động thấp sang các
lĩnh vực, các ngành kinh tế có năng suất lao động cao, thực hiện chuyển dịch cơ cấu

kinh tế một cách tích cực theo hướng vừa công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa tăng
nhanh năng suất lao động toàn xã hội.
- Thứ hai
, nâng cao hiệu quả đầu tư của nền kinh tế, đặc biệt là đầu tư bằng
nguồn vốn nhà nước:
Tăng cường và đổi mới công tác quản lý nhà nước về đầu tư theo hướng loại
bỏ tình trạng khép kín trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tách chức năng quản lý
nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng. Trong những năm trước mắt, cần
tập trung vào nhữ
ng công việc chính sau đây: nâng cao chất lượng công tác quy
hoạch và thực hiện quản lý đầu tư theo quy hoạch; khắc phục tình trạng tiêu cực,
lãng phí, thất thoát trong đầu tư; tổ chức thực hiện tốt Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu;
tăng cường công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý nghiêm
những vi phạm quy định về quản lý đầu tư; củng cố và chấn chỉnh l
ại các cơ quan
quản lý đầu tư, các ban quản lý dự án.

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

21
Tăng cường tính công khai, minh bạch chống khép kín và thực hiện đầu tư có
hiệu quả, tránh dài trải. Cần thống nhất và công bố công khai các nguyên tắc và tiêu
chí xác định ưu tiên đầu tư tài chính quốc gia đối với từng nhóm đối tượng đầu tư
của từng cấp ngân sách, từ đó kiên quyết không triển khai thực hiện những chương
trình, dự án không thiết thực, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn ho
ặc thiếu tính khả
thi và tính hiệu quả. Thực hiện công khai hoá tài chính đối với việc phân bổ quản lý
sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước tại các Bộ,
ngành, địa phương, tổng công ty, chủ đầu tư, ban quản lý dự án… Thực hiện sự
giám sát của nhân dân thông qua việc công bố rộng rãi các dự án đầu tư, tổ chức cơ

chế cùng tham gia quản lý d
ự án của người dân và tạo điều kiện cho các cơ quan dân
cử thực hiện tốt chức năng giám sát thực hiện đầu tư.
Nâng cao ý thức trách nhiệm và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công
chức làm việc trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Kết hợp
việc đẩy mạnh sinh hoạt công khai dân chủ ở cấp cơ sở
với công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát của cả hệ thống chính trị, của các cơ quan quản lý, của nhân dân cũng
như thực thi các chế tài đủ mạnh để đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng.
Quy định rõ trách nhiệm của người quyết định đầu tư và chủ đầu tư liên quan đến
chất lượng, hiệu quả của dự án đầu tư.
- Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh củ
a các doanh nghiệp:
Đẩy mạnh cải cách cơ cấu hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Tích cực
tháo gỡ những vướng mắc để thực hiện bằng được chương trình cổ phần hoá, bán,
khoán, cho thuê hoặc giải thể các doanh nghiệp nhà nước. Chọn lọc đưa ra một tiêu
chuẩn xác đáng cho các doanh nghiệp nhà nước cần giữ lại sở hữu nhà nước 100%
hoặc cổ phần khống chế, trong các tiêu chuẩn
đó cần nhấn mạnh đến tiêu chuẩn chất
lượng và hiệu quả kinh doanh.
Cần tổ chức lại hệ thống các doanh nghiệp theo ngành hàng, theo các quan hệ
liên kết về kinh tế, kỹ thuật thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm hình thành doanh
nghiệp đầu đàn hoặc công ty mẹ, tập hợp được sức mạnh cộng đồng các doanh
nghiệp đủ sức làm đối tác cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Nâng cao năng lực quản trị kinh doanh cho các doanh nghiệp trong bối cảnh
hội nhập và đối đầu với cạnh tranh quốc tế. Doanh nghiệp cần có chiến lược kinh
doanh, chiến lược sản phẩm, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm. Tập trung
khai thác lợi thế trong cạnh tranh; nghiên cứu phát triển sản phẩm mới; hiện đại hoá
công nghệ; chọn lựa hệ thống quản lý chất lượng tiên ti
ến.


CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

22
Trước mắt các doanh nghiệp cần phải áp dụng nhiều giải pháp nhằm giảm chi
phí sản xuất: chi phí đầu vào, chi phí quản lý, chi phí hành chính, chi phí tiếp thị
Tất cả các doanh nghiệp đều phải rà soát phấn đấu giảm chi phí, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị độc quyền.
Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm bằng nhiều giải pháp: đổi
mới thiết bị, công nghệ, ứ
ng dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao tay nghề, tổ chức lại
dây chuyền công nghệ, nâng cao kỷ luật lao động công nghiệp. Tổ chức hợp tác sản
xuất giữa các doanh nghiệp dựa trên sự phân công, chuyên môn hóa, hỗ trợ lẫn
nhau.
Để nâng cao năng lực thị trường, phải tổ chức tốt hệ thống thông tin thị
trường và phổ cập thông tin đến tận doanh nghiệp. Xây dựng tốt các chươ
ng trình
xúc tiến xuất khẩu bảo đảm sử dụng hiệu quả quỹ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu. Phát
huy vai trò các hiệp hội ngành hàng trong cộng đồng doanh nghiệp
Nhà nước cần có một chương trình cơ bản với quy mô lớn nhằm đào tạo một
thế hệ giám đốc mới, đội ngũ quản lý kinh tế mới có kiến thức, có thực tế, ngoại ngữ
giỏ
i, am hiểu kinh tế thị trường, sẵn sàng hội nhập quốc tế. Cùng với đội ngũ cán bộ
mới là tư duy kinh tế mới phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sáng
tạo ra con đường phát triển của Việt Nam tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2.2.3. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Một cơ cấu kinh tế hiệu quả là yếu tố quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế
tăng trưởng bền vững. Cùng với đà tăng trưởng nhanh và ổn định của nền kinh tế

nước ta trong những năm qua, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực với tỷ
trọng các ngành công nghiệp và d
ịch vụ trong GDP ngày càng tăng và tỷ trọng
ngành nông nghiệp ngày càng giảm. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang mang lại hiệu quả trong từng ngành, từng khu
vực kinh tế, phát huy lợi thế từng ngành, từng khu vực; chuyển đổi cả phương thức
sản xuất, phương thức quản lý để thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo ra giá trị GDP ngày
càng cao. Tuy nhiên, sự chuy
ển dịch cơ cấu diễn ra còn chậm chạp và nhìn chung cơ
cấu kinh tế của Việt Nam còn tương đối lạc hậu so với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giữ tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế, cơ cấu có sự chuyển dịch đáng kể, nhưng yếu tố hiện đại hoá chưa được
quan tâm đúng mức. Công nghiệ
p chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao
chưa phát triển. Tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP tăng không đáng kể trong những
năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

23
chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch
vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ. Một số ngành có tính chất động lực như
giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ vướng mắc chưa giải quyết được nhiều vấn
đề lớn về quan điểm, mục tiêu, nội dung và phương pháp phát triển, b
ị xuống cấp,
tụt hậu và chất chứa nhiều hiện tượng tiêu cực. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn
ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng yêu
cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Tỷ trọng ngành nông nghiệp còn tương đối cao, cơ
cấu lạc hậu, tỷ trọng hàng

hoá trong tổng sản phẩm nông nghiệp đã tăng lên nhưng còn thấp.
Định hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nước ta trong những năm tới là
tiếp tục đẩy mạnh tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong GDP. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết chính là quá trình
phát triển mạnh các ngành ngh
ề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều
kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại
vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh
tế đều phát triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ phát triể
n nhanh hơn, biểu
hiện là tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Một trong
những giải pháp quan trọng hàng đầu để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Theo đó, định hướng đầu tư trong thời gian tới cần chú ý
đến những nội dung chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất,
đầu tư cho ngành công nghiệp:
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh
của các sản phẩm công nghiệp, cơ cấu đầu tư cho ngành công nghiệp cần tập trung
đầu tư điều chỉnh cơ cấu sản phẩm công nghiệp để hình thành những ngành hàng và
sản phẩm giữ vai trò động lực trong từng nhóm sản phẩm nhằm thúc đẩy phát triển
sản xu
ất của ngành công nghiệp, trước hết là những sản phẩm chúng ta có khả năng
xuất khẩu và có lợi thế như: đóng tàu, động cơ nhỏ, xe ô tô khách, xe tải nhẹ thông
dụng, đóng mới toa xe…
Đầu tư chiều sâu, tăng cường bổ sung thiết bị có công nghệ tiên tiến và tiến
tới hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp, trước hết là các ngành
công nghiệp có lợi thế cạ
nh tranh, chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu, các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và

kinh tế nông thôn. Đầu tư phát triển vào những ngành công nghiệp mũi nhọn, những
ngành công nghiệp then chốt như công nghiệp điện, khai thác than, khai thác và chế

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

24
biến dầu khí, một số cơ sở công nghiệp luyện kim, chế tạo cơ khí. Hình thành và
hoàn thiện các khu công nghiệp tập trung, khu, cụm công nghiệp nhỏ và vừa.
Đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ, coi nâng cao trình độ công nghệ trên cơ
sở chiến lược kinh doanh đúng đắn là nền tảng cơ bản nhất để nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển công nghệ có tính tớ
i cạnh tranh của
thị trường xuất khẩu. Lựa chọn giải pháp công nghệ hợp lý để phát huy hết công
suất thiết kế. Chú ý phát triển một số vật liệu mới dựa vào tiến bộ công nghệ.
- Thứ hai, đầu tư cho ngành nông nghiệp, nông thôn:
Đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn, phù hợp
với tiềm năng về đất đai, lao
động và sinh thái của từng vùng; gắn sản xuất với tiêu
thụ sản phẩm trên thị trường trong nước và ngoài nước; xây dựng các vùng sản xuất
hàng hoá tập trung, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến. Chú trọng đầu tư
trong cả nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống sản xuất giống mới, giống tốt
cho cả cây trồng và vậ
t nuôi, kể cả nuôi thuỷ sản cùng với hệ thống nghiên cứu, thí
nghiệm khoa học về giống, bảo đảm đủ giống cho sản xuất đại trà, hạn chế việc
nhập khẩu giống trực tiếp cho sản xuất.
Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hệ thống giao thông nông
thôn, mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống cấp điện, nướ
c sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn.

Đầu tư mở mang các làng nghề, phát triển các cụm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghệ sơ chế và chế biến về nông
thôn và vùng nguyên liện; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật, trao
đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn; tăng nhanh việc làm cho khu vực phi nông
nghiệp. Xây dựng trên từng khu vực các cụm liên kết theo các hình th
ức tổ chức tự
nguyện giữa hộ nông dân với các cơ sở chế biến, thí nghiệm khoa học- công nghệ và
dịch vụ tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục chương trình xoá đói giảm nghèo, chú trọng
phát triển các đô thị nhỏ, các điểm văn hoá- bưu điện ở làng, xã, các trung tâm văn
hoá cụm xã.
- Thứ ba, đầu tư cho ngành dịch vụ:
Tiếp tục huy độ
ng các nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế trong và
ngoài nước để nâng cấp, xây dựng mới kết cấu hạ tầng, trang bị phương tiện kỹ
thuật hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho phát triển dịch vụ.

CIEM - Trung tâm Thông tin - Tư liệu

25
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương) cần được ưu
tiên bố trí cho việc phát triển, củng cố, nâng cấp, hiện đại hóa có trọng điểm kết cấu
hạ tầng, đặc biệt là giao thông vận tải, cảng hàng không, cảng biển, bưu chính viễn
thông, du lịch, tài chính, ngân hàng. Hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật hiện
đại cho các ngành dịch vụ chủ yế
u để nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước,
quốc tế và phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng của nhân
dân.
Mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết quốc tế, tăng cường công tác vận
động, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào ngành dịch vụ, đáp ứng trên 30% vốn bằng
nguồn FDI.

Tiến hành mạnh mẽ việc cổ phần hóa, tổ chứ
c hoạt động kinh doanh theo các
mô hình mới có hiệu quả để huy động nguồn lực của toàn xã hội cho đầu tư, phát
triển dịch vụ, trước hết là ở các ngành: bảo hiểm, ngân hàng, du lịch, vận tải hành
khách và hàng hóa, bưu chính viễn thông, kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ
hàng hoá và một số ngành khác.
2.2.4. Giữ vững ổn định kinh tế, các cân đối vĩ mô, các mặt an ninh chính yếu
của nền kinh tế
Giữ vững ổ
n định kinh tế, các cân đối vĩ mô, các mặt an ninh chính yếu của
nền kinh tế như an ninh lương thực, an toàn năng lượng,… sẽ tạo cơ sở vững chắc
cho những bước phát triển của nền kinh tế trong tương lai, giúp cho nền kinh tế
tránh được hoặc giảm thiểu tác động của các cú sốc và các cuộc khủng hoảng. Ổn
định kinh tế vĩ mô sẽ tạo môi trường thuận lợi để
khuyến khích tiết kiệm và tăng đầu
tư, do đó nó là điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và vững
chắc.Việc giữ vững an ninh lương thực, an toàn năng lượng sẽ đảm bảo nhu cầu tiêu
dùng cho sản xuất- kinh doanh cũng như đời sống nhân dân nhằm phát triển kinh tế
- xã hội, bảo vệ môi trường. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh t
ế nước ta hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, những tác động từ bên ngoài rất dễ xảy
ra, vì vậy việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các mặt an ninh chính yếu của nền
kinh tế càng có ý nghĩa. Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong thời gian tới cần tập
trung thực hiện những giải pháp chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, giữ v
ững ổn định kinh tế vĩ mô: các yếu tố quan trọng để duy trì
môi trường kinh tế vĩ mô ổn định bao gồm: mức thâm hụt ngân sách thấp, tốc độ
tăng trưởng tiền tệ và tín dụng hợp lý, tỷ lệ lạm phát tương đối thấp và các khoản nợ
của khu vực công cộng duy trì ở mức có thể quản lý được, lãi suất thực dương và
tránh để đồng nội tệ

bị giá cao.

×