Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

nợ công việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.45 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
o0o
THỰC HÀNH CHUYÊN NGÀNH
NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Tên đề tài:
NỢ CÔNG VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Đoàn Hữu Cảnh
Sinh viên thực hiện: Đặng Thị Phương Thảo
Mã số sinh viên: 511411080
HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, cụm từ “Khủng hoảng nợ công” ngày càng
xuất hiện nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông. Tình trạng nợ công gia
tăng liên tục ở cả các nước phát triển vượt quá sự tăng trưởng của nền kinh tế
(GDP) gây ra tình trạng mất kiểm soát trong khả năng chi trả của quốc gia.
Điển hình là cuộc khủng hoảng nợ công ở Iceland, Argentina, và gần đây nhất
là một số nước trong khu vực EU như Hy Lạp và Ireland. Chính điều đó đã
đánh lên hồi trống báo động cho các nước trên toàn thế giới phải suy nghĩ
chín chắn về tình trạng nợ công của chính quốc gia mình. Chính vì vậy,
nghiên cứu “Nợ công Việt Nam - thực trang và giải pháp” là việc làm hết sức
cần thiết và cấp bách hiện nay ở Việt Nam.
Nội dung các vấn đề nghiên cứu gồm:
Trang 2
Phần 1: Những khái niệm cơ bản
Phần 2: Thực trạng nợ công trên thế giới và ở Việt Nam
Phần 3: Giải pháp quản lý nợ công hiệu quả ở Việt Nam
Trang 3
1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Nợ công


1.1.1. Khái niệm
Theo luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 thì nợ
công bao gồm: Nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính
quyền địa phương. Như vậy, Các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái
phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay
một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được
xem là nợ công.
1.1.2. Phân loại nợ công
 Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước; vay nước ngoài.
Vay trong nước: Chính phủ vay thông qua phát hành công cụ nợ. Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội thông qua phát
hành, uỷ quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các
nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Vay nước ngoài là khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi hoặc
không phải trả lãi do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức
khác của Việt Nam vay của chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ
chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
 Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa
phương; doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính
phủ bảo lãnh.
Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ tài chính ký kết, phát hành, ủy
quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao
gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực
hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Trang 4
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh) ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
 Phân theo loại hình vay bao gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay
ODA); vay ưu đãi; vay thương mại.
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA) là khoản vay nhân danh Nhà
nước, Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ
chức tài trợ song phương, tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức liên chính
phủ có yếu tố không hoàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với
khoản vay có ràng buộc, 25% đối với khoản vay không ràng buộc.
Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại
nhưng thành tố ưu đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
Vay thương mại là khoản vay theo điều kiện thị trường.
 Phân theo thời hạn vay bao gồm: vay ngắn hạn; vay trung – dài hạn;
Khoản vay ngắn hạn là khoản vay có kỳ hạn dưới một năm.
Khoản vay trung - dài hạn là khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên.
 Phân theo loại lãi suất bao gồm: lãi suất cố định; lãi suất thả nổi.
 Phân theo chủ nợ và nhóm chủ nợ: chủ nợ chính thức; chủ nợ tư nhân.
Chủ nợ chính thức (bao gồm chủ nợ song phương là các Chính phủ hoặc
cơ quan đại diện cho Chính phủ và các chủ nợ đa phương là các tổ chức
tài chính quốc tế đa phương);
Chủ nợ tư nhân (bao gồm các ngân hàng thương mại; người sở hữu trái
phiếu; các chủ nợ tư nhân khác không thuộc chính phủ hoặc không đại
diện cho chính phủ);
 Phân theo công cụ nợ bao gồm: thỏa thuận vay; tín phiếu; trái phiếu;
công trái và các công cụ nợ khác.
1.1.3. Chỉ tiêu xác định nợ công và ngưỡng an toàn nợ công
 Các chỉ tiêu giám sát về nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao
gồm:
Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP);
Trang 5

Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP;
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu;
Nợ chính phủ so với GDP;
Nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước;
Nghĩa vụ nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước;
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách nhà nước;
Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo lãnh vay nước ngoài của
Chính phủ.
Thông thường người ta sử dụng chỉ tiêu nợ công so với tổng sản phẩm
quốc dân (GDP) để xác định tình trạng nợ công của một quốc gia.
 Ngưỡng an toàn của nợ công:
Theo công trình nghiên cứu năm 2010 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế
quốc gia Mỹ (NBER), được khảo sát trên 44 quốc gia, cho ra kết quả: khi tỷ lệ
nợ/GDP vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế và làm
giảm đi 4% trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Đặc biệt, đối với các
nền kinh tế mới nổi như Việt Nam thì ngưỡng nợ/GDP là 60%, tỷ lệ nợ vượt
quá ngưỡng này sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 2%.
Tuy nhiên chỉ dựa vào chỉ số nợ công/GDP không thể xác định được một
cách toàn diện mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công mà cần phải xem xét nợ
công một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh
tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ
lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư toàn xã hội Bên
cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi
suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh giá tính
bền vững nợ công Điển hình như nợ công khoảng 100% đủ để một nước
như Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi đó nợ công lên tới hơn 200%
như Nhật Bản vẫn được coi là an toàn, hay trường hợp của Argentina, một
Trang 6

quốc gia dù có mức nợ công dưới 60% và ngân sách tài chính khá tốt, nhưng
vẫn xảy ra khủng hoảng nợ
Theo TS. Benedict Bingham, đại diện thường trú của IMF tại Việt Nam
nêu quan điểm: cần phải xem các nước có nền kinh tế tương tự có ngưỡng nợ
thế nào, và phải tính đến cả rủi ro về lòng tin. Quan trọng hơn là phải hiểu
được phạm vi, quy mô và chất lượng nợ thực chất như thế nào, bao nhiêu
phần trăm để thúc đẩy tăng trưởng ngắn hạn, dài hạn… Điều đó đòi hỏi thông
tin phải phong phú và chi tiết hơn nữa.
Theo TS. Alex Warren-Rodríguez, Kinh tế trưởng của Chương trình
phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cũng lưu ý khi xây dựng luật, quản lý
chiến lược tài khóa không nên dựa quá nhiều vào ngưỡng nợ. Bởi rất nhiều
nước khó khăn về tài khóa khi nợ ở mức độ thấp, vì thế ngưỡng nợ thấp cũng
không đảm bảo là sẽ tránh được khủng hoảng về tài khóa. Theo ông, cơ cấu
nợ mới là yếu tố quan trọng. Nếu nợ nước ngoài cao và nợ ngắn hạn cao thì
rủi ro về mặt cơ cấu nợ càng cao.
Ngoài ra, cũng cần phải tính đến độ nhạy với các cú sốc. Bởi mức nợ
cho dù có nhỏ hơn ngưỡng, nhưng vẫn có những cú sốc không dự báo được.
Ví dụ lạm phát có thể cao hay tỷ giá có thay đổi thì có thể làm thay đổi hoàn
toàn dự báo. Một điều rất then chốt là cần phải có thông tin chính xác để đưa
ra quyết định đúng và tạo niềm tin cho thị trường.
Một điều nữa cần lưu ý chính là những khoản nợ ngầm, các khoản nợ
ngân hàng, nợ doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo lãnh.
Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế.
VD: Một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật Bản đã cho
thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy
Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân
nước này nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài
Trang 7
nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của
Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật Bản công bố

ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc gia của Nhật là 1.046,873
tỉ USD).
 Ta cần mở rộng cách thức suy nghĩ và hiểu về nợ, biết quản trị nợ và
phân tích nợ một cách cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình
thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng
trả nợ thế nào Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến đến hai
yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải
quyết được dứt điểm vấn đề nợ chẳng hạn như tạo ra lạm phát, gây nóng cho
nền kinh tế
1.2. Khủng hoảng nợ công
1.2.1. Khái niệm
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao
đảo nền kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu
cầu chi nhiều quá, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền
thông qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín
dụng, … để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm
cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành “lãi mẹ đẻ lãi con” và
ngày càng chồng chất thêm.
1.2.2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ nần, ở mỗi nước và tuỳ từng thời kỳ
lại có các nguyên nhân khác nhau, song tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều
nước đều có chung một số nguyên nhân cơ bản sau:
Đầu tiên phải kể đến, việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước,
lương và chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng
ngày càng phình to, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục,
y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển có sở hạ tầng không ngừng
Trang 8
tăng …, đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế
toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục.
Chính phủ không minh bạch các số liệu, chính phủ cố gắng vẽ nên bức

tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách của quốc gia. Thêm vào đó
là sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước yếu kém, không chặt
chẽ, thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí
trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước.
(điển hình Hy Lạp)
Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm
chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân
khác nhau như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt
giảm hoặc loại bỏ phù hợp với các quy định của WTO và các thoả thuận
thương mại khác mà các quốc gia tham gia vào. Trong khi đó, vấn đề
quản lý các nguồn thu, nhất là từ thuế, gặp không ít khó khăn ở nhiều
nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt
và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức năng.
Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ
tràn lan, đầu tư quá trớn, thiếu tính toán với suy nghĩ dù gì đi chăng nữa
chính phủ cũng dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ
ngoại tệ dồi dào và cả vay nợ nữa. (điển hình Argentina)
Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm
của một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo
thành bong bóng. Mặt khác Chính phủ đã lựa chọn bao cấp các ngân
hàng này khi họ bị thua lỗ. (điển hình Ireland)
Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp đồng nghĩa với việc thâm hụt ngân sách
của quốc gia sẽ khó có thể bù đắp bằng các nguồn vốn nội địa và phải đi
vay vốn từ nước ngoài.
Trang 9
2. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở
VIỆT NAM
2.1. Khủng hoảng nợ công trên thế giới
Theo số liệu do “The Economist” cập nhật tính đến đầu tháng 3/2013,
những khu vực và quốc gia có tổng mức nợ công tuyệt đối cao nhất hiện nay

là Bắc Mỹ, Brazil, châu Âu, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Australia.
Trong đó, Nhật Bản là nước có số nợ công khổng lồ nhất, lên tới hơn
12,5 nghìn tỷ USD (tương đương 226,1% GDP), tiếp theo là Mỹ nợ hơn 11,8
nghìn tỷ USD (tương đương 75,2% GDP). Nhiều quốc gia trong khối sử dụng
đồng tiền chung châu Âu cũng đang có mức nợ công hàng nghìn tỷ USD như
Đức nợ gần 2,7 nghìn tỷ USD (tương đương 83% GDP), Italy nợ trên 2,4
nghìn tỷ USD (tương đương 120,8% GDP), Pháp nợ hơn 2,3 nghìn tỷ USD
(tương đương 90,5% GDP), Anh nợ hơn 2,2 nghìn tỷ USD (tương đương
91,4% GDP), … Hy Lạp, “tâm bão” nợ công của châu Âu hiện nợ gần 395 tỷ
USD (tương đương 157,5% GDP).
Trung Quốc cũng đang là nước có mức nợ công cao trên thế giới. Theo
Reuters, con số nợ công mới nhất của Trung Quốc đưa ra ngày 30/12/2013
gần 5.000 tỉ USD, chiếm 58% giá trị của nền kinh tế (8,5 ngàn tỉ USD). Trong
số này, các nợ công của chính quyền địa phương là 2,95 ngàn tỉ USD tính đến
cuối tháng 6/2013. Trước đó, hồi tháng 4/2013, hãng xếp hạng tín dụng Fitch
Ratings (Mỹ) ước tính số nợ công của các chính quyền địa phương Trung
Quốc là 2,1 ngàn tỉ USD, chiếm 25% GDP.
2.2. Thực trạng nợ công của Việt Nam
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN cả năm 2013 ước đạt
790,8 nghìn tỉ đồng, đạt 96,9% dự toán năm, tăng 6,4% so cùng kỳ năm 2012.
Tổng chi NSNN ước đạt 986,3 nghìn tỉ đồng, đạt 100,8% dự toán năm, tăng
8,9% so với cùng kỳ năm 2012. Bội chi NSNN bằng 120% mức bội chi dự
toán đầu năm, bằng 5,3% GDP – theo báo cáo của Bộ KHĐT.
Trang 10
Nợ công, dư nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia được đánh giá
vẫn nằm trong “giới hạn an toàn”. Nợ công đến cuối năm 2013 đạt 56,2%
GDP, trong đó nợ Chính phủ bằng 42,6% GDP, nợ Chính phủ bảo lãnh là
12,24% GDP và nợ chính quyền địa phương là 1,32% GDP.
Hình 1. Cơ cấu nợ công ở Việt Nam tính đến ngày 31/12/2013
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nợ công ở Việt Nam

có xu hướng tăng lên rất nhanh. Theo Bộ Tài chính, nợ công Việt Nam năm
2007 chiếm khoảng 33,8% GDP, năm 2008 chiếm 36,2% GDP, năm 2009
chiếm 41,9% GDP, năm 2010 chiếm 52,6% GDP và năm 2011 chiếm 58,7%
GDP. Còn theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công Việt Nam tăng từ 31,7%
GDP năm 2001 lên 42,2% GDP năm 2005, đạt 52,7% GDP năm 2010. Tính
trong giai đoạn 2007-2012, nợ công Việt Nam đã tăng khoảng 25%, đạt mức
tăng trung bình 5%/năm. Tính theo tốc độ tăng trung bình, đến năm 2019, dự
báo nợ công Việt Nam sẽ đạt mức 100% GDP. Nợ công tăng cao khiến thâm
hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức lớn, dừng ở mức -5,8% GDP năm
2010 theo đánh giá của Bộ Tài chính, và ở mức -6% năm 2010 theo đánh giá
của IMF (Bảng 1). Nếu so sánh với một số nước đang gặp khủng hoảng nợ
công ở châu Âu như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hoặc Mỹ thì tình
hình nợ công của Việt Nam hiện nay vẫn được đánh giá là khá an toàn. Vào
thời điểm công bố khủng hoảng cuối năm 2009, nợ công ở Hy Lạp đạt mức
115% GDP, còn ở các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nợ công đều khoảng
100% GDP, thâm hụt ngân sách của các nước này đều gấp 3-4 lần cho phép
Đối với Việt Nam, các tổ chức xếp hạng quốc tế mặc dù duy trì mức tín nhiệm
nợ công là B+ nhưng họ đều cho rằng nợ công Việt Nam năm 2011 là khoảng
58,4% GDP (theo đánh giá của IMF) và mức nợ công này đã cao hơn rất
nhiều so với mức trung bình 37% đối với hạng B. Trong khu vực châu Á,
Trang 11
Việt Nam là nước có tỷ lệ nợ công/GDP cao hơn nhiều so với Trung Quốc,
Indonesia, Campuchia, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippines (Hình 2).
Hình 2. Nợ công của Việt Nam và một số nước châu Á
2.2.1. Nợ công tăng liên tục tiềm ẩn nhiều rủi ro
Nợ quốc gia hay còn gọi là nợ công, gần đây trở thành đề tài chú ý của
dư luận khi cuộc khủng hoảng nợ công đang là “bóng ma” bao trùm nhiều
quốc gia, nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên tiêu chí để đánh giá khi nào khoản
nợ đó trở nên mất an toàn và khả năng trả nợ của một quốc gia nên căn cứ vào
đâu còn chưa được làm rõ.

Để dễ hình dung quy mô của nợ công, người ta thường đo xem khoản nợ
này bằng bao nhiêu % so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên số
liệu về nợ công/GDP hiện nay vẫn chưa được công bố một cách rõ ràng. Các
số liệu sau nhóm 9 lấy từ Bộ phận phân tích thông tin kinh tế thuộc tạp chí
The Economist.
Bảng 1. Tỷ lệ nợ công/GDP từ năm 2003 đến 06/2014

m
200
3
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
201
1
201
2
201
3

201
4
% 39.5 41.8 43.3 43.5 44.2 44.8 46.6 53.2 54.2 50.3 49 47.7
Trang 12
GD
P
Nguồn: The global debt clock

Hình 3. Biểu đồ phần trăm tỉ lệ nợ công/GDP từ năm 2003 đến
06/2014
 Nhận xét:
Theo bảng số liệu trên thì nợ công năm từ năm 2003 đếm năm 2011 liên
tục tăng. Từ năm 2012 đến nay, tỉ lệ này có chiều hướng đi xuống. Nhiều
chuyên gia kinh tế cho rằng về lý thuyết mức nợ công của Việt Nam vẫn
nằm trong ngưỡng cho phép, nhưng Việt Nam phải tính tới phần chìm
của tảng băng, tức là những khoản nợ ngầm bao gồm: các khoản nợ ngân
hàng, tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ
phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi
trả khi đứng ra bảo lãnh các khoản vay cho những người có thu nhập
thấp mà trong tương lai họ có thể không có khả năng thanh toán…. Đây
là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam, nếu Việt
Nam lơ là.
Việc đi vay nợ của chính phủ là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt
ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên khi tính toán nợ chính phủ thường không
lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính
phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng đáng
lẽ ra chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa
bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã
bị phóng đại.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng, khi tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi

tổng giá trị tài sản của chính phủ. Thực ra điều này cũng đơn giản như
khi xử lý tài sản của cá nhân. Khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì
không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải
Trang 13
trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên, khi tính toán theo phương pháp này
thường gặp phải vấn đề là những gì nên coi là tài sản của chính phủ và
tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc lộ, kho vũ khí
hay chi tiêu cho giáo dục…
Việc tính toán nợ công ở Việt Nam chưa thực hiện nguyên tắc quản lý
thống nhất: nợ nước ngoài, nợ trong nước, nợ nước ngoài do doanh
nghiệp và các địa phương tự đi vay khiến công tác quản lý nợ phân tán,
không thống nhất, chi phí giao dịch, chi phí vay cao, thiếu sự phối hợp
trong điều hành vĩ mô.
Mặt khác do Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước nghèo, gia nhập nhóm
nước có thu nhập trung bình nên các khoản vay ưu đãi ODA cũng giảm
dần mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn.
Đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những nước
chúng ta vay vốn như: Nhật, EU… làm tăng thêm gánh nặng nợ công.
 Hậu quả: Nợ công tăng cao gây ra nhiều hậu quả:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong
nước giảm sút.
Nếu nợ trong nước lớn thì Chính phủ phải tăng thuế để trả nợ lãi vay gây
ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Tăng thuế còn làm giảm đầu tư, kìm
hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng.
Lạm phát khó kiềm chế ở mức thấp.
Nợ công tăng cao cũng làm cho nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm, niềm tin
của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành
mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
2.2.2. Việt nam sử dụng nợ công chưa thật sự hiệu quả

Theo Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của bộ Kế hoạch và đầu
tư: Cũng giống như một gia đình nghèo đông con, không vay nợ thì lấy gì chi
tiêu. Trong nhiều năm nay, cho dù thu ngân sách đã tăng đáng kể nhưng ngân
sách nhà nước vẫn chỉ đáp ứng “khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”,
theo báo cáo về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 –
Trang 14
2010 của bộ Kế hoạch và đầu tư. Bộ này thừa nhận, ngoài mức thâm hụt ngân
sách cao (từ 5 – 6,9% GDP trong những năm gần đây), còn có những khoản
chi ngoài ngân sách mà nếu đưa hết vào chi ngân sách thì mức bội chi có thể
lên đến trên 10%. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng
trả nợ trong tương lai”, bộ thừa nhận. Thâm hụt ngân sách gần đây được bù
đắp bằng vay nợ trong và ngoài nước chủ yếu dưới hình thức phát hành trái
phiếu, nhưng bộ này thừa nhận thực tế mà ít người dám nói ra: “Hiện nay vẫn
chưa rõ nguồn kinh phí để chi trả khi các trái phiếu đến hạn thanh toán là gì?”
Theo quy luật, có vay thì phải có trả. Để trả nợ gốc và lãi tính riêng cho
các khoản vay ODA ưu đãi, ngân sách sẽ phải chi 70.250 tỉ đồng năm 2010,
tăng cao so với 58.800 tỉ đồng năm 2009 và 51.200 tỉ đồng năm 2008, theo ủy
ban Tài chính – ngân sách. Nguồn chi trả có thể sẽ không đáng lo, nếu những
dự án đầu tư công được cấp vốn từ những nguồn vay nợ đó đạt hiệu quả, và
sinh lời. Nhưng đây lại là một câu chuyện dài khác. Hệ số ICOR lên đến 8
trong năm 2009 là minh chứng rõ ràng nhất cho việc đầu tư công có hiệu quả
như thế nào. Bổ sung cho hệ số ICOR cao là những khu công nghiệp, khu
kinh tế ven biển, cảng biển,… đã quy hoạch hoặc đã khởi công nhưng còn
dang dở và cần lượng vốn lớn nữa để hoàn thiện. Gần đây, khi được hỏi về
việc có 5.000 dự án công ở Việt Nam bị chậm tiến độ theo công bố của bộ Tài
chính, chuyên gia kinh tế trưởng của ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Martin
Rama đã trả lời là ông “không hề ngạc nhiên”. Ông giải thích: “Ngay cả
những dự án ODA do chúng tôi tài trợ cũng bị chậm… Đó là tình hình chung
với các dự án ở Việt Nam”.
Câu chuyện Vinashin là một ví dụ. Hàng trăm triệu USD vốn trái phiếu

quốc tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên, việc
sử dụng vốn chưa hiệu quả, sự vỡ nợ của Vinashin đã đặt ra câu hỏi về lòng
tin của các nhà đầu tư quốc tế với môi trường kinh doanh Việt Nam. Cuối
tháng 11 vừa qua, trang web của Bloomberg dẫn các nguồn tin từ công ty tư
Trang 15
vấn tài chính Moody có trụ sở tại Mỹ cho biết, nợ xấu của Vinashin cũng ảnh
hưởng xấu đến các ngân hàng Việt Nam.
Từ trường hợp đơn lẻ của Vinashin, chúng ta thấy được là chuyện quản
trị nợ. Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến hai yếu tố: hiệu
quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được dứt
điểm vấn đề nợ. Những gì Hy Lạp, Ireland đang trải qua sẽ có thể xảy ra ở bất
cứ quốc gia nào. Chủ nợ rất dễ biến thành con nợ nếu không kịp thời điều
chỉnh lối “ứng xử” với công nợ và tầm nhìn trong đầu tư.
Với tình hình vay nợ và hiệu quả sử dụng như vậy, không có gì ngạc
nhiên khi tại cuộc họp Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa rồi không ít đại biểu
đã tỏ ra lo ngại về nợ công và an ninh tài chính của đất nước.
2.2.3. Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến nợ công
Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2012, thâm hụt
ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8%GDP (2001) GDP lên tới
7%GDP (2009) và 6.1%GDP (2010).
Bảng 2. Thâm hụt ngân sách giai đoạn 2001 đến 2012
Bội chi của Việt Nam đã luôn ở mức 5% GDP từ nhiều năm gần đây. Từ
năm 2007 đến nay, do phải kích cầu đầu tư nên ngân sách nhà nước đã chi
một lượng tiền lớn ra lưu thông nên tốc độ tăng bội chi ngân sách nhà nước
tăng cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Năm 2008, sự diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Trong khi
Trang 16
tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam chỉ đạt 6,23%, thì tỷ lệ lạm phát lên tới
22,97%, tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 4,58% GDP.

Đứng trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới
diễn biến ngày càng phức tạp, từ đầu năm 2009 Chính phủ đã đưa ra gói kích
thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP. Về cơ bản nó đã đạt được mục tiêu
đề ra là ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế tuy nhiên nó cũng mang đến hệ
lụy: thâm hụt ngân sách của Việt Nam lên đến 87,3 nghìn tỷ đồng (gần 7% so
với GDP). Thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam
trung bình trong giai đoạn 2003 - 2007 là 1,3% GDP, con số này đã tăng
nhanh trong giai đoạn 2008 – 2012, lên 2,7% GDP.Như vậy, trong khi nợ
công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi
phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công
ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai.
Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức
thâm hụt đã vượt xa ngưỡng báo động đỏ 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính
bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục
đầu tư để phát triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều
năm tới. Cụ thể là, với tỉ lệ tiết kiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi
mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP thì Chính phủ sẽ phải tiếp
tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tư nước ngoài) để bù đắp khoản thiếu
hụt đầu tư.
2.2.4. Tính minh bạch còn thấp
Các con số về khoản nợ công của Việt Nam được công bố không đồng
nhất giữa Quốc hội, Bộ Tài chính, đồng thời con số này cũng không giống với
con số tính toán của thế giới. Điều này khiến các chuyên gia nhận định, hiện
những thông tin về vấn đề nợ công của Việt Nam chưa thực sự minh bạch.
Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã bước đầu có những thông tin công khai về nợ
Trang 17
công trên website của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở nợ nước ngoài chứ chưa
phải toàn bộ nợ công.
Theo PGS.TS Đặng Văn Thanh – Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam
thì việc không thống nhất và gắn kết trong cách hiểu, cách giải thích cũng như

cách quản lý vấn đề về nợ công là một trong những rủi ro của nợ công Việt
Nam.
Cũng theo các chuyên gia, thống kê tài chính của Việt Nam hiện nay mới
chỉ tập trung vào nợ Chính phủ, nên khó có thể thấy được toàn cảnh vấn đề tài
chính công và nợ công vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và Chính
phủ vẫn phải chịu trách nhiệm với khu vực này. Và đây cũng là một trong các
nguyên nhân dẫn đến những sự việc như Vinashin.
Để thực thi được tính minh bạch, GS-TS Vương Đình Huệ cho rằng cần
trao trách nhiệm quản lý nợ công cho 1 đầu mối, có thể là Bộ Tài chính. Theo
đó, Bộ này cần xây dựng một chiến lược về nợ công; xác định ngưỡng, tỷ
trọng nợ công là bao nhiêu so với GDP cho từng giai đoạn, từng thời kỳ dựa
vào “sức khỏe” của nền kinh tế quốc dân.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến nợ công của Việt Nam
Nợ công hiện nay ở Việt Nam có thể xuất phát từ một số nguyên nhân
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, mở rộng đầu tư công một cách ồ ạt nhưng không hiệu quả dẫn
đến nợ công tăng mạnh. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đầu tư rất lớn cho
các công trình công cộng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, cảng biển, sân bay, đặc
khu kinh tế Các chuyên gia cho rằng, với tình hình tỉnh nào cũng lập kế
hoạch xây dựng cảng biển, đệ trình kế hoạch làm sân bay, tỉnh nào cũng xin
làm đặc khu kinh tế, thì đầu tư công dàn trải và lãng phí là điều tất yếu xảy
ra. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mỗi năm Việt Nam cần khoảng 25 tỷ USD
để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, trong khi đó vốn huy động được hàng năm từ
Trang 18
các nguồn của Nhà nước cũng như của tư nhân chưa đến 16 tỷ USD, phần còn
lại là phải vay nợ nước ngoài. Chi tiêu và đầu tư nợ công kém hiệu quả đang
đem lại những rủi ro đáng báo động cho nền kinh tế. Nó khiến mức thâm hụt
ngân sách của Việt Nam luôn ở mức rất cao trong khu vực, đồng thời khiến
hiệu quả đầu tư trên một đồng vốn luôn ở mức thấp. Nếu giai đoạn 2000-2005
bỏ ra gần 5 đồng có thể tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP, đến giai đoạn

2006-2010 phải bỏ ra 7,4 đồng mới tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP. Trong
nhiều năm gần đây, Việt Nam đang gặp phải vấn đề thâm hụ kép: thâm hụt
ngân sách và chi tiêu công đều ở mức cao. Tuy chưa đủ điều kiện để xảy ra
mộ cuộc khủng hoảng nợ công như một số nước châu Âu và Mỹ như thời gian
qua, bởi Việt Nam vẫn là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, nhưng một khi tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm vì nhiều lý do
Thứ hai, chính sách kích cầu của Chính phủ trong những năm qua đã
khiến bội chi ngân sách của Việt Nam tăng cao và Chính phủ buộc phải vay
nợ để bù đắp ngân sách, dẫn đến nợ công tăng cao. Năm 2008, Chính phủ chi
1 tỷ USD để kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đến năm 2009, Chính phủ lại tung
hai gói kích cầu với tổng trị giá 9 tỷ USD. Nhờ các gói kích cầu này, nền kinh
tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi tích cực trong khủng hoảng, nhưng đó cũng
là một trong những nguyên nhân khiến nợ công gia tăng. Ngân sách nhà nước
vốn đã rất căng thẳng vì nguồn thu từ thuế giảm trong những năm khủng
khoảng kinh tế toàn cầu, cùng với giá dầu thế giới giảm khiến doanh thu của
Chính phủ bị ảnh hưởng, cho nên việc tung ra các gói kích cầu trên đã ảnh
hưởng mạnh đến tài chính công.
Thứ ba, nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng lớn. Mặc dù
trong cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện nay chưa tính đến nợ của khu vực
doanh nghiệp nhà nước, nhưng trong cơ cấu nợ của doanh nghiệp do Chính
phủ bảo lãnh hầu hết là các khoản vay ngắn hạn, vì vậy trong trường hợp
Trang 19
doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, Chính phủ sẽ là người phải trả nợ
thay cho doanh nghiệp.
2.4. Đánh giá tác động của nợ công đến nền kinh tế Việt Nam
Bàn về sự tác động của nợ công đến nền kinh tế, vẫn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau, trong đó có hai quan điểm chủ đạo: Quan điểm truyền thống,
đại diện là Keynes cho rằng: Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm hụt
ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế trong khi mức chi tiêu công
không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân. Cụ thể là

làm mức tiêu dùng tăng, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa và dịch
vụ, tăng sản lượng, việc làm trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về dài hạn lại làm
cho tiết kiệm quốc gia (national saving) giảm và kèm theo đó là những hệ lụy
khác. Quan điểm của David Ricardo, một nhà kinh tế người Anh (1772-1832)
lại cho rằng mức thuế cắt giảm được bù đắp bằng nợ chính phủ sẽ không có
tác động đến tiêu dùng như quan điểm về nợ truyền thống, kế cả trong ngắn
hạn. Ngược lại, nó sẽ làm các khoản tiết kiệm tư nhân tăng lên bởi người dân
đang chuẩn bị cho mức thuế cao sẽ đến trong tương lai để chi trả lãi và gốc
cho các khoản nợ hiện tại. Trong thực tế, hai quan điểm luôn tồn tại song
hành. Vì vậy, để đưa ra nhận định quan điểm nào phù hợp với từng thời điểm
của quốc gia còn phải phụ thuộc vào nhân tố quan trọng, đó là hành vi của
người tiêu dùng.
2.4.1. Làm giảm tích lũy vốn tư nhân (private saving), dẫn đến hiện tượng thoái lui đầu
tư tư nhân
Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, lúc này mức tích
lũy vốn tư nhân sẽ được thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở hữu cổ
phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại sở
hữu trái phiếu chính phủ làm cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín dụng của
chính phủ lại tăng lên, từ đó đẩy lãi suất tăng, chi phí đầu tư tăng và có thể
dẫn đến hiện tượng “thoái lui đầu tư” khu vực tư nhân (crowding-out effect).
Trang 20
2.4.2. Nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia (national saving)
Thu nhập quốc gia (Y) được xác định tương đương với tổng sản lượng
quốc dân (GDP) theo công thức: Y = C + S + T = C + I + G + NX = GDP (1)
Trong đó: Y: thu nhập quốc gia; C: Tiêu dùng tư nhân; S: tiết kiệm tư
nhân; T: thuế trừ đi các khoản thanh toán; I: đầu tư nội địa, G: Chi tiêu của
chính phủ, NX: Xuất khẩu ròng. Như vậy: S + (T-G) = I + NX (2) Hay: T- G
= I + NX - S (3) Phương trình (3) chỉ ra rằng, khi ngân sách nhà nước thâm
hụt (T-G<0) tức I + NX < S, như vậy, những khả năng có thể xảy ra là: Tiết
kiệm tư nhân (S) tăng, đầu tư nội địa (I) giảm và xuất khẩu ròng (NX) giảm.

Khi chính phủ tăng vay nợ để bù đắp thâm hụt, chúng ta lần lượt xem xét
những khả năng này có thể xảy ra và sự tác động của nó đến tiết kiệm quốc
gia:
(1) Tiết kiệm tư nhân tăng (S): Trong thực tế, một số nhà kinh tế học lập
luận rằng, tiết kiệm tư nhân sẽ tăng chính xác bằng lượng giảm của tiết kiệm
của chính phủ. Tuy nhiên trong trường hợp này, chúng ta tạm thời giả định tiết
kiệm tư nhân tăng ít hơn phần tiết kiệm của chính phủ giảm, chính vì vậy mà
tiết kiệm quốc gia giảm.
(2) Đầu tư nội địa giảm (I): đầu tư nội địa giảm dẫn đến đầu ra là tổng
vốn nội địa giảm. Lượng vốn ít, lãi suất tăng, chi phí biên của sản phẩm trên
mỗi đồng vốn sẽ cao hơn, năng suất lao động sụt giảm, từ đó làm giảm mức
lương và thu nhập trung bình dẫn đến giảm tiết kiệm quốc gia.
(3) Xuất khẩu ròng giảm (NX): Khi chính phủ tăng vay nợ, lãi suất trong
nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước
ngoài đổ ào trong nước tăng khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm cho giá của
hàng hóa sản xuất trong nước đắt hơn hàng hóa nước ngoài, trở nên kém cạnh
tranh hơn trên thị trường quốc tế, từ đó giảm xuất khẩu ròng. Xuất khẩu ròng
giảm, đầu tư nước ngoài giảm có nghĩa rằng người dân nội địa sẽ sở hữu ít
vốn nước ngoài hơn. Trong trường hợp này, thu nhập người dân nội địa
Trang 21
sẽ giảm, tiết kiệm quốc gia giảm. Giảm xuất khẩu ròng cũng là một trong
những nhân tố dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại. Đặc biệt, khi thâm hụt
ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại cùng xảy ra sẽ dẫn đến hiện tượng
“thâm hụt kép” gây tác động tiêu cực đến sự phát triển nền kinh tế.
2.4.3. Nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát
Lạm phát được tạo ra do hai nguyên nhân chính: Do tổng cầu tăng lên
hoặc do chi phí đẩy. Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một
mặt làm tiêu dùng của chính phủ tăng lên, một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất
lên cao. Khi tăng vay nợ trong nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư,
tăng giá thành và giá bán sản phẩm. Bên cạnh đó lãi suất tăng, người nắm giữ

trái phiếu chính phủ cảm thấy mình trở nên giàu có hơn và có thể tiêu dùng
nhiều hơn. Tiêu dùng tư nhân tăng, chi tiêu công của chính phủ tăng dẫn đến
cầu hàng hóa, dịch vụ tăng, tạo áp lực lạm phát trong ngắn hạn, từ đó tác động
tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế (bằng tốc độ tăng trưởng
danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát). Khi chính phủ tang vay nợ nước ngoài, một
dòng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào trong nước có thể giảm sức ép cân đối ngoại tệ
trong ngắn hạn. Về mặt dài hạn, áp lực trả nợ cả gốc và lãi bằng ngoại tệ sẽ
đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, đồng nội tệ giảm giá làm tăng chi phí đầu vào khi
nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị dẫn tới nguy cơ lạm phát. Tỷ giá
tăng làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, nếu vượt quá sức chịu
đựng của ngân sách sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ.
2.4.4. Nợ công làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội
Dù chính phủ lựa chọn phương án vay nợ trong nước hay vay nước
ngoài thì đều có tác động làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất
phúc lợi xã hội. Nếu vay nước ngoài, nguồn để trả nợ cả gốc và lãi chỉ có thể
lấy từ các khoản thu thuế. Người dân phải chịu một khoản thuế cao hơn trong
tương lai để trả lãi cho các đối tượng ngoài quốc gia sẽ làm giảm thu nhập,
giảm tiêu dùng,… từ đó giảm chất lượng cuộc sống. Vay trong nước có thể
Trang 22
được coi là ít tác động hơn bởi lý do chính phủ nợ chính công dân nước mình
và cũng chính họ là người được hưởng thụ các lợi ích do các khoản chi tiêu
công tạo ra. Tuy nhiên, ngay cả khi một người bị đánh thuế để trả lãi cho
chính họ do đang sở hữu trái phiếu chính phủ thì vẫn có những tác động khiến
cho các hoạt động kinh tế của người đó bị bóp méo. Dù cho chính phủ dùng
loại thuế nào (thuế thu nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản,.…), đánh thuế dưới
hình thức nào (trực tiếp, gián tiếp) cũng sẽ dẫn đến những sai lệch trong các
hoạt động kinh tế của một cá nhân như thay đổi hành vi tiết kiệm, tiêu dùng,
từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế vi mô, vĩ mô khác như: sản xuất,
việc làm Bên cạnh đó, việc tăng thuế để trả lãi vô hình chung đã tạo ra sự
phân phối lại thu nhập giữa những người nộp thuế và người sở hữu trái phiếu

chính phủ, theo đó người nộp thuế chắc chắn phải gánh chịu sự suy giảm về
thu nhập, tiêu dùng hoặc tiết kiệm.
2.4.5. Các tác động khác
Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc gia với khoản nợ
công lớn có thể phải đối mặt với những hệ quả khác do nó gây ra như: Làm
thay đổi quy trình quản lý Nhà nước do phải thay đổi chính sách tài chính
quốc gia để trang trải các khoản nợ; làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia;
nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị hoặc khả năng lãnh
đạo quốc gia…. Các quốc gia phải chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức
tài chính quốc tế về việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội,
và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý,
thay đổi các định hướng kinh tế…. Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào các
khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối
quan hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
Trang 23
3. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NỢ CÔNG HIỆU QUẢ Ở VIỆT
NAM
3.1. Tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế
Có rất nhiều biện pháp để cải thiện và tăng cường năng lực cạnh tranh
cho nền kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở
lớn với định hướng xuất khẩu và phụ thuộc đáng kể vào FDI, mà các nhân tố
chính tác động đến chất lượng xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam hiện nay là
chất lượng sản phẩm; chi phí sản xuất; năng suất lao động; hàng rào thuế quan
và phi thuế quan; việc tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm dịch.
3.1.1. Tăng năng suất lao động
Cải thiện năng suất lao động trong xã hội cần được xem là mục tiêu quan
trọng. Hiện tại, năng suất lao động của Việt Nam nhìn chung vẫn khá
thấp, chỉ bằng 1/5 năng suất trung bình trong khu vực ASEAN và
khoảng 1/10 mức năng suất của Singapore.
Tăng cường khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường đối thoại xã hội,

nâng cao năng lực và vai trò của đại diện công đoàn tại cấp cơ sở, phát
huy được tiếng nói của mình trong các vụ tranh chấp, đình công của
người lao động. Gần ¾ tổng số lao động ở nước ta vẫn có việc làm bấp
bênh với tiền công và điều kiện lao động nghèo nàn, bảo trợ xã hội cũng
như pháp lý còn hạn chế. Đây chính là nguyên nhân làm gia tăng các
cuộc đình công, bãi công tại các doanh nghiệp, đặc biệt cao ở các doanh
nghiệp FDI.
Nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề cho người lao động để góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo thống kê, gần ¼ lao động chưa tốt
nghiệp trung học phổ thông, 65,3% chưa qua đào tạo. Các chuyên gia
cảnh báo, với tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp như
vậy sẽ gây cản trở không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế và mục
tiêu tăng năng suất lao động lên 1,5 lần.
Trang 24
3.1.2. Tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và môi trường
đầu tư
Để tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và
môi trường đầu tư của Việt Nam chúng ta cần tuân thủ tốt các quy tắc, các
tiêu chuẩn quốc tế của WTO, của EU…như chất lượng sản phẩm; hàng rào
thuế quan và phi thuế quan; tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm
dịch…
3.2. Nhóm giải pháp về việc vay và sử dụng nợ công hiệu quả
3.2.1. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN)
Việc giảm thâm hụt ngân sách không phải càng nhiều càng tốt, mà cần
phải giảm đến một mức độ hợp lý và chấp nhận được.
 Tăng thu ngân sách nhà nước:
Mặc dù có nhiều nguồn thu khác để tăng thu ngân sách nhà nước và việc
tăng thuế không phải là giải pháp tốt nhất, nhưng Việt Nam đang là một quốc
gia phụ thuộc rất nhiều vào thuế, thì việc làm này ít nhiều vẫn có cơ hội.
Cần xác định được mức thuế suất hợp lý để đạt được mức thuế tối ưu. Vì

biện pháp tăng thu bằng việc ấn định tăng thuế suất có tác động hai
chiều, nếu tăng với mức độ hợp lý, sẽ làm tăng nguồn thu, nhưng khi
vượt quá giới hạn của nền kinh tế thì sẽ làm giảm tổng nguồn thu thuế.
Trong các loại thuế, có thể nói thuế VAT là một trong những loại thuế ít
bị chi phối và chịu tác động của các cam kết hiệp định có yếu tố nước
ngoài. Chính vì vậy, nên chăng việc đầu tư nghiên cứu và phát triển loại
thuế này để đạt được mức thuế thu cho ngân sách nhiều nhất.
Nâng cao hiệu quả công tác thu thuế, đồng thời nhanh chóng hoàn thiện
các luật thuế; bãi bỏ những khoản phí, lệ phí không còn phù hợp.
Tăng thêm tuổi nghỉ hưu, qua đó sẽ tăng nguồn thu từ thuế (do người lao
động làm việc trong thời gian dài).
 Giảm chi ngân sách nhà nước:
Trang 25

×