Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

báo cáo chuyên đề thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.99 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN

Báo cáo chuyên đề
Độc chất học môi trường
THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ
TÍNH CHẤT HAI MẶT
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn
Nhóm thực hiện: Nhóm_DH10DL
Nguyễn Xuân Du 10157030
Nguyễn Thị Hồng Gấm 10157045
Lý Thảo Ngân 10157120
Dương Thị Kim Oanh 10157141
Nguyễn Thị Đan Tâm 10157161
Lào Văn Phấn 10157142
Thái Duy Bình 11157076
Tháng 03, 2013
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
MỤC LỤC
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 2
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết
Việt Nam là một nước có chiều dài lịch sử về sản xuất nông nghiệp. Khí hậu
nhiệt đới nóng và ẩm của nước ta thuận lợi cho sự phát triển của cậy trồng nhưng
cũng thuận lợi cho sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, cỏ dại gây hại mùa màng.
Do vậy, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ sâu hại, dịch bệnh bảo vệ
mùa màng, giữ vững an ninh lương thực quốc gia là một trong những biện pháp
quan trọng và chủ yếu.
Tuy nhiên, những năm gần đây, việc sử dụng thuốc BVTV trong thâm canh
sản xuất, đặc biệt là trong nông nghiệp và lâm nghiệp có xu hướng gia tăng cả về


chất lượng lẫn chủng loại. Một thực tế đáng lo ngại hiện nay nữa là việc sử dụng
thuốc BVTV tràn lan, bừa bãi đã và đang gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất,
nước, không khí, sức khỏe con người và môi trường sinh thái.
Chính vì vậy, nhóm thực hiện đề tài: “ Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất
hai mặt” với mục tiêu giúp chúng ta có những hiểu biết nhất định về vai trò cũng
như tác hại của việc lạm dụng thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó, đề
xuất các biện pháp quản lý, xử lý phù hợp nhằm phát huy tối đa lợi ích mà thuốc
BVTV đem lại và hạn chế đến mức tối thiểu những tác hại mà nó gây ra.
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển, phân loại, cấu tạo… của
thuốc BVTV.
- Vai trò của Thuốc BVTV.
- Tác hại của thuốc BVTV.
- Cơ chế tác động của thuốc BVTV.
- Biện pháp sử dụng và quản lý thuốc BVTV.
- Biện pháp xử lý thuốc tồn dư.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 3
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
2. TỔNG QUAN VỀ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hay nông dược là những chất độc có
nguồn gốc từ tự nhiên hay hóa chất tổng hợp được dùng để bảo vệ cây trồng và
nông sản, chống lại sự phá hoại của những sinh vật gây hại đến tài nguyên thực
vật. Những sinh vật gây hại chính gồm sâu hại, bệnh hại, cỏ dại, chuột và các
tác nhân khác.
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
2.2.1.Trên thế giới
Khi con người bắt đầu canh tác nông nghiệp và có sự đấu tranh với dịch hại
để bảo vệ mùa màng thì một số biện pháp phòng trừ dịch hại đã hình thành. Chính
vì vậy, lịch sử của thuốc BVTV có từ rất lâu đời (cách đây khoảng 10.000 năm).
Vào thời kỳ năm 2500 TCN, hợp chất lưu huỳnh được sử dụng để duyệt côn

trùng, mạng nhện.
Năm 1500 TCN, có hợp chất để diệt bọ chét trong nhà.
Năm 1200 TCN, Trung quốc đã có thuốc xử lý hạt giống.
Năm 900 SCN, người ta dùng arsenic sulfides đểtrừ côn trùng trong vườn.
Thế kỷ thứ IV, người ta biết xử lý hạt lúa bằng arsen trắng.
Từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX là thời kỳ cách mạng công nghiệp
ở Châu Âu. Sản xuất nông nghiệp tập trung và năng suất cao hơn, đồng thời tình
hình dịch hại càng nhiều hơn xảy ra trong phạm vi toàn thế giới. Một số thuốc trừ
sâu, dịch hại, diệt hại phổ biến ở cuối thế kỷ XIX đến năm 1930, chủ yếu là chất vô
cơ như arsen, celenium, sulfur… hoặc một số chất thảo mộc vốn có chất độc. Xong
thời bấy giờ chưa ai biết được đến độc hại của nó.
Từ đầu thế kỷ XX, xuất hiện một biện pháp trừ sâu hại tích cực hơn và hiệu
quả hơn. Đó là sự ra đời của DDT thuộc nhóm Clor hữu cơ vào 1939, và lien tục
sau đó ra đời nhiều các hợp chất hóa học khác. Đây là hợp chất đầu tiên trong chuỗi
thuốc trừ sâu được khám phá, nó tiêu diệt được một số lượng lớn côn trùng. Trong
suốt 25 năm sau đó, nó được em như là vị cứu tinh của nhân loại, giúp diệt trừ côn
trùng và tăng sản lượng nông sản. Chu trình sản xuất cũng tương đối rẻ nên nó được
áp dụng phổ biến rộng rãi ở mọi nơi trên thế giới.
Năm 1940, người ta tổng hợp nên các hợp chất có gốc lân hữu cơ.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 4
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
Năm 1947, người ta tổng hợp nên hóa chất Carbamate.
Năm 1970 phát hiện được các loại thuốc pyrethroide.
Hiện nay thuốc trừ sâu tồn tại ba thế hệ, tín độc hại của thế hệ sau thường
thấp hơn thế hệ trước.
Thuốc trừ sâu thế hệ thứ nhất thường là thuốc chiết từ chất nicotin, hay
pyrethrum chiết từ một loại cúc khô, những chất vô cơ như phèn xanh, thạch tín…
Thuốc trừ sâu thế hệ thứ hai là tổng hợp các chất hữu cơ: DDT, 666,
Wofatox… (xuất hiện vào thập niên 40).
Thuốc trừ sâu thế hệ thứ ba, xuất hiện vào những năm 70 và 80 như gốc lân

hữu cơ, Cardbamate và sự ra đời của Pyrethroide, thuốc sinh học.
2.2.2.Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật chỉ phổ biến từ thế kỷ
XIX. Trước đó, việc diệt trừ sâu, bệnh chủ yếu bằng phương pháp bắt sâu hay biện
pháp mang tính mê tín, bùa phép.
Vào thế kỷ XX, khi nền nông nghiệp Việt Nam bắt đầu phát triển đến một
mức nhất định, hình thành nên các đồn diền, trang trại nông nghiệp lớn thì việc sử
dụng thuốc BVTV bắt đầu gia tăng. Trong thời kỳ này, Việt Nam cũng sử dụng chủ
yêu các hợp chất hóa học vô cơ như các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ những năm 50, Việt Nam chỉ sử dụng một số thuốc BVTV như DDT,
Lindan, Oarathion-ethyl, polyclorocamphene…
Tình hình sử dụng thuốc BVTV ở Việt Nam có những bước chậm hơn so với
các nước phát triển. Thập niên 70 và 80 Việt Nam còn sử dụng hợp chất hóa học
gốc clo hay gốc phosphor hữu cơ (DDT thuộc nhóm clo hữu cơ, Metyl parathion,
Monocrophos thuộc nhóm lân hữu cơ, Furadan thuộc nhóm Carbamate) thì các
nước pht1 triển đã ngưng sử dụng các loại hợp chất này. Ví dụ như ở Mỹ đã cấm sử
dụng DDT từ năm 1992, mãi đến năm 1993 Việt nam mới có lệnh cấm sử dụng
thuốc BVTV có nhóm Clor hữu cơ.
2.2. Phân loại và cấu tạo
Việc phân loại thuốc BVTV có thể thực hiện theo nhiều cách như phân
loại theo đối tượng phòng trừ (thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh,…) hoặc phân loại
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 5
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
theo gốc hóa học (nhóm clo hữu cơ, nhóm lân hữu cơ,…). Các thuốc trừ sâu có
nguồn gốc khác nhau thì tính độc và khả năng gây độc khác nhau:
2.3.1. Phân loại theo đối tượng phòng trừ:
− Thuốc trừ sâu: là những thuốc phòng trừ các loại côn trùng gây hại
cây trồng, nông sản, gia súc, con người. Các loại thuốc trừ sâu nói
chung đều rất độc với con người và môi trường, vì vậy khi sử dụng
cần hết sức thận trọng, đảm bảo các nguyên tắc của IPM. Theo đó tỷ

lệ thuốc trừ sâu ngày càng giảm trong tổng số thuốc BVTV được sử
dụng.
− Thuốc trừ bệnh: là những thuốc phòng trừ các loài vi sinh vật gây
bệnh cho cây (nấm, vi khuẩn, tuyến trùng). Một số vi sinh vật quan
trọng khác gây bệnh cho cây như Virut, Mycoplasma tới nay chưa có
thuốc diệt trừ. Các thuốc trừ bệnh nói chung là ít độc hơn so với
thuốc trừ sâu và ngày càng được sử dụng nhiều.
− Thuốc trừ cỏ: là những thuốc phòng trừ các loại thực vật, rong, tảo
mọc lẫn với cây trồng, làm cảng trở đến sinh trưởng của cây trồng.
Thuốc trừ cỏ cũng ít độc hơn so với thuốc trừ sâu nhưng lại rất dễ
gây hại cây trồng. Thuốc trừ cỏ cũng được sử dụng ngày càng nhiều.
− Thuốc trừ chuột: là những thuốc dùng phòng trừ chuột và các loại
gậm nhầm khác. Các thuốc trừ chuột đều rất độc với con người và
gia súc.
− Thuốc trừ nhện: là những thuốc chuyên dùng phòng trừ các loài nhện
hại cây trồng. Có nhiều loại thuốc trừ sâu cũng có tác động với nhện.
− Thuốc trừ ốc sên: có nhiều loài ốc gây hại cho cây trồng, cũng có
những loại thuốc chuyên dùng để phòng trừ.
− Thuốc điều tiết sinh trưởng cây trồng: còn gọi là thuốc kích thích
sinh trưởng. Là những thuốc có khả năng kích thích cây rễ, tăng độ
nảy mầm, tăng trưởng và phát triển của thực vật, rút ngắn giai đoạn
sinh trưởng dẫn đến tăng năng suất nông sản. Cũng có ức chế sinh
trưởng dùng chống lốp đổ hoặc hạn chế chiều cao cây mà tăng nảy
chồi, nảy hoa.
2.3.2. Phân loại theo gốc hóa học
2.2.2.1 Thuốc trừ sâu:
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 6
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
− Nhóm thuốc thảo mộc: có độ độc cấp tính cao nhưng mau phân
hủy trong môi trường.

− Nhóm clo hữu cơ: DDT, 666, nhóm này có độ độc cấp tính tương
đối thấp nhưng tồn lưu lâu trong cơ thể người, động vật và môi
trường, gây độc mãn tính nên nhiều sản phẩm bị cấm hoặc hạn chế
sử dụng.
Hình 2.1. DDT (C
14
H
9
C
l5
)
Hình 2.2. BHC (C
6
H
6
Cl
6
)
− Nhóm lân hữu cơ: Wofatox Bi-58, độ độc cấp tính của các loại
thuốc thuộc nhóm này tương đối cao nhưng mau phân hủy trong
cơ thể người và môi trường hơn so với nhóm clo hữu cơ.
Hình 2.3. Methyl parathion: C
8
H
10
NO
5
PS.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 7
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt

Hình 2.4. DDVP (Dichlovos): C
4
H
7
Cl
2
O
4
P.

Hình 2.5. Dipterex (Trichlorfon): C
4
H
8
Cl
3
O
4
P
− Nhóm carbamate: Mipcin, Bassa, Sevin,…đây là thuốc được dùng
rộng rãi bởi vì thuốc tương đối rẻ tiền, hiệu lực cao, độ độc cấp
tính tương đối cao, khả năng phân hủy tương tư nhóm lân hữu cơ.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 8
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
Hình 2.6. Carbaryl
− Nhóm Pyrethoide (Cúc tổng hợp): Decis, Sherpa, Sumicidine,
nhóm này dễ bay hơi và tương đối mau phân hủy trong môi trường
và cơ thể người.
Hình 2.7. Permethrin: C
21

H
20
Cl
2
O
3
− Nhóm Nicotinoide: Là nhóm thuốc trừ sâu tổng hợp dựa vào cấu
tạo chất Nicotine có trong cây thuốc lá, thuốc lào. Thuốc có tác
động tiếp xúc và vị độc nhanh, khả năng nội hấp mạnh. Phổ tác
dụng rộng. Hiện có các chất như Imidaclopri (Confidor),
Dinotefuran (Oshin), Thiamethoxam (Actara)…
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 9
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
Hình 2.8. Cấu tạo hóa học chất Nicotine
− Các hợp chất pheromone: Là những chất tổng hợp có cấu tạo
giống như những chất do côn trùng tiết ra trong quá trình sinh
trưởng và hoạt động. Những chất này thường dùng dẫn du5co6n
trùng đến để tiêu diệt, với nồng độ cao sẽ làm rối loạn tính giao
phối hoặc rối loạn sinh trưởng của côn trùng.
− Các chất điều hòa sinh trưởng côn trùng (Nomolt, Applaud,…): là
những chất làm rối loạn quá trình sinh trưởng và phát triển của côn
trùng, dẫn đến bị chết. Chủ yếu là các chất ức chế sự tạo thành
chất kitin trong cơ thể, làm côn trùng không lộn xác được mà chết.
− Nhóm thuốc sinh học: là những thuốc trừ sâu có nguồn gốc sinh
học như các thuốc vi sinh (nấm, vi khuẩn, virus), thuốc thảo mộc,
các chất chiếc xuất từ dịch nuôi cấy vi sinh vật (như chất
Abamectin). Thuốc tác động qua đường tiếp xúc và vị độc. Các
thuốc sinh học nói chung đều ít độc hại với người và môi trường,
mau phân hủy, thích hợp cho sản xuất nông sản an toàn.
− Ngoài ra còn có nhiều chất có nguồn gốc hóa học khác, một số sản

phẩm từ dầu mỏ được dùng làm thuốc trừ sâu.
2.2.2.2 Thuốc trừ nhện
Nhiều loại thuốc trừ sâu có khả năng trừ nhện. Ngoài ra còn có một số
thuốc chuyên dùng từ nhện.
2.2.2.3 Thuốc trừ bệnh
Gồm 2 nhóm lớn:
- Nhóm thuốc vô cơ: chủ yếu là các nhóm hóa học:
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 10
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
+ Nhóm đồng (Cu): có thuốc Bordeaux và các hợp chất đồng
sulfate, đồng oxychlorid, đồng hydrocid.
+ Nhóm lưu huỳnh (S): bột lưu huỳnh và hợp chất Cacium sunful.
+ Nhóm thủy ngân (Hg): các hợp chất thủy ngân Chloride.
+ Tác động chủ yếu của nhóm này là tiếp xúc, phổ tác dụng rộng.
Độ độc cấp tính thấp nhưng chậm phân hủy trong môi trường và
cơ thể người, một số đã cấm sử dụng trong nông nghiệp (thủy
ngân).
- Nhóm thuốc hữu cơ: có các nhóm chính là:
+ Nhóm lân hữu cơ: có cấu tạo hóa học chung tương tự nhóm lân
hữu cơ trừ sâu. Phổ biến hiện nay là các chất Edifenphos,
Iprobenphos.
+ Nhóm carbamate: có gốc carbamate như thuốc trừ sâu. Chủ yếu
là các chất Benomyl, Carbendazim.
+ Nhóm Dithiocarbamate: hai nguyên tử S thay cho hai nguyên tử
O trong cấu tạo gốc carbamat. Chủ yếu là các chất Maneb,
zineb, mancozeb.
+ Nhóm Triazole: trong công thức hóa học có gốc Triazole.
- Nhóm Dicarboximit: có các chất Captan, Folpet.
- Nhóm thuốc sinh học: là những chất kháng sinh được chiếc xuất
trong quá trình lên men của một số loài nấm nhóm Streptomyces.

Một số chất giúp tăng đề kháng bệnh cho cây.
Trong nhóm thuốc trừ bệnh hữu cơ có một số chỉ có tác động tiếp xúc
(nhóm Dithiocarbamate), một số có khả năng nội hấp mạnh (các nhóm
carbamate, Triazole, thuốc sinh học). Phần lớn các thuốc này đều ít hoặc rất ít
độc hại với người và môi trường.
2.2.2.4 Thuốc trừ cỏ
- Nhóm vô cơ: có các chất Copper Sulfate, Sodium Chlorate,
Calium Cyanancid…những chất này chủ yếu tác động với cây cỏ
lá rộng và phân hủy tương đối chậm trong môi trường.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 11
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
- Nhóm hữu cơ có nhiều nhóm hóa học như nhóm Acetamid, nhóm
Carbamate, nhóm lân hữu cơ, nhóm Phenyl urea, nhóm triazin.
Phần lớn đều phân hủy tương đối nhanh trong đất.
2.2.2.5 Thuốc trừ chuột
Có các nhóm chính:
- Nhóm thảo mộc: cây mã tiền, cây hành biển.
- Nhóm vô cơ: điển hình là chất Asen (thạch tín), kẽm phosphur.
Các thuốc nhóm thảo mộc và vô cơ có độ độc cấp tính cao, diệt
chuột nhanh, dễ gây tính nhát bã cho chuột.
- Nhóm hữu cơ: chủ yếu là chất dẫn xuất của Hydroxy coumarin.
- Nhóm thuốc vi sinh: chủ yếu là vi khuẩn Salmonella gây bệnh cho
chuột.
2.2.2.6 Chất điều hòa sinh trưởng thực vật
Gồm các chất có tác dụng kích thích sinh trưởng (Auxin, Gibberellin,…)
và các chất ức chế sinh trưởng (Paclobutatrazol…).
2.2.2.7 Thuốc trừ tuyến trùng
Cũng gồm nhiều nhóm hóa học như nhóm Halogen, nhóm carbamate,
nhóm lân hữu cơ.
Ngoài các nhóm thuốc chính như trên còn có các loại thuốc chuyên dùng

trừ ốc hại cây (Metaldehye), thuốc chuyên dùng xử lý kho (Methyl Bromide).
2.3.3. Phân loại theo độc tính
Căn cứ độ độc cấp tính của thuốc tổ chức Y tế thế giới (WHO) phân chia các
loại thuốc thành 5 nhóm độc khác nhau: Ia (rất độc), Ib (độc cao), II (độc trung
bình), III (ít độc), IV (rất ít độc).
Ở nước ta, tạm thời theo cách phân nhóm độc của WHO và lấy căn cứ chính
là LD
50
qua miệng

(chuột) phân chia thành 4 nhóm độc là nhóm I (rất độc, gồm cả Ia
và Ib), nhóm II (độc trung bình), nhóm III (ít độc) và nhóm IV (rất ít độc).
Bảng 2.1. Bảng phân loại độc tính
Phân nhóm Ký hiệu Biểu tượng
Nhóm I: Rất độc Chữ đen trên dải đỏ Đầu lâu xương chéo trên
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 12
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
nền trắng
Nhóm II: Độc trung bình Chữ đen trên dải vàng Chữ thập đen trên nền
trắng
Nhóm III: ít độc Chữ đen trên dải xanh
nước biển
Vạch đen không liên tục
trên nền trắng
Nhóm IV: Rất ít độc Chữ đen trên dải xanh
lá cây
Bảng 2.2. Các dạng thuốc BVTV
Dạng thuốc Chữ viết tắt Thí dụ Ghi chú
Nhũ dầu ND, EC Tilt 250 ND,
Basudin 40 EC,

DC-Trons Plus 98.8
EC
Thuốc ở thể lỏng, trong
suốt.
Dễ bắt lửa cháy nổ
Dung dịch DD, SL, L, AS Bonanza 100 DD,
Baythroid 5 SL,
Glyphadex 360 AS
Hòa tan đều trong nước,
không chứa chất hóa sữa
Bột hòa nước BTN, BHN,
WP, DF,
WDG, SP
Viappla 10 BTN,
Vialphos 80 BHN,
Copper-zinc 85 WP,
Padan 95 SP
Dạng bột mịn, phân tán
trong nước thành dung
dịch huyền phù
Huyền phù HP, FL, SC Appencarb super 50
FL, Carban 50 SC
Lắc đều trước khi sử
dụng
Hạt H, G, GR Basudin 10 H,
Regent 0.3 G
Chủ yếu rãi vào đất
Viên P Orthene 97 Pellet,
Deadline 4% Pellet
Chủ yếu rãi vào đất, làm

bả mồi.
Thuốc phun
bột
BR, D Karphos 2 D Dạng bột mịn, không tan
trong nước, rắc trực tiếp
ND: Nhủ Dầu, EC: Emulsifiable Concentrate.
DD: Dung Dịch, SL: Solution, L: Liquid, AS: Aqueous Suspension.
BTN: Bột Thấm Nước, BHN: Bột Hòa Nước, WP: Wettable Powder,
DF: Dry Flowable, WDG: Water Dispersible Granule, SP: Soluble Powder.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 13
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
HP: huyền phù FL: Flowable Liquid, SC: Suspensive Concentrate.
H: hạt, G: granule, GR: granule.
P: Pelleted (dạng viên)
BR: Bột rắc, D: Dust.
2.3. Cách tác động của một số nhóm thuốc phổ biến
2.3.1. Thuốc trừ sâu:
Thuốc trừ sâu có thể tác động đến sâu hại theo nhiều cách khác nhau:
− Tác động đường ruột còn gọi là tác động vị độc: Thuốc theo thức ăn (lá
cây, vỏ thân cây ) xâm nhập vào bộ máy tiêu hoá rồi gây độc cho sâu
hại.
− Tác động tiếp xúc: Khi phun thuốc lên cơ thể côn trùng hoặc côn trùng di
chuyển trên thân, lá của cây có phun thuốc, thuốc sẽ thấm qua da đi vào
bên trong cơ thể rồi gây độc cho sâu hại.
Ví dụ: SOUTHSHER 10EC, ASITRIN 50EC… là thuốc trừ sâu mới, có
phổ tác dụng rộng, tác dụng tiếp xúc và vị độc
− Tác động xông hơi: Thuốc ở thể khí (hoặc thể lỏng hay thể rắn nhưng có
khả năng bay hơi chuyển sang thể khí) xâm nhập vào cơ thể côn trùng
qua các lỗ thở qua đường hô hấp rồi gây độc cho sâu hại.
− Tác động thấm sâu: Sau khi được phun thuốc lên mặt lá, thân cây thuốc

có khả năng xâm nhập vào bên trong mô thực vật và diệt được những sâu
hại ẩn náu trong lớp mô đó.
− Tác động nội hấp (hay lưu dẫn): Khi được phun thuốc lên cây hoặc tưới
bón vào gốc thuốc có khả năng hấp thụ vào bên trong dịch chuyển đến
các bộ phận khác của cây gây độc cho những loài sâu chích hút nhựa cây.
Những thuốc trừ sâu có tác động thấm sâu hay lưu dẫn sau khi phun lên
lá được trên 6 giờ nếu có gặp mưa cũng ít bị rửa trôi do thuốc có đủ thời
gian xâm nhập vào bên trong thân, lá.
− Thuốc tác động gây ngán: Sâu hại mới bắt đầu ăn phải những bộ phận
của cây có nhiễm một loại thuốc có tác động gây ngán thì đã ngưng ngay
không ăn tiếp, sau cùng sâu sẽ chết vì đói.
− Tác động xua đuổi: Thuốc buộc sâu hại phải di dời đi xa các bộ phận có
phun xịt thuốc do vậy không gây hại được cây trồng.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 14
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
Sự hiểu biết về cơ chế tác động của thuốc đến sâu hại là rất cần thiết, trên cơ
sở đó để dùng thuốc luân phiên trên các ruộng vườn chuyên canh nhằm ngăn ngừa
hoặc khắc phục hiện tượng kháng thuốc của sâu hại.
2.3.2. Thuốc trừ bệnh
Các đường tác động của thuốc trừ bệnh:
− Tác động trực tiếp: ức chế phản ứng sinh tổng hợp trong tế bào của vi
sinh vật gây bệnh. Hầu hết các thuốc trừ bệnh tác động theo hướng này.
− Tác động gián tiếp tăng sức đề kháng của cây và kích thích hoạt động
của các men chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh.
Dựa theo tác động của thuốc đến vi sinh vật, có thể phân các thuốc trừ bệnh
thành 2 nhóm:
− Thuốc có tác dụng phòng bệnh: (còn gọi là thuốc có tác dụng bảo vệ
cây). Thuốc được phun xịt lên cây hoặc trộn - ngâm hạt giống, có tác
dụng ngăn ngừa vi sinh vật gây bệnh có thể xâm nhập vào bên trong mô
thực vật để phát triển rồi gây hại cho cây. Những thuốc này phải được

dùng sớm, khi dự báo bệnh có khả năng xuất hiện và gây hại cho thực
vật. Nếu dùng chậm thuốc không thể ngăn chặn được bệnh phát triển. Ví
dụ: Boóc đô, Đồng oxyclorua, Monceren, Mancozeb…
− Thuốc có tác dụng trừ bệnh: Khi phun lên cây, thuốc có khả năng xâm
nhập dịch chuyển bên trong mô thực vật và diệt được vi sinh vật gây
bệnh đang phát triển ở bên trong mô thực vật.
Nhiều loại thuốc trừ nấm thông dụng ở nước ta là những thuốc có tác
dụng trị bệnh. Aliette, Anvil, Kitazin, Validacin, …
2.3.3. Thuốc trừ cỏ dại
Thuốc trừ cỏ thường tác động đến các khả năng chủ yếu của cây cỏ như quá
trình hô hấp, quang hợp, quá trình biến dưỡng tạo các chất cơ bản như glucid, lipid
và protid hoặc làm biến đổi các phản ứng sinh lý sinh hóa trong cây cỏ. Sau đây là
một vài cơ chế thường gặp:
− Thuốc trừ cỏ có tác động như là một chất kích thích tố sinh trưởng,
chúng làm cho tế bào phát triển quá mức bình thường, đồng thời gây rối
loạn sinh trưởng. Đại diện cho nhóm Phenoxy-acetic acid là 2,4-D.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 15
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
− Ức chế quá trình quang hợp, phá hủy cấu trúc của tế bào diệp lục. Đại
diện cho nhóm Oxadiazon là Ronstar 25 EC.
− Ngăn trở sự hình thành các acid amin: Một số loại thuốc trừ cỏ ngăn cản
đến sự hình thành các acid amin không thay thế được, thiếu những chất
nầy cây cỏ sẽ chết dần. Đại diện cho hoạt chất Pyrazosulfuron là sirius
10 WP, Star 10 WP
− Ngăn trở sự hình thành chất béo: Một số loại thuốc trừ cỏ có khả năng ức
chế sự hình thành của các lipid, thiếu những chất nầy cây cỏ cũng sẽ chết
dần. Đại diện cho hoạt chất Butachlor là Butoxim 60 EC, Meco 60 EC,
Echo 60 EC, Butan 60 EC và Phenoxapprop-P-ethyl là Whip’S 7,5 EWP.
2.3.4. Thuốc trừ chuột:
Có 3 cơ chế chính:

− Gây chết nhanh: là những chất phá hủy hệ thống thần kinh của chuột,
điển hình là các chất Stricnin (có trong cây mã tiền) trực tiếp kích
thích và làm rối loạn hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Chất
kẽm phosphur ăn vào trong dạ dày, dưới tác động của dịch vị sinh ra
chất PH3, rất độc với thần kinh.
− Gây chết chậm: là những chất ức chế tổng hợp vitamin K,làm máu
không đông lại được (gọi là chất chống đông máu). Cơ thể thiếu
vitamin K làm máu bị lãng, khi bị xuất huyết máu sẽ không đông lại
được, con vật bị xuất huyết nội tạng hoặc dưới da và chết dần
− Gây bệnh cho chuột: vi khuẩn Salmonella gây bệnh đường tiêu hóa cho
chuột.
2.3.5. Chất điều hòa sinh trưởng thực vật
Các chất này chủ yếu là kích thích sinh trưởng cây theo các cơ chế chính
là:
- Kích thích tăng trưởng thể tích tế bào ở lá, thân, quả.
- Kích thích hình thành tế bào mới, làm tăng cường sự nảy chồi, đâm rễ,
ra hoa.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 16
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
- Bổ sung và tăng cường hoạt động của các men trong quá trình sinh
tổng hợp của cây bằng cung cấp thêm các chất vi lượng (Fe, Mn, Cu,…).
Ngược lại có những chất ức chế sự tăng trưởng của cây, làm cho cây phát
triển chậm lại, dùng chống lốp đổ và kích thích cây ra hoa. Những chất này hạn
chế sự hình thành Auxin và Gibberellin trong cây, như các chất Mepiquat cloride,
Paclobutrazole.
2.4. Cơ chế tác động của thuốc BVTV lên côn trùng
Cơ chế tác động sinh hóa của các loại thuốc trừ sâu chưa được biết một cách
chắc chắn. Có thể giả thiết chúng bị hòa tan trong các màng mỡ bao quanh các dây
thần kinh và can thiệp vào sự vận chuyển của các ion vào trong hay ra ngoài của các
dây thần kinh. Điều này dẫn đến sự chuyển dịch các rung động dây thần kinh, làm

xuất hiện các cơn co giật mạnh và chết.
Thuốc trừ sâu cơ clo gây ức chế enzim axetylcolinesteraza, biểu diễn như
sau:
− Bước 1:
− Bước 2:
Axetylcolin là chất điều chỉnh sự rung động dây thần kinh, nó có tác dụng
kích động các tế bào thần kinh. Khoảng không gian giữa các tế bào thần kinh chứa
cả hai chất axetylcolin và enzim axetylcolinesteraza. Thuốc trừ sâu có clo có thể tác
dụng thúc đẩy enzim axetylcolinesteraza phá hủy axetylcolin và ngăn cản các tế bào
thần kinh làm việc. Bước đầu, enzim axetylcolinesteraza tác dụng với axetylcolin
tạo ra các thành phần trung gian là enzim axetyl và colin. Sau đó, enzim axetyl bị
thủy phân tạo thành axit axetic và tái tạo lại enzim axetylcolinesteraza ban đầu.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 17
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
Thuốc diệt côn trùng cơ photphoco1 thể tác dụng giống như axetylcolin và
kích thích sự tạo thành photphoryl enzim:
Sự phân hủy hợp chất trung gian enzim photphoryl xảy ra chậm hơn nhiều so
với quá trình thủy phân enzim axetyl.
Với loại côn trùng, cacbamat phản ứng cũng xảy ra tương tự:
Các phản ứng ở trường hợp thuốc trừ sâu loại cơ photpho và cacbamat trên
điều dẫn tới nồng độ enzim hoạt động bị giảm đi. Axetylcolin enzim không tiếp tục
bị phân hủy đủ nhanh và thần kinh sẽ hoạt động ở trạng thái không kiểm soát được,
kết quả là côn trùng bị tiêu diệt.
2.5. Một số loại thuốc bảo vệ thực vật điển hình:
2.6.1. Aldicarb
Aldicarb là chất BVTV dùng để diệt giun trong đất và ve có trên nhiều loại
cây. Aldicarb tan tốt trong nước và lưu chuyển dễ dàng trong đất. Aldicacrb bị biến
chủ yếu do quá trình thủy phân và sinh học. Thời gian tồn lưu aldicarb trong môi
trường có thể từ vài tuần cho đến vài tháng.
Có nhiều bằng chứng cho thấy Aldicarb không có tính gây nhiễm độc gen

hoặc ung thư. Để xác định dược giá trị hướng dẫn cho Aldicarb trong nước uống,
người ta đã thực hiện nghiên cứu trên chuột cống trắng cho uống nước có hỗn hợp
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 18
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
aldicarb sulfoxide và aldicarb sulfone với tỷ lệ 1:1 trong 29 ngày. Giá trị NOAEL
tìm thấy được là 0.4mg/kg thể trọng/ngày, căn cứ trên sự ức chế men
acetycholinesterasa.
2.6.2. Aldrin và dieldrin
Aldrin và dieldrin là chất BVTV nhóm chứa clo dùng để diệt sâu bọ trong
đất, để bảo quản gỗ. Hai hợp chất này gần với nhau về độc tính và kiểu gây độc.
Aldrin nhanh chóng chuyển thành dieldrin. Dieldrin là hợp chất hữu cơ clo bền ít
linh động trong đất và có thể bốc hơi vao không khí.
Cả hai chất này có độc tính cao đối với động vật và người. Aldrin và dieldrin
có nhiều cơ chế gây độc. Cơ quan chủ yếu bị ảnh hưởng khí cơ thể nhiễm hai chất
trên là hệ thần kinh trung ương và gan.
2.6.3. Atrazine
Atrazine là chất diệt cỏ chọn lọc dùng trước và sau khi cây mọc. Do sự di
chuyển cùa nó trong đất, người ta dã phát hiện có trong nước bề mặt và nước ngầm.
Atrazine tương đối bền trong đất và trong nước, thời gian bán phân hủy vài tháng,
bị thoái biến do ánh sáng và sinh vật trong đất.
2.6.4. Bentazone
Bentazone là chất diệt có phổ thông, dùng cho nhiều loại hoa mùa. Nó có thể
thoái biến quan học trong đất và nước nhưng lại rất linh động trong đất và tồn lưu ở
mức trung bình trong môi trường.
2.6.5. Carbofuran
Carbofuran là chất diệt ve, sâu bọ và giun, có tác dũng toàn thân. Nó có thể
thoái biến quang học, hóa học và vi sinh. Chất này có độ linh động và thời gian tồn
tại đủ lâu để có thể ngấm nhiễm từ đất vào nước ngầm.
2.6.6. Lindace
Lindace là một chất diệt côn trùng đã được sử dụng từ lâu. Ngoài việc sử

dụng cho cây trồng, vật nuôi, nó còn được dùng để bảo quản gỗ.
Lindace là một chất tồn lưu có ái lực với nước thấp và di động trong đất
chậm, đã phát hiện có trong nước. Nhiễm lindace cho ngườ xảy ra chủ yếu do thực
phẩm.
Giá trị cho phép trong nước uống là 2µg/l.
2.6.7. Permethrin
Permethrin là chất diệt côn trùng gốc pyrethoid tổng hợp, được dùng rộng rãi
để bảo vệ mùa màng phục vụ cho hoạt động trong y tế cộng đồng. Nó còn được
dùng để diệt bọ gậy trong các bể dự trữ nước và để khống chế sự phát triển của các
động vật không xương sống trong các ống dẫn nước chính. Permethrin có ái lực
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 19
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
đáng kể với đất, các chất lắng và có ái lực kém với nước. Nó có thể bị phân hủy
quang học hoặc sinh học và tồn lưu trong khoảng thời gian từ vài ngày đến vài tuần.
Permethrin không có tính gây nhiễm độc gan. Giá trị cho phép trong nước
uống là 20µg/l.
3. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ
3.1. Hiện trạng sử dụng
3.1.1. Số lượng thuốc bảo vệ thực vật trong thời gian qua
Mặc dù đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về sử dụng thuốc BVTV
trong sản xuất nông nghiệp, nhưng phải công nhận rằng thuốc BVTV đã góp phần
không nhỏ trong việc bảo vệ và tăng năng suất cây trồng trên thế giới nói chung và
ờ Việt Nam nói riêng. Do đó, nhiều nông dân coi thuốc BVTV như một thứ thần
dược duy nhất để bảo vệ sản lượng diện tích nhỏ nhoi của họ mà lãng quên đi mặt
trái của chúng.
Theo thống kê của Cục Tài Nguyên Môi Trường, lượng HCBVTV được sử
dụng ở Việt Nam từ 1986-1990 khoảng 13 nghìn-15 nghìn tấn (Hoàng Lê, 2003) và
thống kê của Viện BVTV Việt Nam, năm 1990 lượng thuốc BVTV từ 10.300 tấn lên
33.000 tấn, đến năm 2003 tăng lên 43.000 tấn và năm 2005 là 50.000 tấn (Phương
Liễu, 2006). Đây là con số đáng báo động.

Trong những năm qua, cùng với việc mở rộng diện tích, sự chuyển dịch cơ
cấu và quá trình đầu tư thâm canh tăng năng suất các loại cây trồng đặc biệt là việc
sừ dụng ngày càng nhiều các giống lúa Trung Quốc, diện tích nhiễm sâu bệnh ngày
càng tăng, do đó lượng thuốc BVTV được sử dụng cũng có xu hướng tăng lên. Theo
thống kê của Cục BVTV, Tổng Cục Thống Kê, Tổng Cục Hài Quan thì lượng thuốc
nhập khẩu vào Việt Nam năm 1998 là 42.738 tấn thành phẩm, tăng gấp 2 lần so với
năm 1991, lượng thuốc trừ sâu không có xu hướng tăng lên nhưng cũng không có
xu hướng giảm đi. Trong khi đó lượng thuốc trừ bệnh tăng từ 2.600 tấn năm 1991
lên 7.532 tấn vào năm 1996 và 10.406 tấn vào năm 1998. Lượng thuốc trừ cỏ có xu
hướng tăng lên nhanh và cho đến nay đã cao hơn thuốc trừ bệnh. Nhìn vào tỉ trọng
các loại thuốc thì tỉ trọng thuốc trừ sâu tuy có giảm nhưng vẫn đang dẫn đầu trong
ba nhóm thuốc này. Tuy nhiên, đây là con số thống kê theo con đường nhập khẩu
chính thức, thực tế thì lượng thuốc nhập lậu vào nước ta cũng không nhỏ, trong khi
đó phần lớn thuốc được nhập khẩu là loại thuốc trừ sâu có giá rẻ, và dĩ nhiên đó là
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 20
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
các thuốc có độ độc cao thậm chí đã bị hạn chế hay cấm sử dụng như:
methaidophos, methyl parathion…
Bảng 3.1. Lượng thuốc BVTV được sử dụng ờ Việt Nam từ năm 1990-1996
Năm
Tổng số
(tấn)
Giá trị
(triệu USD)
Thuốc BVTV
Khối lượng
(tấn)
Tỉ lệ
(%)
1990 21.600 9,5 17.590 82,2

1991 20.300 22,5 16.900 83,3
1992 23.100 24,1 18.000 76,4
1993 24.800 33,4 18.000 72,7
1994 20.380 58,9 15.226 68,3
1995 25.666 100,4 16.451 64,1
1996 32.751 124,3 17.352 53,0
Theo các báo cáo gần đây nhất cũng như các kết quả điều tra của Viện
BVTV thì việc lạm dụng và sử dụng các thuốc BVTV có độ độc cao, thậm chí các
loại thuốc bị hạn chế và thuốc cấm sử dụng vẫn đang diễn ra trong sản xuất.
3.1.2. Chủng loại thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp
Các HCBVTV hiện nay có một số nhóm chính như phosphor hữu cơ, chlor
hữu cơ, cacbamat, pyrethroid và một số chất khác như aldicarb, camphechlor…với
hang tram tên thương mại và nguồn gốc xuất xứ khác nhau dẫn đến nhiều khó khan
trong sữ dụng và quản lý. Trong tháng 9/2012, Cục BVTV đã tiến hành kiểm tra các
cửa hang, đại lý kinh doanh thuốc BVTV. Kết quả có 427/455 mẫu đạt chất lượng
(chiếm 93,8%), có 28 mẫu (chiếm 6,2%) không đạt chất lượng.
3.1.3. Vấn đề lạm dụng thuốc BVTV trong sản xuất
Gần đây đã có khá nhiều báo cáo đề cập đến hiện tượng lạm dụng thuốc
BVTV như tăng số lần và nồng độ thuốc phun, không đảm bảo thời gian cách ly,
phun định kỳ không theo diễn biến của dịch hại. Các hiện tượng đã trở nên phổ biến
ở hầu hết các vùng sản xuất.
Bên cạnh việc tăng lượng dung và số lần sử dụng, nông dân thưởng tăng
nồng độ thuốc phun. Việc tăng nồng độ thuốc phun có thể xuất hiện dưới hai dạng:
- Khi phun thuốc thấy sâu không chết, nông dân có thể tăng lượng thuốc
dung trong một bình phun.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 21
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
- Nông dân vẫn giữ nguyên lượng thuốc phun nhưng giảm lượng nước
phun theo khuyến cáo, như vậy vô tình họ đã tăng nồng độ thuốc phun.
Theo kết quả điều tra của Viện BVTV năm 1995 và 1996, hầu hết nông dân

vùng trồng rau thường tăng nồng độ thuốc từ 1,5-2 lần, còn nông dân vùng trồng lúa
thường chỉ phun với lượng nước tối đa là 300 lít/ha, giảm 1/3 so với khuyến cáo.
Việc sử dụng hỗn hợp các loại thuốc cũng đang trở thành xu hướng diễn ra
khá phổ biến: nông dân thường sử dụng hỗn hợp thuốc với kỳ vọng là có thể tạo ra
một loại thuốc mới có tác động rộng, có thể trừ đồng thời nhiều loại sâu bệnh và
nâng cao hiệu quả của thuốc. Tuy nhiên do thiếu kiến thức về hỗn hợp thuốc nên
các hỗn hợp thường không hợp lý. Các loại hỗn hợp thuốc do nông dân tự pha chế
không những không có tác dụng hỗ trợ cho nhau mà đôi khi còn làm giảm tác dụng.
Thực tế trên đồng ruộng ít khi nhiều đối tượng dịch hại xuất hiện đỉnh cao cùng lúc
với nhau, do đó hỗn hợp thuốc không chỉ lãng phí thuốc, gây ô nhiễm nghiêm trọng
đến môi trường mà còn gây ảnh hưởng đến cây trồng và hệ sin thái.
3.1.4. Nguyên nhân của việc lạm dụng và sử dụng không hợp lý thuốc
BVTV
Hạn chế trong nhận thức và năng lực quản lý dịch hại của người nông dân:
− Nhận thức và năng lực quản lý dịch hại của nông dân có lẽ là nguyên
nhân chủ yếu. Sự hạn chế trước hết là khả năng nhận biết và phát hiện
sớm các đối tượng dịch hại.
Theo kết quả điều tra cho thấy trừ đối tượng cào cào và châu chấu chỉ có
5-55% nông dân ở các vùng sản xuất có khả năng nhận biết được các loại
dịch hại phổ biến trên rau, lúa và chè, 4-9,3% biết được thời điểm mẫn
cảm nhất của cây trồng đối với các đối tượng dịch bễnh phổ biến và nhỏ
hơn 6,6% biết được thời điểm phòng trừ hợp lý (Đào Trọng Ánh, 2001).
− Hạn chế thứ hai là nông dân không có khả năng phát hiện và lợi dụng các
ký sinh thiên dịch trên đồng ruộng; cũng như đối với các đối tượng dịch
hại, tỉ lệ nông dân có khả năng điều tra, phát hiện và nhận biết các loài
ký sinh thiên địch trên đồng ruộng là rất thấp (>20%).
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 22
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
− Nông dân còn hạn chế kiến thức về thuốc BVTV và việc sử dụng hợp lý
chúng trên đồng ruộng.

Công cụ phun rải thuốc kém chất lượng cũng làm giảm hiệu quả thuốc và
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người sử dụng. Theo báo cáo của Vũ Lữ
(1998) thì hiện nay nông dân phổ biến vẫn đang sử dụng các loại bơm tay đeo vai
được sử dụng từ các cơ sở trong nước và từ Trung Quốc. Nhưng phần lớn các bên
này không đủ tiêu chuẩn chất lượng vẫn rất hay xảy ra hỏng hóc các phụ kiện như
vòi phun, can phun, bình kích áp… làm cho kích thước hạt thuốc to, không đồng
đều, do đó hiệu quả của thuốc bị giảm đáng kể. Mặc khác, khi bơm hỏng dễ bị rò rỉ
thuốc ra ngoài, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người phun.
3.2. Hiện trạng quản lý
Một thực tế đang tồn tại gây khó khăn cho việc quản lý thuốc BVTV ở nước
ta là tình trạng "loạn" danh mục các loại thuốc. Hiện chúng ta có quá nhiều tên
thương mại của các loại thuốc trong khi nhiều loại không còn được sử dụng.
Hiện nay, trong danh mục của chúng ta có hơn 1.200 hoạt chất để chế tạo thuốc
BVTV trong khi các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia chỉ có từ
400 - 600 hoạt chất. Trong đó, có những hoạt chất có hàng trăm tên thương mại,
giống như "ma trận" đánh lừa người dân. Chẳng hạn, hoạt chất Abamectin có tới
188 tên thương mại.
Thuốc BVTV là mặt hàng kinh doanh hạn chế và có điều kiện nên Nhà nước
thống nhất quản lý việc nhập khẩu, bảo quản, vận chuyển, kể cả trong sử dụng.
Quyết định 175/2004/QĐ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
ngày 10/10/2004 quy định: Tất cả các nhãn thuốc BVTV phải ghi bằng tiếng Việt,
có thể kèm theo tiếng nước ngoài, phải rõ ràng, dễ đọc, gắn lên bao bì, không được
dùng hình nền trùng với màu chỉ độc chung… Nội dung nhãn phải gồm đủ 10 mục:
thông tin về độ độc, tên thuốc, thành phần hoạt chất, dạng thuốc, công dụng, hướng
dẫn sử dụng, những biện pháp an toàn khi sử dụng
Trên thị trường hiện có khoảng 22.000 cửa hàng buôn bán thuốc BVTV,
trung bình mỗi tỉnh có 400-500 cửa hàng được rải đều ở các xã, phường trên cả
nước. Tuy đây là mặt hàng hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, nhưng,
theo thống kê của Cục Bảo vệ thực vật, hiện mới chỉ có 80% cá nhân buôn bán
thuốc BVTV được cấp chứng chỉ hành nghề, 20% hoạt động buôn bán thuốc BVTV

GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 23
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
không có chứng chỉ, chủ yếu tập trung ở các cửa hàng nhỏ, lẻ vùng sâu vùng xa,
nên việc quản lý và kiểm soát rất khó khăn.
Tình trạng sử dụng các loại hoá chất khá thoải mái hiện nay là do việc quản
lý thuốc BVTV vẫn còn nhiều lúng túng do phân cấp quản lý không thống nhất, các
quy định pháp luật còn nhiều bất cập. Việc kiểm tra thuốc BVTV, thuốc thú y từ
trước tới nay chỉ mang tính chiếu lệ, chưa chặt chẽ, nhất là ở các địa phương. Đây
chính là lý do vì sao các cửa hàng bán lẻ thuốc BVTV còn nhiều vi phạm về nhãn
mác, các loại thuốc cấm sử dụng, thuốc không có nhãn mác nhiều khi được bày bán
công khai. Hàng năm, qua thanh tra, kiểm tra, đã tiến hành thu giữ và tiêu huỷ rất
nhiều tấn thuốc BVTV nhập lậu, tuy nhiên việc ngăn chặn rất khó khăn vì ý thức
của người kinh doanh, người sử dụng thuốc BVTV còn thấp.
Từ thực trạng trên cho thấy, năng lực quản lý thuốc BVTV, thuốc thú y còn
nhiều yếu kém. Quyết định số 03/2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
quy định về công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hoá đặc thù chuyên
ngành nông nghiệp, những tưởng sẽ khắc phục được điểm yếu này nhưng trên thực
tế lại nảy sinh bất cập khác. Theo quyết định này, có đến 10 cơ quan chức năng nhà
nước chịu trách nhiệm về từng khâu như sản xuất do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phụ trách, chế biến thuộc trách nhiệm của Bộ Công Thương, còn trên bàn
ăn là Bộ Y tế Việc phân công như vậy làm cho ranh giới giữa các khâu không rõ
ràng, có khâu có nhiều cơ quan chịu trách nhiệm, nhưng có khâu lại không có ai
chịu trách nhiệm chính nên dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, đùn đẩy
trách nhiệm, hậu quả là quản lý bị buông lỏng.
4. VAI TRÒ VÀ TÁC HẠI CỦA THUỐC BVTV
4.1. Vai trò
4.1.1. Đối với cây trồng
Thuốc BVTV có thể ảnh hưởng tốt đến sự sinh trưởng và phát triển của cây
trồng như:
- Làm cho năng suất và các chỉ tiêu cấu thành năng suất tăng.

- Rút ngắn thời gian sinh trưởng, ra hoa sớm, quả chín sớm.
- Tăng sức chống chịu với điều kiện bất thuận như chống rét, chống hạn,
chống lốp đổ, tăng khả năng hút chất dinh dưỡng, chống sâu bệnh.
- Một số thuốc BVTV có tác dụng kích thích giúp cây trồng phát triển tốt,
khỏe mạnh hơn (2,4-D dùng xịt cỏ còn giúp lúa đẻ nhánh mạnh hơn).
- Tăng phẩm chất nông sản.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 24
Thuốc bảo vệ thực vật và tính chất hai mặt
- Tăng khả năng hoạt động của vi sinh vật và cải tạo đất tốt.
- Đẩy lùi tác hại của sâu, bệnh, cỏ dại và các sinh vật gây hại khác đối với
cây trồng và nông sản một cách nhanh chóng.
- Đảm bảo cho các giống tốt phát huy được các đặc tính ưu việt, giúp cây
trồng tận dụng được điều kiện thuận lợi của các biện pháp thâm canh.
- Dễ dàng cho công việc cơ giới hóa ngành nông nghiệp (thuốc làm rụng
bông, khô thân khoai tây, được sử dụng trước khi thu hoạch bằng cơ
giới.)
Hình 4.1. Thuốc BVTV giúp tăng năng suất cây trồng
4.1.2. Đối với hệ sinh vật đất
Các thuốc BVTV tác động rất khác nhau đến hoạt động của vi sinh vật.
Các thuốc trừ sâu ở liều lượng thông dụng ít hay không ảnh hưởng xấu đến
hệ vi sinh vật đất. Ngược lại trong một số trường hợp còn kích thích cho vi sinh vật
đất phát triển nhiều hơn. Chỉ ở liều cao chúng mới ảnh hưởng đến hoạt động của vi
sinh vật. Còn một số trường hợp một lượng thấp thuốc trừ sâu cũng hạn chế được sự
phá hoại của vi sinh vật gây bệnh.
Nhìn chung các thuốc trừ cỏ không gây hại đến vi sinh vật đất, nếu có chỉ ức
chế tạm thời sự hoạt động của vi sinh vật, sau đó lại phát triển mạnh hơn trước.
4.1.3. Đối với kinh tế và xã hội
Nông nghiệp là thế mạnh, là ngành sản xuất quan trọng của cả nước, chiếm
tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho quốc
gia. Nếu không có thuốc bảo vệ thực vật , nhiều dịch hại cây trồng có thể làm giảm

40-60% năng suất trên diện rộng, có nơi có thể mất trắng. Ngoài ra, nó còn cải thiện
đời sống nông dân và góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo nông thôn.
GVHD: Ts. Lê Quốc Tuấn Trang 25

×