Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Bước đầu khảo sát nhà cổ ở làng Cự Đà, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.85 KB, 67 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi làng quê của người Việt, khi nhắc tới đều gắn với hình ảnh cây đa,
bến nước, sân đình, đồng lúa hay là dòng sông bao quanh làng, những hình
ảnh này đã quá quen thuộc đối với những người con xa quê khi nhớ về quê
hương của mình. Văn hóa làng xã được hình thành trên cơ sở những hoạt
động lao động sản xuất, sinh hoạt, phong tục tập quán, truyền thống lễ hội, hệ
thống di tích cũng như hệ thống nhà ở dân dụng tại làng. Đối với mỗi làng
quê, do tác động của nền kinh tế, những giá trị văn hóa có những đặc trưng
riêng.
Trong bối cảnh quá trình đô thị hóa diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay, sự
phát triển cũng đi đôi với nguy cơ mất mát các giá trị văn hóa truyền thống
nếu không được giữ gìn, nhiều làng xã có giá trị văn hóa lâu đời đã bị mai
một và quá trình này ngày càng phổ biến và lan rộng. Làng Cự Đà nằm ở xã
Cự Khê huyện Thanh Oai, Hà Nội. Đây là một ngôi làng cổ nằm ven sông
Nhuệ, hiện là một trong số ít các làng cổ còn bảo lưu được các giá trị ban đầu
của một làng quê truyền thống vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Cự Đà hiện nay còn bảo tồn khá phong phú những giá trị văn hóa cả về
vật chất và tinh thần. Cự Đà bên cạnh những đặc điểm chung của kiến trúc cổ
truyền vùng châu thổ Bắc Bộ, các công trình kiến trúc dân gian truyền thống
ở Cự Đà còn có rất nhiều nét đặc biệt khác. Nếu như các làng Việt khác khác
chỉ có lũy tre xanh với những ngôi nhà mái ngói thì ở Cự Đà còn có nhiều
kiến trúc mang phong cách kiến trúc Pháp, cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng
khác hiện đại lúc bấy giờ. Tuy có sự khác biệt với các làng quê khác nhưng
các công trình kiến trúc đó không phá vỡ cảnh quan của một ngôi làng Việt
truyền thống mà còn làm phong phú thêm bản sắc văn hóa ở đây. Hiện nay,
Cự Đà đang được nhà nước xem xét để công nhận làng cổ của Việt Nam và
1
việc công nhận Cự Đà là làng cổ có một vị trí rất quan trọng để tiến tới kỷ
niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Với những ý nghĩa đặc biệt đó trong khóa luận này chúng tôi muốn đi


sâu vào tìm hiểu về cấu trúc và chức năng về những ngôi nhà cổ ở làng Cự Đà
với tên đề tài “Bước đầu khảo sát nhà cổ ở làng Cự Đà, xã Cự Khê, huyện
Thanh Oai, Hà Nội”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc tìm hiểu kiến trúc nhà ở dân gian của người Việt đã thu hút sụ chú
ý và quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam: các kiến trúc sư, các
nhà nghiên cứu, các nhà khảo cổ học…
Cuốn Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Khắc
Tụng, nghiên cứu theo phương thức mô tả chủ yếu là việc ghi chép lại hiện
trạng thực tế của đối tượng nghiên cứu tại thời điểm khảo sát, không hoặc rất
ít phân tích. Trong cuốn sách này quan tâm đến cấu trúc vật chất của ngôi
nhà, đặc biệt là bộ bì và phân loại chúng theo những tiêu chí, bố cụ, chức
năng và hình thức.
Trong “Góp phần tìm hiểu bản sắc kiến trúc truyền thống Việt Nam”
của Nguyễn Đức Thiềm xuất bản năm 2000, cuốn sách tập hợp những bài viết
nghiên cứu về kiến trúc dân tộc qua các mặt: nhà ở dân gian, tổ chức không
gian cư trú truyền thống, về ao vườn, về sân và cấu trúc, “gian- vì kèo” của
ngôi nhà ở nông thôn. Đây là cuốn sách viêt khá rõ về cấu trúc và chức năng
ngôi nhà truyền thống của người Việt.
Trong lĩnh vực văn hoá, nhà ở được tìm hiểu trên nhiều khía cạnh khác
nhau. “Nếp cũ con người Việt Nam: phong tục cổ truyền” (1995) của Toan
Ánh, bên cạnh việc nghiên cứu những phong tục của người Việt tác giả đã
danh một phần nói về chức năng và cấu trúc của nhà ở. Tác giả đưa ra các vấn
đề về chọn hướng nhà, việc xây dựng nhà…
2
Luận văn tiến sĩ của Khuất Tân Hưng làm về “Mối quan hệ giữa văn
hoá và kiến trúc trong nhà ở dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ” (2007) đã
nghiên cứu và tiếp cận kiến trúc nhà ở dân gian từ góc độ văn hoá phù hợp
với điều kiện tự nhiên Việt Nam. Luận văn làm rõ bản chất văn hoá quần cư
và kiến trúc nhà ở dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ và những giá trị văn hoá

chung của chúng, giải thích những hiện tượng kiến trúc phức tạp, từ đó góp
phần nhận diện bản sắc kiến trúc vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và kiến
trúc truyền thống Việt Nam nói chung.
Năm 1991 mới có một khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Việt Trung,
khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội viết về
làng Cự Đà. Đề tài của khoá luận có tên gọi “Làng Cự Đà từ khi thành lập
dến đầu thế kỷ XX”. Khoá luận này chủ yếu dựa vào các tư liệu địa phương
như gia phả của một số dòng họ được viết vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, văn bia tại các di tích, các thư tịch cổ… để phác hoạ ra lịch sử
hình thành làng và khoá luận cũng chỉ nghiên cứu làng Cự Đà từ khi thành lập
đến đầu thế kỷ XX. Tác giả chỉ đề cập tới lịch sử hình thành làng về tình hình
văn hoá của làng và không có phần nào tìm hiểu về hệ thống nhà cổ cũng như
cấu trúc và chức năng của nhà cổ ở làng. Tuy nhiên, khoá luận cũng đã bước
đầu tập hợp và hệ thống được nguồn tư liệu địa phương và nêu ra được một số
nét đặc trưng của làng cự Đà.
Năm 2005, trong báo cáo cấp Viện của Huỳnh Phương Lan ở Viện bảo
tồn di tích đã đi vào tìm hiểu làng Cự Đà với gọi “Làng Cự Đà- quá trình
hình thành và phát triển”. Tác giả đi vào tìm hiểu quá trình phát triển của các
dòng họ ở làng Cự Đà, tình hình kinh tế- văn hoá thông qua việc tập hợp và
hệ thống những tư liệu như văn bia, câu đối, sắc phong, gia phả có liên quan
tới làng Cự Đà. Báo cáo đã tìm hiểu được quá trình phát triển của làng Cự Đà
từ khi thành lập tới nay bao gồm các vấn đề về lịch sử hình thành làng, mối
quan hệ và kết cấu dân cư, hoạt động sản xuất kinh tế, các tổ chức hành chính,
3
các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần ở làng, hệ thống các công trình dân
dụng ở làng. Báo cáo đề cập tới vấn đề nhà cở ở làng Cự Đà nhưng chưa đi
sâu vào tìm hiểu cụ thể về cấu trúc hay chức năng của ngôi nhà.
Trong tạp chí Xưa và nay năm 2005, tác giả Đinh Quang Hải có bài
viết về “Hai cây giang đằng bằng đá ở làng Cự Đà”. Bài viết đề cập tới vấn
đề hình thành làng cũng như các công trình kiến trúc còn bảo tồn được ở làng

đến nay và đặc biệt tác giả tập trung vào tìm hiểu về hai cây “giang đằng”
bằng đá ở làng.
Cuốn “Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) truyền thống
và biến đổi” của Bùi Xuân Đính xuất bản năm 2009 là cuốn sách tập hợp các
làng nghề thủ công truyền thống của huyện Thanh Oai. Trong cuốn sách này,
làng Cự Đà được nhắc đến nhưng tác giả chủ yếu nói về tình hình phát triển
làng nghề truyền thống của làng là nghề làm tương và làm miến.
Như vậy, trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu của người đi trước và
căn cứ vào việc chưa có tài liệu nào viết cụ thể về nhà cổ ở làng, chúng tôi đã
chọn đề tài “Bước đầu khảo sát nhà cổ ở làng Cự Đà . Qua khoá luận này,
chúng tôi hy vọng sẽ có hiểu biết toàn diện về làng, từ quá trình hình thành và
phát triển tới nay đồng thời cung cấp thêm một nguồn tài liệu về nhà cổ và
đặc điểm văn hoá ở làng Cự Đà.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận về nhà cổ ở Cự Đà nhằm tìm hiểu
về các vấn đề sau:
Giới thiệu về vị trí địa lý, dân cư và diện tích cũng như quá trình hình
thành và phát triển của làng Cự Đà, để lý giải tại sao làng lại có cuộc sống
thành đạt và sung túc hơn so với các làng quê khác. Sự giàu có của làng được
thể hiện tiêu biểu nhất qua việc xây dựng những ngôi nhà gỗ có giá trị ở làng.
4
Nghiên cứu để thấy được thực trạng những ngôi nhà cổ hiện nay ở Cự
Đà và từ đó đưa ra các đề xuất, biện pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa.
Nghiên cứu về cấu trúc và chức năng của những ngôi nhà cổ ở đây,
thông qua đó để thấy được các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của người
dân Cự Đà nói riêng và của người Việt nói chung hiện nay.
Từ nghiên cứu tất cả các vấn đề trên để thấy được những ngôi nhà cổ ở
làng hiện nay có ý nghĩa như thế nào đối với người dân nơi đây, với nền kiến
trúc và văn hóa của dân tộc.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Như tên đề tài đã nêu rõ, đối tượng nghiên cứu
của khóa luận này là nhà cổ của làng Cự Đà thuộc xã Cự Khê, huện Thanh
Oai, Hà Nội (những ngôi nhà cổ có niên đại từ 100 năm trở lên).
Phạm vi nghiên cứu: Trong khóa luận này, chúng tôi giới hạn phạm vi
nghiên cứu của là tìm hiểu về nhà cổ theo một quá trình từ tìm hiểu khái quát
về làng sau đó nêu lên số lượng và hiện trạng nhà cổ ở làng, tiếp theo là tìm
hiểu về cấu trúc và chức năng chính trong các ngôi nhà cổ ở làng hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận, chúng tôi đã sử dụng một số
phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống nghiên cứu các yếu tố hình thành làng Cự Đà
Phương pháp điền dã, nghiên cứu thực địa đây là phương pháp quan
trọng để tiếp cận trực tiếp với những người dân, đi vào khảo sát thực tế từng
ngôi nhà để thấy được hiện trạng, cấu trúc và chức năng của từng ngôi nhà ở
làng. Để thực hiện phương pháp này, chúng tôi tiến hành chụp ảnh, phỏng
vấn, sưu tầm, các ngôi nhà ở làng.
5
Phương pháp khảo cứu những tư liệu và tài liệu hiện có liên quan đến
đề tài để tập hợp, phân tích tổng hợp để đưa ra những nhận định chung nhất
về quá trình hình thành và phát triển cũng như cấu trúc nhà cổ ở làng.
6. Đóng góp của khoá luận
Khoá luận nêu lên được hiện trạng của những ngôi nhà cổ ở làng Cự
Đà hiện nay một cách sát thực nhất, từ đó giúp những nhà quản lý văn hoá
đưa ra những quy hoạch hợp lý nhất để bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống
này.
Đưa ra cái nhìn toàn diện hơn về cấu trúc và chức năng trong nhà cổ ở
làng Cự Đà nói riêng và của ngôi nhà cổ truyền của người Việt nói chung.
Giúp người dân Việt Nam thấy được những giá trị của công trình kiến
trúc cổ này.

6
B. PHN NI DUNG
C cú h thng cỏc di tớch kin trỳc rt phong phỳ v a dng, bao
ni ting nh: ỡnh, miuThờm vo ú l cỏc loi hỡnh di tớch khỏc nh:
nh th h, nh vn húa xó, nh hi ng c bit l h thng nh c cũn bo
tn c ca ngi dõn trong lng. C cũn c bit n l mt lng buụn
bỏn hng u t H Tõy xa, ngoi ra cũn ni ting vi cỏc ngh truyn
thng th cụng nh lm tng, min. Trong bi vit ny, chỳng tụi tp trung
i vo tỡm hiu cu trỳc nhng ngụi nh c lng C . Tiờu chớ chỳng tụi
xỏc nh l nh c c chn l nhng ngụi nh cú niờn i t 100 tui tr
lờn.
CHNG 1: GII THIU V LNG C V HIN TRNG NH
C LNG
1.1. Gii thiu v lng C
1.1.1. V trớ a lý, din tớch v dõn c
1.1.1.1. V trớ a lý
Do v trớ c bit nờn lng C nm tri di theo b phi ca dũng
sụng Nhu. Dũng sụng ny thi c c gi l sụng T Liờm vỡ nú chy qua
huyn T Liờm. on chy qua t C gi l sụng Thanh Oai vỡ sụng ny
chy qua t Oai l. Trong lch s õy l dũng sụng cú giỏ tr v giao thụng
thy, l con ng giỳp lng giao lu, buụn bỏn vi cỏc vựng khỏc. Trong
thi k trc õy, sụng Nhu tp np thuyn bố qua li buụn bỏn, vn chuyn
hng húa.
Lng C hin nay l mt trong ba thụn ca xó C Khờ (thụn C ,
thụn Khỳc Thy v thụn Khờ Tang) thuc huyn Thanh Oai, H Ni, nm
phớa tõy nam ca th ụ H Ni, cỏch trung tõm H Ni khong 15km. Thôn
Cự Đà giáp thôn Khúc Thuỷ (Cự Khê, Thanh Oai, Hà Ni) về phía nam,
ranh giới giữa hai thôn là khu Mả Giai. Phía ông bắc của Cự thụn giáp địa
7
phận thôn Phú Diễn (xó Hữu Hoà, huyn Thanh Trì, Hà Nội). Phía tây

của làng là đồng ruộng giáp với cánh đồng của xã Phú Lãm (qun H Đông,
Hà Ni). Dọc theo đờng làng về phía ông là dòng sông Nhuệ. Qua bên
kia sông là địa phận thôn Thợng Phúc và Phú Điền của xó Tả Thanh Oai,
huyn Thanh Trì, Hà Nội.
V ng thy, thôn Cự Đà nằm trải dài khoảng 800m theo dòng sông
Nhuệ. Trong sỏch i Nam nht thng chớ ó mụ t v dũng sụng ny nh
sau: cỏch tnh thnh 34 dm, cú thuyt núi: vỡ ngn ngun nhn, nờn gi l
Nhu Giang; ngun t phớa ụng nam m Bỏt Long, xó H M huyn T
Liờm, chy vo a phn huyn Thanh Oai, phớa ụng n xó H Liu huyn
Thanh Trỡ, õy cú sụng Tụ Lch chy n, chy ngot sang phớa nam qua a
phn xó T Nhai huyn Thng Phỳc, mt chi phớa ụng hp lu vi sụng Kim
Ngu, cũn chi chớnh thỡ chy v phớa nam vo a phn xó Thnh c huyn
Phỳ Xuyờn hp lu vi sụng Kim ngu, chy sut n ngó ba Lng ri hp
vi Sa Giang, li chuyn sang phớa nam n a phn tng Trỏc Bỳt huyn
Nam Xang thỡ chia lm hai chi: mt chi chy v phớa ụng bc, chuyn ụng
nam, qua a phn cỏc tng Mc Hon v Chuyờn Nghip huyn qua a phn
Duy Tiờn, tc gi ngó ba Vng, li chy v phớa ụng qua xó Thỏi ng
huyn Sn Minh, õy cú kờnh Phng ỡnh chy n, tc gi l ngó ba Sa,
li chy chuyn sang phớa ụng, qua a phn xó ng Xuyờn (tc gi ngó ba
Lng) huyn Phỳ Xuyờn. Sụng ny vo quóng mựa hố mựa thu cú th i
thuyn, mựa ụng mựa xuõn thỡ cn [20, tr 217- 218].
Ngi dõn trong lng vn thng truyn tng cõu ca dao mụ t v cnh
p ca dũng sụng ny:
Lng ta phong cnh hu tỡnh
Con sụng Nhu un mỡnh giao long
Từ xa xa sông Nhuệ là một con sông đợc ngời Việt khai thác nhiều,
chủ yếu với mục đích vận chuyển hàng hoá. Theo li k ca các cụ già
8
trong làng, ngời làng trớc kia thờng đi đò trên sông Nhuệ vận chuyển hàng
hoá ra chợ Hà Đông (chợ Đơ trớc kia), ri h lại mua hàng từ chợ Hà Đông mang

về bán lại ở khu vực huyện Thanh Oai. Cho ti nhng thp niờn 50, 60 ca
th k XX, dũng sụng Nhu vn tp np thuyn bố i li vn chuyn hng
húa. Hin nay, sông Nhuệ đã bị bồi lắng, dòng chảy thu hẹp, thuyền trọng
tải lớn v ngay c thuyn cú trng ti nh cng không đi đợc, chức năng vận
chuyển hàng hoá của dòng sông cũng vì thế mà mất đi. S biến đổi này
ít nhiều đã ảnh hởng tới quá trình phát triển của làng Cự Đà.
Cú th thy, t thi xa xa C ó nm mt v trớ a lý thun li
c v ng b v ng thy. C ch cỏch trung tõm H Ni 15km,
chớnh vỡ vy, õy l iu kin cho vic buụn bỏn v giao thụng vi kinh thnh
Thng Long din ra mt cỏch thun li. V ng thy, lng nm bờn cnh
b sụng Nhu, mt dũng sụng cú nhiu giỏ tr v giao thụng vn ti, l ni
giỳp lng cú th giao thng d dng vi cỏc ni bng ng thy.
Vi v trớ thun li c ng b v ng thy, C nm mt v trớ
chin lc quan trng vi khu vc trung tõm ca kinh thnh Thng Long xa.
iu ny ó c chng minh bng s thnh vng ca lng trong nhng thi
k trc vi nhng ngụi nh g lm bng cỏc cht liu quý c xõy dng rt
nhiu lng, bờn cnh ú l vic xut hin rt nhiu cỏc thng nhõn kinh
thnh Thng Long mang cỏc tờn nh: C Nhõn, C Doanh, C Nguyn
1.1.1.2. Din tớch v dõn c
Theo tài liệu Cự Đà thôn địa bạ ghi vào năm Gia Long 4 (1805) tổng
diện tích đất đai ở thôn Cự Đà tại thời điểm này l 183 mẫu, 5 sào, 11 th-
ớc, 4 tấc (trong đó bao gồm cả đất ở, ruộng công, ruộng t, đất đình chùa
đền miếu, vờn ao) . Ngoi ra cũn cú 7 mu, 4 so th ph v t gũ, ng.
Tng cng l 190 mu, 9 so, 11 thc, 4 tc, bng khong 686.000 m
2
. Nếu
so với diện tích trung bình của một thôn/xã lúc bấy giờ (490 mẫu), đây là
một làng có diện tích khá nhỏ. Theo thng kờ nm 1928 ca Ngụ Vi Lin,
9
làng Cự Đà có 1850 nhân khẩu [16, tr 200]. Trong khóa luận tốt nghiệp khoa

Lịch sử trường ĐHKHXH-NV của Nguyễn Việt Trung cũng cung cấp một số
liệu khai thác được ở địa phương về tổng diện tích đất đai của Cự Đà trước
năm 1945 là 232 mẫu, diện tích canh tác là 200 mẫu và tổng số dân của làng
là 1187 nhân khẩu. Như vậy bình quân đất ở làng trung bình hơn 1 sào trên
một đầu người. (33, tr 21).
Theo số liệu thống kê n¨m 2005, th«n Cù §µ cã diÖn tÝch tự nhiên là
107 ha (trong đó có 79 ha đất canh tác), có 406 hé gia ®×nh và 1449 nhân
khẩu. Nhưng theo ông Vũ Văn Bằng trong Cự Đà nhân vật chí, tập 2 thì tổng
diện tích đất đai của làng là 280 mẫu, với hơn 400 hộ gia đình và khoảng
1500 nhân khẩu. Như vậy, qua hai thế kỷ, do quá trình bồi đắp và khai thác
đất đai, diện tích đât đai ở Cự Đà đã tăng gần hai lần so với năm 1805.
Làng Cự Đà trước kia có 12 ngõ xóm, nhưng do dân số tăng lên nên
làng được mở rộng thêm 2 xóm mới. Vì vậy, hiện nay có 14 ngõ xóm: xóm
ngõ Thí, xóm Chợ, xóm Điếm, xóm Chùa, xóm Đình, xóm Cương, Xóm
Đồng Nhân Cát, xóm An Lạc, xóm Quang Trung I, xóm Trung Tín (xóm Con
Cóc), xóm Hiếu Đễ, xóm Lễ Nghĩa, xóm Quang Trung II, xóm Ba Gang. Các
xóm được phân bố theo dọc bờ sông giống hình xương cá. Đây là một đặc
điểm đặc biệt của kết cấu làng xóm của người Việt, đầu các xóm chạy dọc
theo bờ sông, đầu kia của xóm thường là bụi tre, ao hay là cánh đồng. Các
xóm chủ yếu đặt tên theo các điển tích lễ nghi của Nho giáo. Tuy vậy, một số
xóm ngõ vẫn có tên dân gian, chủ yếu được gọi theo hình dáng hoặc những
đặc trưng của từng xóm như xóm Ba Gang là do trong xóm gồm ba ngã rẽ,
xóm ngõ Thí vì ngõ này có lối dẫn ra khu nghĩa địa của làng, hay xóm Con
Cóc vì đầu xóm có một cây đèn đá hình con cóc.
Qua nh÷ng ph©n tÝch trªn, cã thÓ thÊy lµng Cù §µ có diện tích không
lớn, nhưng có vÞ trÝ địa lý thuận lợi nằm ở cửa ngõ phía Nam kinh thành
Thăng Long, gần các trung tâm kinh tế- chính trị lớn, nằm trong vùng đất có
10
nhiu lng ngh th cụng nghip ca tỡnh H Tõy c, vi hệ thống sông ngòi
dầy đặc cựng nhiều con sông có giá trị kinh tế lớn. Đây là điều kiện

thuận lợi để làng phát triển theo hớng một làng buôn bán. Có thể nói đây
là một nhân tố quan trọng ảnh hởng tới quá trình hình thành và phát triển
của làng. Đồng thời vị trí gần sông cũng ảnh hởng lớn tới kiến trúc, quy
hoạch cảnh quan của làng, tạo cho làng những đặc trng riêng so với các làng
Việt cổ truyền khác. Vi v trớ c thiờn nhiờn u ói nờn C nm trong
vựng ng bng t ai mu m, giao thụng thy v b rt thun tin. Chớnh
vỡ vy ó giỳp lng cú nhiu iu kin phỏt trin cỏc ngnh kinh t nh
nụng nghip, th cụng nghip v thng nghip.
1.1.2. Lch s hỡnh thnh v phỏt trin
Mi lng quờ u cú mt lch s hỡnh thnh lng khỏc nhau, cú lng
c hỡnh thnh cỏch ngy nay hng nghỡn nm v cú lng mi hỡnh thnh
trong khong thi gian vi chc nm tr li õy. Cng ging nh nhiu lng
quờ Vit Nam khỏc, C l mt lng Vit c cú lch s hỡnh thnh v phỏt
trin t rt lõu i.
1.1.2.1. Quỏ trỡnh thnh lp lng
Vi v trớ a lý thun li cựng vi cỏc dũng sụng ln u hp lu
vựng t ny nờn ngi Vit c nh c õy rt sm. C hin nay
cha cú vn bn no ghi v thi im ra i ca lng. Khi n lng hi ngi
dõn v quỏ trỡnh hỡnh thnh lng h ch bit cỏc th h trc truyn tng li
cõu chuyn lng C hỡnh thnh t rt lõu.
C t thiờn nhiờn thnh C p
Thanh liờn nht i dn giang
Nu da theo ý ngha ca cõu ca dao trờn thỡ lng C ó hỡnh thnh
cỏch õy hng nghỡn nm: Thiờn niờn. Nh vy, lng c hỡnh thnh cỏch
õy nhiu th k.
11
Theo gia phả các dòng họ, làng được hình thành khoảng 800 năm
nhưng theo PGS.TS Trịnh Sinh (Viện khảo cổ học Việt Nam) nghiên cứu và
khẳng định làng đã được hình thành cách đây 2000 năm. Các nhà nghiên cứu
đã tìm thấy những viên gạch có hoa văn đắp nổi hình ô trám, hình đồng tiền,

gạch múi bưởi được xếp từng hàng lớp khi tu sửa nền chùa làng Cự Đà đã
phát hiện ra. Những viên gạch đặc trưng này của các ngôi mộ thời Bắc thuộc
cách đây hai mươi thế kỷ. Qua khẳng định của PGS. TS Trịnh Sinh thì có thể
thấy trong thời Bắc thuộc người Hán đã tới đây từ rất sớm. Cự Đà là khu vực
người Hán đặc biệt quan tâm tới với mục đích để tìm đường đi lại từ Nam
Trung Quốc qua nước ta rồi qua đó để thôn tính các vùng xung quanh.
Từ những câu ca lưu truyền của các thế hệ từ trước tới nay và những
dấu vết khảo cổ học thì có thể thấy làng Cự Đà từ xa xưa đã có người Việt tới
định cư sinh sống ở đây.
Cự Đà trước kia có tên là Ngô Khê. Theo tư liệu văn bia còn lưu ở chùa
làng (Minh Linh tự). Tên gọi có chữ Khê ở khu vực này xuất hiện khá nhiều,
như xã Tam Hưng có làng Bối Khê và làng Phúc Khê (tên gọi của làng này có
nhiều thay đổi trong quá trình hình thành nhưng vẫn giữ nguyên chữ Khê).
Thôn ngay bên cạnh thôn Cự Đà cũng có chữ Khê: Khê Tang. Giải thích về
tên gọi của làng có rất nhiều ý kiến khác nhau. Theo Nguyễn Việt Trung thì
“Người xưa khi đặt tên cho làng của mình, họ thường căn cứ vào những đặc
điểm tự nhiên của vùng đất mà họ sinh sống (như vùng đất có nhiều sông, hồ,
khe lạch hay không, hoặc vùng đất đó cao hay thấp) và kết kợp với họ và tên
của mình thành tên của làng. Như thế thì tên Ngô Khê có thể hiểu rằng: Ngô là
vùng đất người họ Ngô sinh sống còn Khê theo tiếng Việt cổ có nghĩa là: khe
lạch. Kết hợp hai ý trên thì Ngô Khê là người họ Ngô sinh sống trên vùng đất
có rất nhiều khe và lạch nước chảy” [33, tr. 11]. Và Nguyễn Việt Trung cũng
nói rằng, người họ Ngô ở làng Cự Đà hiện nay không còn nữa, chỉ có ở làng
Tả Thanh Oai (làng Tó) mới có người họ Ngô sinh sống lâu đời ở đó, đó là
12
dòng họ của Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm. Tuy nhiên, Huỳnh Phương Lan
không đồng ý với ý kiến của Nguyễn Việt Trung và cho rằng “đối với họ Ngô
ở Tả Thanh Oai, họ Ngô Thì còn giữ được tấm bia là Ngô thế gia quan đức chi
bí do chính Ngô Thì Nhậm soạn năm Quang Trung 4 (1791) ghi về dòng họ
mình đến thời điểm lập bia đã được 13 đời, tức là khoảng trên dưới 300 năm.

Như vậy, tại thời điểm thế kỷ 10 khó có thể có dòng họ Ngô đã tới đây sinh
sống. Còn họ Ngô Vi theo gia phả đựoc chéo vào năm Tự Đức 36 (1883) thì họ
Ngô tới đây vào thời Trần và tới thời điểm lập gia phả được 20 đời. Do đó việc
họ Ngô tới đây trong giai đoạn này là không có cơ sở” [13, tr32]. Đồng thời
Huỳnh Phương Lan cho rằng Nguyễn Việt Trung có sự nhầm lẫn khác đó là
chữ Ngô trong Ngô Khê có nghĩa là cây vông, cây duối chứ không phải chữ
họ Ngô như tác giả hiểu. Từ những ý kiến đánh giá của hai tác giả, chúng tôi
hiểu rằng Ngô Khê có nghĩ là khe nước có nhiều cây vông vì sau làng hiện
nay vẫn còn rất nhiều cây vông, cây duối và ở Cự Đà hiện nay vẫn còn xứ
Đồng Duối.
“Vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII (khoảng từ năm 1650- 1680), chính
quyền phong kiến Lê- Trịnh ra lệnh xóa tên Ngô Khê bắt đổi tên mới. Dân làng
đã cử các cụ họ Trịnh Giáp Thượng ở trong làng đứng ra xin phép chính
quyền cho lấy tên Cự Đà, là tên làng cũ của họ Trịnh ở Thanh Hóa, để đặt tên
cho làng”,(7, tr 49). Từ đó, làng được đổi thành tên làng Cự Đà như hiện nay,
tức là tên Cự Đà mới được đổi cách ngày nay khoảng 340 – 350 năm. Hiện
tại, trong làng có cây hương đá tại chùa Cự Đà hay còn gọi là Minh Linh tự
có ghi về tên Cự Đà. Mặt trước của cây hương có khắc dòng chữ Hoàng triều
Chính Hòa thập lục niên tuế thứ Ất Hợi thu (mùa thu năm 1695). Ở cây hương
này, địa danh của Cự Đà được ghi tại mặt trước của cây hương là Ứng Thiên
phủ Thanh Oai huyện Hạ Thanh Oai xã Cự Đà thôn. Có thể thấy, vào cuối thế
kỷ XVII, Cự Đà vẫn chỉ là một thôn của xã Hạ Thanh Oai. Đầu thế kỷ XIX,
làng là một thôn của xã Hạ Thanh Oai, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai,
13
ph ng Thiờn, trn Sn Nam Thng (nm Minh Mng th 12 - 1831 trn
ny nhp vi ph Hoi c thnh tnh H Ni). Cui th k XIX lng c
nõng thnh xó c lp. T nm Thnh Thỏi th 14 (Nhõm Dn, 1902), lng
thuc tnh Cu (mt phn ngoi thnh ca tnh H Ni lp nm 1831),
nm 1904 i thnh tnh H ụng.
Năm 1959 xã Cự Đà cùng với hai xã Khúc Thuỷ và Khê Tang sáp nhập

với nhau thành xã Cự Khê thuộc huyện Thanh Oai. Năm 1965 tỉnh Hà Đông
và tỉnh Sơn Tây hợp nhất thành tỉnh Hà Tây. Năm 1976 sáp nhập tỉnh
Hoà Bình với tỉnh Hà Tây thành tỉnh Hà Sơn Bình. Thời kỳ này Cự Đà
thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình. Tới năm 1991 tỉnh Hà Sơn
Bình tách ra thành 2 tỉnh Hà Tây và tỉnh Hoà Bình, Cự Đà lại thuộc tỉnh
Hà Tây. Nm 2008, H Tõy sỏt nhp vo H Ni nờn hin nay C thuc
xó C Khờ, huyn Thanh Oai, H Ni.
1.1.2.2. Quỏ trỡnh phỏt trin
C hin nay cú nm dũng h ang sinh sng ú l: h Trnh, h
V, h inh, h Vng v h Nguyn. Cỏc h gc ca lng l: inh, Trnh,
V. H inh l h ụng nht, tuy hc hnh khụng cao nhng luụn nm c
cỏc chc trỏch cao trong b mỏy qun lý lng xó. H V cú nhiu ngi hc
hnh thnh t, giu cú, h Trnh vn l dũng dừi ca Trnh Kh (mt trong
nhng ngi tham gia B Ch huy ngha quõn Lam Sn), chuyn c t Thanh
Húa ra, buụn bỏn gii nờn rt khỏ gi vỡ vy hai h Trnh v V thng kt
thụng gia vi nhau.
Thụng qua quỏ trỡnh cỏc dũng h n nh c ti lng thỡ cú th thy
c quỏ tỡnh phỏt trin ca lng qua cỏc thi k. Giai on u, ngi dõn
ti lng sinh sng ch yu tp trung gia lng. iu ny c minh chng
qua vic kho sỏt v nh ti lng. Trong sut quỏ trỡnh tỡm hiu, chỳng tụi
thy cỏc ngụi nh cú niờn i lõu i ch yu tp trung gia lng vi mt
dy c. V sau, nhiu dũng h v cỏc h dõn n õy sinh sng, Dõn s tng
14
lên do vậy người dân đã mở rộng địa bàn sinh sống sang hai bên. Qua quá
trình điền dã, chúng tôi thấy người dân hiện nay còn làm nhà ở ngay bờ sông,
nơi mà trước kia chủ yếu làm bến đỗ thuyền.
Cự Đà vốn nằm bên cạnh sông với vị trí “Nhất cận thị, nhị cận giang”,
người dân ở đây đã biết được vị trí đặc biệt của làng là nằm gần sông và là
trung tâm của việc giao lưu với các vùng khác nên họ đã chuyển sang buôn
bán, giao thương với các vùng khác. Cùng với việc buôn bán là nghề làm

tương xuất hiện và trở thành một nghề phụ nổi tiếng ở làng. Theo các cụ già
trong làng nghề làm tương xuất hiện cùng với sự xuất hỉện của dòng họ Trịnh.
Dân gian thường có câu “Tương Cự Đà, cà KhúcThủy” để nói lên đặc sản của
vùng Hà Đông. Nghề làm tương đã đạt đến trình độ khá cao, vượt ra ngoài
quy mô phục vụ sinh hoạt của dân làng và vươn lên trình độ sản xuất hàng
hóa. Vào khoảng những năm 30 – 40 của thế kỷ XX, nghề làm tương ở Cự Đà
thực sự phát triển, sản phẩm cung cấp cho nhiều thị trường lớn chủ yếu là Hà
Nội cũ, Hà Đông và Hải Phòng, thậm chí xuất khẩu ra nước ngoài (chủ yếu
sang Pháp để phục vụ Việt kiều). Theo thống kê của xã Cự Khê, hiện nay cả
xã có hơn 300 hộ sống bằng nông nghiệp thì trong đó chỉ có khoảng 20 hộ
làm tương. Việc sản xuất tương chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong làng, bên
cạnh đó còn phục vụ nhu cầu ở Hà Nội cũ và một số vùng lân cận.
Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX làng phát triển cực thịnh về mọi mặt
kinh tế, văn hóa… , việc kinh doanh buôn bán của dân làng Cự Đà, nhất là
những người dòng họ Trịnh, phát triển rất mạnh vượt ra khỏi phạm vi của
làng xã để vươn tới các trung tâm kinh tế- chính trị và đô thị lớn. Tại các
thành phố, thị xã lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Đông, Sơn Tây, Sài Gòn…
đã thấy xuất hiện nhiều cửa hiệu buôn lớn của người Cự Đà. Các cửa hiệu này
đều lấy chữ Cự ở đầu như: Cự Doanh, Cự Chân, Cự Chi, Cự Hiên…Kinh tế
thương nghiệp và thủ công nghiệp có những bước tiến vô cùng mạnh mẽ mà
biểu hiện cụ thể nhất là làng có nghề làm tương nổi tiếng và nghệ buôn bán
15
phát đạt. Hai ngành kinh tế này đã trở thành xương sống của nền kinh tế làng
Cự Đà, bên cạnh đó nông nghiệp phát triển nên đã xây dựng thành một Cự Đà
phát đạt, phồn thịnh. Sự phát triển kinh tế được minh chứng qua hàng loạt các
công trình xây dựng phúc lợi của địa phương và những ngôi nhà cổ đều được
xây dựng vào những năm đó. Theo Nguyễn Việt Trung thì “vào thế kỷ XIX Cự
Đà là một làng giàu có, sầm uất và phồn thịnh, sự giao lưu buôn bán rất phát
triển. Buôn bán ở làng gồm nhiều thành phần từ những người buôn bán ở làng
nhỏ với số vốn ít, cho tới những lái buôn có một số lượng hàng và tiền tệ rất

lớn. Họ thuê thuyền đi mua và bán các sản phẩm ở mọi nơi. Hiện tượng các lái
buôn với quy mô làm ăn lớn nói chung là khá phổ biến ở làng Cự Đà” [33, tr
48].
Khoảng những năm 60 của thế kỷ XX, ở Cự Đà xuất hiện nghề làm
miến. Người khai sinh ra nghề này là ông Trịnh Văn Cẩn đưa từ Hà Nội về
làng. Nghề miến cho tới ngày nay vẫn rất phát triển và có thể nói đây là nghề
thủ công chính của làng. Khi tới làng chúng ta sẽ thấy hầu như nhà nào cũng
có một khu vực sản xuất miến và khắp làng đâu đâu cũng thấy miến. Với sự
phát triền của nghề thủ công này, năm 2004 làng đã được công nhận là làng
nghề thủ công truyền thống.
1.2. Giới thuyết về nhà cổ và hiện trạng nhà cổ ở làng Cự Đà
1.2.1. Giới thuyết về nhà cổ
Qua các kết quả khai quật của ngành khảo cổ học ở các di chỉ Bình Gia
(Lạng Sơn) và núi Đọ (Thanh Hóa) cho thấy con người nguyên thủy Việt
Nam chủ yếu sống trong các hang động và dùng tre, nứa khai thác dễ dàng
trong rừng núi bạt ngàn thời bấy giờ, đan dựng nên những tấm phên che mưa,
gió để sinh sống trong thời kỳ manh nha tổ chức xã hội này. Như vậy, thời kỳ
này những ngôi nhà vẫn chưa xuất hiện.
Đến khi vua Hùng dựng nước Văn Lang, các tụ điểm dân cư người Việt
mới xuất hiện với những tập hợp theo quan hệ gia đình ruột thịt, hàng xóm
16
láng giềng thì kiến trúc ngôi nhà dân tộc đầu tiên đã được dựng nên khi mọi
người đã biết phá rừng lập ấp, gác gỗ dựng nhà sàn và nghề mộc thời đó đã
dựng được những ngôi nhà sàn mái cong như hình đuôi én. Hình kiểu kiến
trúc thời kỳ này chủ yếu là những ngôi nhà sàn, với vật liệu xây dựng từ thiên
nhiên: tranh, tre, gỗ, nứa, lá… sẵn có trong rừng.
Nhà ở của người Việt trải qua chiều dài lịch sử có sự biến đổi trong
chất liệu làm nhà. Sản phẩm chính của quá trình tạo dựng môi trường sống đó
chính là những ngôi nhà sàn hoặc nhà đất. Những ngôi nhà nền đất xuất hiện
từ thời tổ tiên ta dựng nước Văn Lang, qua các di chỉ khảo cổ ở Gò Mun (Phú

Thọ), Thiệu Dương (Thanh Hóa) với các viết tích như nền nhà, hố bếp… Từ
các loại cây rừng thân gỗ cho tới các loại tre nứa, người Việt đều có cách
riêng để tạo nên ngôi nhà đủ sức chống chọi với thiên nhiên, tạo nơi ăn ở mát
mẻ vào mùa hè và ấm áp về mùa đông. Những ngôi nhà đó dù được làm bằng
gỗ hay tre nứa đều được tạo dựng từ bộ khung nhà với nhiều gian.
Trong lịch sử kiến trúc Việt Nam nói chung và trong kiến trúc nhà ở nói
riêng, chưa có cuốn sách, tạp chí nào đưa ra định nghĩa hay các quy ước về
nhà cổ. Trong cuốn Kiến trúc cổ Việt Nam của Vũ Tam Lang (Nxb. Xây dựng,
Hà Nội, 1998) có nói tới nhà ở dân gian và nói: “Nhà ở là phương tiện cư trú
và là tổ hợp không gian sinh hoạt văn hóa của con người. Nhà ở được phát
triển cùng với tiến trình của lịch sử xã hội, mức độ kinh tế và văn hóa cùng sự
biến đổi về hoàn cảnh địa lý, môi trường sinh sống của loài người nói chung
và của dân tộc Việt Nam nói riêng”. Như vậy, tác giả chỉ đề cập tới nhà ở và
chưa nói tới nhà cổ là gì. Trong Wikipedia, viết về Kiến trúc cổ Việt Nam đề
cập đến nhà ở dân gian: “Nhà ở dân gian đã trải qua một quá trình chuyển
biến từ nhà sàn đến nhà nền đất. Nhà nền đất vùng xuôi có kết cấu khung tre
hay gỗ, thường làm vách và lợp bằng tranh, rạ hay lá dừa; nếu kết cấu khung
gỗ loại tốt lại thường được lợp bằng ngói, tường bao quanh bằng gạch với vì
kèo gỗ. Khuôn viên nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ (nhà ngang và nhà bếp)
17
và chuồng gia súc cùng sân, vườn, ao, giếng hoặc bể nước và hàng rào, tường
vây quanh, cổng ngõ”.
Các kiến trúc sư chuyên nghiên cứu về kiến trúc nhà ở cổ truyền như
Ngô Huy Quỳnh, Nguyễn Khắc Tụng cũng chưa đưa ra một tiêu chí hay một
ý nào nói thế nào là nhà cổ. Có lẽ nhà cổ là từ thông dụng và từ gọi quen
thuộc của mọi người khi nói về một cái gì đó có lịch sử lâu đời.
Hiện nay, việc nghiên cứu về nhà cổ thu hút được sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu như: các kiến trúc sư, các nhà khảo cổ, các nhà sử
học… Tuy nhiên vẫn chưa giới nào đưa ra một quan niệm cụ thể về nhà cổ.
Thông thường các sách nói về nhà cổ, chủ yếu nói về các thức kiến trúc và

niên đại của ngôi nhà vẫn chưa chú ý tới việc đưa ra một khái niệm, một quy
ước cụ thể về nhà cổ.
Khi được hỏi về quan niệm nhà cổ, KTS Nguyễn Giang cho rằng “Nhà
cổ là ngôi nhà có thời gian lâu năm (ít nhất là 50 năm trở lên) và trong các
ngôi nhà đó đều mang một dấu ấn văn hóa của dân tộc”.
Qua những ý trên và căn cứ vào tình hình hiện tại chưa có tài liệu nào đưa
ra quan niệm về nhà cổ do vậy, trong phạm vi khóa luận của mình, chúng tôi
đưa ra quan niệm về nhà cổ như sau: “Nhà cổ là một ngôi nhà được xây
dựng từ ngày xưa và tồn tại trong một thời gian dài tới ngày nay, đó là
những ngôi nhà được xây dựng và mang một dấu ấn đặc trưng của thời kỳ
và có giá trị trong nền văn hóa của dân tộc”
Qua quan niệm này, chúng tôi thấy nhà cổ là những ngôi nhà được xây
dựng từ xa xưa, trải qua thời gian khắc nghiệt của thiên nhiên, của các nhân tố
bên ngoài tác động vào, nhưng vượt qua tất cả những thử thách ngôi nhà đó
vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Ngôi nhà cổ này có ý nghĩa quan trọng đối với
các thế hệ trong gia đình đó, mang dấu ấn văn hóa vật chất và tinh thần của
một làng quê đồng thời có ý nghĩa trong nền văn hóa, trong quá trình hình
thành của đất nước ta.
Theo chúng tôi, một ngôi nhà gọi là nhà cổ khi ngôi nhà đó tồn tại được ít
nhất là 100 năm trở lên. Sở dĩ chúng tôi chọn quy ước đó vì những ngôi nhà
18
phải trải qua được thời gian dài để khẳng định sự vững chắc của ngôi nhà,
khẳng định độ bền của vật liệu xây dựng và tài năng về kiến trúc của người
Việt xưa. Bên cạnh đó, những ngôi nhà qua thời gian dài sẽ biến động cùng
những thăng trầm của lịch sử, mang trong đó những chứng tích của lịch sử.
Thông thường những ngôi nhà thời gian càng lâu thì giá trị của nó sẽ càng
lớn. Và cách quy ước đó được chúng tôi sử dụng để xác định cụ thể phạm vi
đối tượng nghiên cứu trong khoá luận.
Trong khóa luận này, chúng tôi đi vào khảo sát nhà cổ ở làng Cự Đà.
Làng Cự Đà là ngôi làng có khá nhiều ngôi nhà mang phong cách kiến trúc

khác nhau. Bên cạnh những ngôi nhà làm bằng gỗ mang kiến trúc đặc trưng
của vùng đồng bằng Bắc Bộ là ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Việt-
Trung và những ngôi nhà xây dựng bằng gạch có phong cách kiến trúc Pháp
đặc sắc. Đây là một ngôi làng điển hình với nhiều loại hình kiến trúc khác
nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi của khóa luận chúng tôi đi sâu vào nghiên
cứu những ngôi nhà gỗ cổ ở đây vì:
Ngày xưa, nhà ở của nước ta chủ yếu làm bằng tre, nứa, sau này khi
những gia đình có điều kiện thì họ xây dựng nên những ngôi nhà làm bằng gỗ
quý. Gỗ là một loại vật liệu rất sẵn có ở nước ta, đồng thời người Việt Nam
làm nhà luôn có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên và việc làm nhà
gỗ thể hiện sự gắn bó đó.
Quan niệm âm dương hài hòa với thuyết ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ. (Ngũ hành là học thuyết về quy luật vận động và phát triển của thế giới,
lý giải mọi điều đa dạng của sự vật và hiện tượng không đơn giản chỉ là sự
tương tác song cực Âm- Dương, mà là một trạng thái cân bằng động- hệ quả
của sự tương tác đa cực và biện chứng (tương sinh, tương khắc) giữa 5 yếu tố
Kim- Mộc- Thuỷ- Hoả- Thổ, trong đó hành Thổ là yếu tố nói chung có tính
dung hoà. Tương sinh, tương khắc là hai điều kiện không thể thiếu được để
duy trì sự cân bằng tương đối của mọi sự vật, đồng thời thúc đẩy sự vật sinh
trưởng biến hoá không ngừng.). Đặc điểm sử dụng vật liệu của nhà ở dân gian
19
người Việt chịu ảnh hưởng và tuân thủ thao thuyết ngũ hành. Vật liệu trong
ngôi nhà luôn sử dụng sao cho đủ 5 yếu tố để đạt được trạng thái cân bằng.
Trạng thái đó được biểu hiện thông qua sự tương tác của cả 5 yếu tố Kim-
Mộc- Thuỷ- Hoả- Thổ, trong đó hành thổ là nền đất ở trung tâm, hành hoả là
lửa (tương ứng với ngọn đèn dầu luôn cháy sáng trên ban thờ tổ tiên), hành
mộc chính là gỗ (cấu trúc bộ khung gỗ của ngôi nhà), hành thuỷ là nước
(nước mưa chảy từ trên mái xuống), và hành kim là kim loại (các đồng tiền xu
chon dưới chân tảng).
Nhà ở của người Việt có nóc cao khiến con người cảm giác gần gũi với

đất và trời, bởi nhà ở dân gian của người Việt là một tiểu vũ trụ, phản ánh
quan niệm của người Việt cổ về cấu trúc của vũ trụ, không gian mái tượng
trưng cho Trời. Điều này lý giải tại sao không gian mái luôn được mở thông
với không gian sinh hoạt bên dưới. Tầng giữa tượng trưng cho người bởi đó là
nơi diễn ra hầu hết các sinh hoạt trong gia đình. Còn tầng dưới chính là
“không gian” dưới đất.
Ngày xưa, khi làm nhà người Việt không thích sử dụng gạch hoàn toàn
trong ngôi nhà.
Các ngôi nhà bằng gạch ở làng đều là nhà Pháp nên không đánh dấu được
sự phát triển trong kiên trúc cổ của người Việt.
1.2.2. Hiện trạng nhà cổ ở làng Cự Đà
Nhà cổ, làng cổ, phố cổ... tất cả những thứ cổ xưa đó gợi cho chúng ta
nhớ về cội nguồn dân tộc, những giá trị văn hoá đó cần được phát huy và bảo
tồn, đó không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Nếu như phố cổ Hà Nội là kiến
trúc độc đáo mang nét văn hoá kẻ chợ, hay làng cổ Đường Lâm khiến người
ta nghĩ đến quần thể làng xã người Việt xưa với hệ thống các ngôi nhà làm
bằng đá ong thì ở Cự Đà lại mang nét đẹp đặc biệt. Nhà ở làng có đủ cả ba
phong cách Việt, Trung Hoa và Pháp. Nhưng làng Cự Đà có nét dân dã của
20
ngôi làng cổ ven sông với hệ thống nhà được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ với
niên đại hàng trăm năm trở lên.
1.2.2.1. Số lượng nhà cổ ở làng Cự Đà hiện nay
Làng Cự Đà với những ngôi nhà cổ được thiết kế khá độc đáo từ thời
Pháp, nhưng đặc biệt hơn cả là những ngôi nhà gỗ cổ truyền của người Việt,
nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa của dân tộc, của làng xã. Ông Vũ Văn Tuấn
nguyên Trưởng thôn cho biết, làng Cự Đà có chiều dài khoảng 800m với
những ngôi nhà tuổi thọ gần 200 năm và được xây cất theo trục chính của con
sông Nhuệ. Làng Cự Đà là một quần thể những ngôi nhà được xây cất một
cách có hệ thống, trục chính chạy song song với dòng sông Nhuệ. Nét cổ kính
thâm trầm của ngôi làng, soi bóng xuống dòng sông tô thêm nét độc đáo của

Cự Đà. Tuy nhiên, cũng như hầu hết người dân trong làng Cự Đà, niềm tự hào
về một khu làng cổ vào bậc nhất nhì Hà Nội đang dần vơi đi khi những ngôi
nhà này đang ngày bị mai một trước sự công phá của thời gian cũng như tác
động của cơ chế thị trường.
Trong quá trình đi điền dã, khảo sát về những ngôi nhà cổ ở Cự Đà,
chúng tôi đã thống kê được một số lượng nhà cổ tương đối lớn và có khá
nhiều ý kiến khác nhau về số lượng nhà cổ còn tồn tại cho đến ngày nay. Khi
chúng tôi tiếp xúc với người dân ở đây, họ cho rằng trước kia làng có khoảng
200 ngôi nhà cổ nhưng hiện nay do dân số tăng lên cùng với nhu cầu cần có
mặt bằng để phục vụ sản xuất thì nhà cổ ở làng dần bị phá đi và còn khoảng
50% số nhà cổ, tức là còn khoảng 100 ngôi nhà. Theo ông Vũ Văn Bằng,
Trưởng ban Văn hoá xã, cho biết trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến
1970 làng có hơn 100 ngôi nhà Việt cổ và nhà đan xen kiến trúc Pháp – Việt.
Đến nay có khoảng 50 ngôi nhà Việt cổ và 25 ngôi nhà theo kiến trúc Pháp.
Nhưng trong khi khảo sát từng ngôi nhà, chúng tôi nhận thấy những ý kiến
trên đưa ra chưa thực sự đúng. Thực tế, số lượng nhà cổ còn lại (tính cả
những ngôi nhà đã sửa lại nhưng vẫn giữ nguyên kết cấu cũ) thì làng còn 25
21
ngôi nhà gỗ có niên đại 100 năm trở lên. Trong tổng số 25 ngôi nhà cổ còn
lại, bên cạnh những ngôi nhà mang kiến trúc truyền thống của nguời Việt có
một ngôi nhà khá đặc biệt đó là ngôi nhà số 39 của ông Đinh Như Lai, xóm
Chùa 3, đó là một ngôi nhà cổ chịu sự ảnh hưởng lớn của kiến trúc Trung
Hoa. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, do nhu cầu về nhà ở, nhiều ngôi nhà
xuống cấp đã bị phá huỷ để thay thế vào đó là những ngôi nhà có diện tích sử
dụng lớn hơn, thuận lợi cho sản xuất.
So với các làng bên cạnh, số nhà gỗ cổ của làng chiếm số lượng khá lớn,
như ở làng Phú Diễn chỉ có khoảng 4 – 5 ngôi nhà gỗ có niên đại lâu đời như
làng Cự Đà. Con số 25 có thể là lớn đối với những làng xung quanh nhưng
đối với làng Cự Đà lại là một điều đáng lo ngại, bởi theo thời gian nếu không
có biện pháp bảo tồn, quy hoạch đúng cách thì số nhà cổ ở làng sẽ dần biến

mất và cũng đồng nghĩa mất đi một giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của
người dân làng Cự Đà nói riêng và của người Việt nói chung.
1.2.2.2.Tình hình nhà cổ hiện nay ở làng Cự Đà
Số nhà thuần Việt còn lại không nhiều và có một ngôi nhà cổ giữ
nguyên vẹn là nhà ông Trịnh Thế Sủng. Ngôi nhà được cụ nội ông Sủng dựng
từ năm 1874. Nhà có năm gian nên hay được gọi là nhà đại khoa. Tất cả nét
kiến trúc vẫn mang đậm phong cách thời Nguyễn với kết cấu dùng thượng
rường hạ kẻ, nét chạm khắc tinh vi trên xà, cột, vách gỗ chỉ bạc màu theo thời
gian chứ hình dáng vẫn như hơn trăm năm trước. Ngôi nhà vẫn giữ được
nguyên bộ bức bàn và bậu cửa từ ngày xưa. Cũng với kết cấu mái truyền
thống Việt nhưng nhà ông Đinh Như Lai lại là một ngôi nhà cổ đậm ảnh
hưởng kiến trúc Trung Hoa. Bức cốn nhiều hình tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai)
và các tích kiểu Bàn đào bát tiên, Bát tiên quá hải... Bộ cửa chính có phong
cách Tàu đậm nét, lấy tích từ Tam quốc, Tây du ký, phía trên là những hình
chữ Hán thể Triện được những nhà giàu người Tàu xưa ưa chuộng dành để
trang trí.
22
Những ngôi nhà cổ ở làng phần lớn vẫn giữ nguyên cấu trúc cổ truyền
của người Việt với những hàng cột gỗ lim ngay từ khi mới xây dựng. Tất cả
những cột gỗ đó từ khi xây dựng tới nay, trải qua thời gian hàng trăm năm
nhưng chưa có sự thay thế bởi các cột gỗ khác. Tuy nhiên, với niên đại hàng
trăm năm, những hàng cột đó hiện nay cũng không tránh khỏi sự tàn phá của
thời gian. Trong số 25 ngôi nhà cổ còn lại của làng, chúng tôi nhận thấy hầu
hết các hàng cột chống đỡ trong nhà đều bị xuống cấp. Như cột nhà ở nhà bà
Đinh Thị Kim (ngôi nhà đẹp của làng có tuổi thọ 130 năm) đã bị nứt, mục, rỗ
bề mặt cột, chủ nhà phải dùng dây thép buộc xung quanh để giữ cột không bị
nứt. Nhà ông Trịnh Văn Sủng được coi là ngôi nhà cổ còn khá nguyên vẹn
của làng cũng không tránh khỏi tình trạng các cột trong nhà bị nứt, rỗ và
xuống cấp. Bức bàn của gia đình ông đang xuống cấp dần. Bức bàn bị thủng
và hỏng một phần ở phía dưới gần bậu cửa. Gia đình ông Sủng đã lấy một số

tấm gỗ ép dán vào để che lỗ thủng, việc che chắn này khiến cho cánh cửa mất
đi giá trị mỹ quan. Một số cột nhà của gia đình ông cũng đang bị nứt ở thân
cột hoặc ở gần bệ đỡ chân cột. Bức vách ngăn hai gian buồng của nhiều gia
đình bị xuống cấp và hỏng nên họ đã thay bức vách gỗ bằng tường gạch ở bên
cạnh hai gian buồng.
Nền nhà trước kia thường lát bằng ngói Bát Tràng nhưng hiện nay số
nhà còn giữ được nền nhà Bát Tràng rất ít (có 2 nhà giữ được nền từ trước
kia). Nhưng nếu không có biện pháp duy trì và bảo tồn thì sắp tới ở làng sẽ
không còn ngôi nhà cổ nào giữ được nguyên vẹn nền nhà như trước kia. Khi
chúng tôi hỏi chuyện chủ nhân của hai gia đình này thì họ đều nói sắp tới vào
dịp hè sẽ lát lại nền nhà bằng đá hoa để ngôi nhà sáng lên và quan trọng là
vào ngày hè oi bức họ có thể nằm được ở dưới sàn nhà. Trong các ngôi nhà
cổ, nền nhà phần lớn đều được thay thế bằng gạch lát nền khác hoặc bằng
gạch hoa hiện đại.
23
Bên cạnh một số gia đình vẫn giữ nguyên được các tấm bức bàn để làm
cửa, đa phần ở các gia đình khác tấm bức bàn bị dỡ bỏ để tạo không gian
rộng, thoáng cho ngôi nhà. Thêm vào đó, Cự Đà vốn là một làng làm nghề
sản xuất miến, cần phải đi lại nhiều trong nhà mà bậu cửa thường làm cao
khoảng 40 – 50 cm sẽ gây khó khăn cho việc chuyển đồ vào trong nhà nên họ
đã dỡ phần bậu cửa và cửa ở giữa nhà ra để thuận tiện cho đi lại và mang sản
phẩm vào nhà. Thêm vào đó nhiều gia đình ở trong những ngôi nhà cổ này
thường không phải là chính chủ, họ kể rằng khi họ mua lại ngôi nhà thì chủ
nhà trước đã dỡ đi các tấm bức bàn và bậu cửa. Chúng tôi đã gặp bác Đinh
Văn Giáp, chủ nhân của một ngôi nhà cổ và có hỏi tại sao gia đình không làm
cửa. Bác cho biết, bác có ý định làm lại cửa giống với kiến trúc ngày xưa
nhưng để làm lại toàn bộ hệ thống cửa bức bàn với ngôi nhà 5 gian của bác thì
rất khó, bởi để làm được một bộ bức bàn thì gia đình phải bỏ ra ít nhất 100
triệu đồng. Đây là con số rất lớn đối với người dân ở đây. Không có các tấm
bức bàn che nắng hoặc gió rét, người dân ở đây đã thay thế bằng tấm phên,

tấm dại hay tấm bạt lớn che ở ngoài hiên.
Những ngôi nhà cổ ở làng có kiến trúc khá đẹp và hoa văn tinh xảo với
những bức chạm rồng, hoa lá… Tuy nhiên, các đồ dùng, vật dụng trong
những ngôi nhà sắp xếp khá “luộm thuộm” , quần áo của chủ nhà thường treo,
móc ở bất kỳ nơi nào trong nhà khiến ngôi nhà cổ trở nên “nhếch nhác”, giảm
giá trị thẩm mỹ của không gian kiến trúc. Hai gian buồng thường rất tối và ẩm
thấp, đồ đạc lộn xộn, có nhiều gia đình gian buồng bỏ trống… Vì vậy, cần
phải có sự xắp xếp lại không gian ngôi nhà một cách hợp lý và khoa học.
Trong các ngôi nhà cổ thường có nhiều thế hệ sinh sống, không gian
của ngôi nhà cổ không đủ để cho một gia đình có nhiều thế hệ chung sống
nhất là gia đình có nhiều nhân khẩu. Do đó trong ngôi nhà thường có sự chắp
vá, hoặc là xây ngôi nhà hiện đại ngay bên cạnh ngôi nhà cổ phá vỡ không
gian hài hòa của ngôi nhà. Có một số gia đình chia đôi ngôi nhà cổ ra làm hai
24
cho cỏc con sinh sng khin ngụi nh mt i cnh quan v v p trn vn ca
mt ngụi nh tn ti hng th k.
Hn na, lng C khụng ch c bit n l lng quờ cú nhng
ngụi nh c, lng cũn c bit ti l lng quờ cú ngh truyn thng ni ting
ó c cụng nhn vo nm 2004 v sn xut min. Sn xut min yờu cu
phi cú mt khụng gian sn xut vi din tớch ln, khụng gian mt bng
phi min rt ln do vy, nhiu nh c ó b phỏ i thay th bng nhng
ngụi nh mỏi bng tn dng c tng trờn phi min v cú mt din tớch
rng sn xut min.
Từ sau khi t nc tin hnh i mi nm 1986, nền kinh tế đất nớc
chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế thị trờng, với chính sách mở cửa,
nền kinh tế đã có những bớc tăng trởng rõ rệt, đời sống dân c đợc cải thiện
và nâng cao. Khi đời sống đợc nâng cao, nhu cầu ở luôn đòi hỏi phải đợc
cải thiện, ngời dân bắt đầu tự sửa chữa và xây dựng các ngôi nhà của
mình. Bên cạnh đó là sự gia tăng mật độ c trú bao gồm cả tăng dân số tự
nhiên và cơ học. Những công trình xây dựng nhỏ lẻ, không có giá trị thẩm

mỹ kiến trúc, xa lạ với cảnh quan làng xóm xuất hiện ngày càng nhiều, các
không gian cây xanh, mặt nớc dần bị biến mất. Các khuôn viên nhà ở
truyền thống bị xé nhỏ, để xây dựng nhà theo dạng lô, nhằm tăng diện
tích sử dụng, làm phá vỡ bộ mặt kiến trúc nh c của làng. Bên cạnh đó là
sự quá tải của hệ thống hạ tầng cũ, không phù hợp với đòi hỏi của cộng đồng
dân c ngày nay, đã gây nên nhiều vấn đề bất cập và ảnh hởng xấu tới môi
trờng và đời sống ngi dõn lng C .
Nhng ngụi nh c lng hin ang b xung cp nhiu, ngi dõn
sng trong nhng ngụi nh ny cng khụng c an tõm. Hn na, trong cỏc
ngụi nh ny tỡnh trng m thp khụng trỏnh khi bi cỏch xõy dng t ngy
xa thng lm nh cú mỏi hiờn thp, cựng vi cỏc tm bc bn che kớn gn
ht ca ca ngụi nh khin nh b ti. Chỳng tụi ó c nghe nhng ngi
25

×