Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tư liệu về văn bản Chiếu dời đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.36 KB, 3 trang )

CHIẾU DỜI ĐÔ
Mùa Thu năm Giáp Tuất (974) cuối thế kỷ thứ X, một bần dân làng Cổ Pháp xứ Kinh Bắc
sinh ra một cậu con trai, đặt tên là Lý Công Uẩn, từ nhỏ đã bộc lộ tài năng, chí lớn khác
thường. Lớn lên Lý Công uẩn đã làm quan to thời tiền Lê.
Theo truyền thuyết, ông thân sinh ra Lý Công Uẩn nhà nghèo, đi làm thuê nhà chùa Tiên
Sơn đã phải lòng một tiểu nữ, làm nàng có thai. Nhà chùa đuổi đi chỗ khác. Hai vợ chồng
dẫn nhau đến một khu rừng rậm, dừng lại nghỉ chân. Chồng bị chết đuối khi tìm nước để
qua cơn khát, người vợ bất hạnh xin vào nghỉ nhờ chùa “Ứng Tâm” gần đấy. Đêm hôm
trước sư trụ trì nằm mơ thấy Long thần báo mộng. “Dọn chùa cho sạch, ngày mai có
Hoàng đế đến”, nhưng chỉ thấy một thiếu phụ có thai đến ngủ nhờ. Vài tháng sau khu Tam
quan của chùa bỗng rực sáng, hương thơm lan toả. Người thiếu phụ kia sinh được con trai,
2 bàn tay có 4 chữ “sơn hà xã tắc”, trời nổi gió lớn mưa to, sản phụ chết ngay. Chú bé
được nhà sư Vạn Hạnh đưa về nuôi dưỡng.
Cuối thu năm Kỷ Dậu (1009), khi đang làm quan Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, vua
Ngoạ triều băng hà, Lý Công Uẩn được Đào Cam Mộc cùng triều thần nhà Lê tôn lên làm
vua, kết thúc triều Lê, mở đầu triều Lý. Vua hạ chiếu đại xá tù nhân, xoá bỏ ngục tù, kiện
tụng được phép đến trực tâu, nhà vua thân hành ngồi xử kiện.
Lên ngôi báu vừa tròn 9 tháng. Mùa hè năm Canh Tuất (1010) Lý thái Tổ đã hạ chiếu rời
đô từ Hoa Lư ra Đại La kinh phủ.
Sử sách chép rằng: “Lý Thái Tổ lên ngôi tự quốc bình thiên hạ chưa vội làm việc gì khác,
mà trước tiên mưu tính việc đình đô, xét về sự quyết đoán, sáng suốt, mưu kế anh hùng,
thực những vua tầm thường không thể theo kịp”.
Theo suy tính của Lý Thái Tổ thì kinh đô Hoa Lư chỉ có thế núi non hiểm trở thích hợp với
yêu cầu phòng ngự lợi hại. Muốn đất nước thịnh vượng phải tìm đến một nơi mới, để xây
dựng kinh đô trở thành một trung tâm chính trị, văn hoá của một quốc gia độc lập, hùng
cường, nơi đó chỉ có thể là thành Đại La.
Trong chiếu dời đô hơn 200 từ Hán Việt đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, thể thiện tầm
nghĩ, tầm nhìn vừa sâu, vừa xa, vượt thời đại của một vị vua Đại Việt thông minh gần một
nghìn năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn
vinh trường kỳ cho sơn hà xã tắc và muôn đời con cháu mai sau.
Một đoạn văn trong chiếu dời đô nói rằng: “Ở trung tâm bờ cõi đất nước được cái thế


“Rồng cuộn hổ ngồi”, vị trí ở giữa bốn phương đông, tây nam bắc, ở đó địa thế rộng mà
bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ sở vì ngập lụt, muôn vật phong
phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta - chỗ ấy là hơn cả, thật là chỗ hội hợp của bốn
phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Sử gia Ngô Sĩ Liên khen rằng: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông
nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở
hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Việt Nam không nơi nào hơn được nơi này”.
Chiếu dời đô là bản khai sinh của kinh đô Thăng Long rồi Hà Nội ngày nay. Nước nào trên
thế giới cũng có kinh đô nhưng hiếm có kinh đô nào có bản khai sinh mang dấu ấn cả ngàn
năm như kinh đô Thăng Long của Đại Việt gần ngàn năm về trước. Bây giờ đọc lại ta đều
cảm phục tài năng, trí tuệ, tầm nhìn và ý chí sáng suốt, quyết đoán của Lý Thái Tổ sáng
lập triều Lý tồn tại 215 năm trải qua 3 thế kỷ oai hùng.
Tục truyền rằng: Khi đoàn thuyền từ Hoa Lư ra đỗ dưới chân thành Đại La bỗng có rồng
vàng hiện ra ở thuyền vua ngự, rồi bay vút lên cao. Nhà vua cho là điềm lành, tin vui liền
cho đổi từ Đại La Thành thành “Thăng Long Thành”, xoá bỏ đi cái tên “Đại La” - đô hộ phủ
đau thương của ngàn năm Bắc thuộc.
Rời đô ra Thăng Long, lợi ích về giao thương kinh tế đã rõ, còn về quân sự, tuy không có
núi non hiểm trở như cựu đô Hoa Lư, nhưng vẫn rất lợi về đường giữ nước, giữ thành. Nếu
kẻ thù phương Bắc tấn công xâm lược bằng đường bộ ắt phải vượt qua nhiều sông, mỗi
sông là một phòng tuyến chặn giặc, tấn công bằng thuỷ quân, giặc phải qua hàng trăm
dặm đường sông, dân làng tả hữu dòng sông sẵn sàng đánh giặc cả khi vào lẫn khi ra.
Đại La - Thăng Long nơi trung tâm trời đất, đúng ngôi nam bắc đông tây, như vậy là ngang
tầm với đất Trung Nguyên của nước Trung Hoa láng giềng, rất xứng đáng là Kinh đô Đại
Việt.
Sau hơn 200 năm xây dựng và phát triển, kinh đô Thăng Long thời ấy đã trở thành một
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia Đại Việt, một đô thị phồn vinh, đã bảo
vệ vững chắc kinh đô, sơn hà xã tắc, đánh bại nhà Tống trên sông Như Nguyệt, chiến
thằng Chiêm Thành khi đã huy động được sức mạnh toàn dân vào trận, tạo được thế nước
ở đỉnh cao ngàn trượng đè bẹp quân thù, đập tan mộng tưởng “thôn tính Giao chỉ” như
xưa, từ tác động của bài thơ bất hủ của lão tướng Lý Thường Kiệt động viên:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư ”
Hai năm trước đó, (1075) bằng chiến lược “Tiên phát chế nhân” (tiến công để tự vệ) của
triều Lý, Quân dân Đại Việt đánh vào đất Tống tại châu Khâu, châu Liêm diệt mầm mống
xâm lược nước ta của vua tôi triều Tống.
Từ đó đến nay, trừ 143 năm triều Nguyễn di đô vào Huế, 853 năm qua, non sông đất nước
ta dù phải trải qua bao vận hội và thử thách có lúc thăng trầm, Thăng Long vẫn là kinh đô
của triều Trần nhà Hậu Lê, Lê Trung Hưng, nhà Nguyễn Tây Sơn, đang là Thủ đô của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tên gọi mới: Thủ đô Hà Nội - một thủ đô anh
hùng, 1 thủ đô hoà bình đang phát triển nhiều ưu thế nội tại để trở thành thủ đô văn minh,
hiện đại, xứng đáng với lòng mong đợi của vua Lý Thái Tổ gần ngàn năm về trước: “Nơi
kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.

Bản phiên âm Hán-Việt:
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại
chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn
chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên
trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo
Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc,
bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ
cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa
quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật
cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu
chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô ¹, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần
dời đô ², há phải các vua thời Tam Đại ³ ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để
mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời,

dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu
thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc
cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi,
trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương ⁴, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng
cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt
đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm,
muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ
tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư)

×