Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao tại Cục thuế Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.37 KB, 78 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
LỜI MỞ ĐẦU
huế đã ra đời và gắn liền với con người từ rất lâu. Lịch sử đã chứng
minh rằng, thuế là một tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời và phát
triển của nhà nước. Trong các loại thuế hiện nay thì thuế thu nhập cá
nhân đóng vai trò rất quan trọng trong việc bổ sung cho ngân sách nhà nước. Từ
đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi mà nền kinh tế nước ta chuyển từ hình
thức kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trượng có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xẫ hội chủ nghĩa thì thuế thu nhập cá nhân
cũng bắt đầu được đưa vào đời sống với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao.
T
Với nhiệm vụ quan trọng trong hệ thống các công cụ quản lý và điều tiết vĩ
mô, thuế thu nhập cá nhân ngày càng được đổi mới, hoàn thiện theo hướng tích
cực. Mỗi năm số thu từ thuế thu nhập cá nhân cho Ngân sách nhà nước ngày một
tăng lên cho thấy hiệu quả của việc áp dụng loại thuế này. Tuy nhiên, do chúng ta
mới áp dụng loại thuế này được hơn 10 năm, người dân vẫn còn chưa hết bỡ ngỡ
với loại thuế này, chính sách về thuế thu nhập cá nhân vẫn chưa được hoàn thiện
nên việc quản lý thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao vẫn còn gặp không ít
khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ cũng như còn nhiều bất cập hạn chế cần khắc
phục.
Những điều đó đòi hỏi phải có một sự nghiên cứu sâu sắc, phân tích kỹ lưỡng,
khoa học, toàn diện để đề xuất những kiến nghị, giải pháp phù hợp nhằm hoàn
thiện công tác quản lý thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở Việt Nam.
Chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao tại Cục thuế Hà Nội” do sinh viên Trần
Quang Liêm thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Th.s Phạm Hồng Vân nhằm
mục đích nghiên cứu về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, công tác quản lý
1
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
thu thuế đối với loại thuế này, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện và


một số giải pháp đối với những khó khăn đó trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu này, khách thể nghiên cứ chính của Chuyên đề
là hệ thống thuế Nhà nước, đặc biệt là Cục thuế TP Hà Nội một bộ phận quan trọng của
hệ thống, một trong 2 Cục thuế có số thu lớn nhất toàn ngành và Phòng thuế thu nhập
cá nhân là nơi quản lý chính, có nhiều kinh nghiệm, biện pháp thực hiện tốt công tác
quản lý thuế thu nhập cá nhân co thu nhập cao.
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quản lý thuế thu nhập cá nhân
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao tại cục thuế Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao trên địa bàn Hà Nội.
2
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THUẾ TNCN
1.1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm về thuế TNCN
Xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào năm 1799, thuế thu nhập cá nhân (TNCN)
được đưa vào thực hiện như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải
cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1842. Vào
thời điểm này, Chính phủ Anh ban hành một đạo luật bắt buộc những người có thu
nhập cao phải nộp một phần cho Nhà nước dưới hình thức thuế. Sau đó thuế
TNCN nhanh chóng lan rộng ra các nước tư bản phát triển trên thế giới. Năm 1887,
Nhật Bản bắt đầu áp dụng loại thuế này. Năm 1899, Đức cũng bắt đầu áp dung luật
thuế TNCN. Năm 1912, Mỹ mới chính thức áp dụng thuế TNCN, nhưng dần dần
Mỹ trở thành một trong những nước có tỷ lệ thu về thuế TNCN cao nhất thế giới
(chiếm khoảng 15% - 60% tổng các nguồn thu từ NSNN). Tiếp theo sau là các

nước như: Pháp (1916), Liên Xô (1922) Thuế TNCN của Trung Quốc được soạn
thảo từ năm 1914 nằm trong luật thuế Thu nhập nhưng do gặp nhiều trở ngại nên
đến năm 1936 mới được thi hành. Cho tới nay, thuế TNCN đã được áp dụng ở trên
100 nước, và nó ngày càng trở thành một nguồn thu quan trọng cho ngân sách của
các nước.
Ở Việt Nam trước đây, trên 90% dân số là nông dân. Hai sắc thuế chủ yếu đối
với người nông dân là thuế Ruộng và thuế Thân. Thuế Thân thực chất là thuế
TNCN đến thời nhà Trần mới ra đời. Thời nhà Trần: thuế Thân mang tính chất là
thuế TNCN được ban hành năm 1378, được áp dụng với mọi công dân là nam giới
từ 18 tuổi trở lên và còn được gọi là thuế Đinh (thuế đánh theo đầu người). Bước
đầu, thuế Thân thu 3 tiền/1 suất Đinh, tương đương 54 kg thóc. Năm 1470, nhà Lê
3
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
đã điều chỉnh thuế Thân là 8 tiền, tương đương 49 kg thóc. Năm 1664, thời Lê
Trịnh thực hiện cải cách thuế, thuế Thân được điều chỉnh là 64 kg/suất. Đến năm
1772, thuế Thân hạ xuống còn 40 kg thóc/suất.
Miền Nam Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế
TNCN nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải
cách vào năm 1972. Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp
lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income tax on high – Income
earner) và đã được ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Để cho phù hợp với tình
hình thực tế của đất nước, từ đó đến nay đã có 7 lần sửa đổi và bổ sung.
Thuế TNCN ra đời là tất yếu bởi những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN (chiếm trên 90%), vì thế việc
chi tiêu của Chính phủ về an ninh – quốc phòng, kinh tế xã hội tăng lên tất yếu
Chính phủ phải tăng các nguồn thu từ thuế để đảm bảo các nguồn thu cho ngân
sách. Mặt khác, Chính phủ các nước luôn tìm mọi cách để hạn chế những tác động
tiêu cực do phản ứng của người nộp thuế gây ra. Một trong những biên pháp đó là
mở rộng diện thu thuế, đánh thuế trên nhiều cơ sở nhưng nhất thiết phải thực hiện
các thuế suất ở mức thấp. Trong một thời gian dài, người ta chỉ lấy một cơ sở đánh

thuế là “tiêu dùng” (thuế gián thu), làm cho người chịu thuế có thể tránh những
gánh nặng về thuế bằng cách giảm bớt lượng hàng hoá tiêu dùng. Hơn nữa thuế
gián thu không đủ bù đắp nhu cầu tài chính cho Nhà nước, vì thế không có lí do gì
lại không lấy cơ sở đánh thuế là “thu nhập” (gồm thu nhập cá nhân và thu nhập
công ty). Đây chính là lí do để thuế TNCN ra đời, tuy nhiên chẳng dễ gì lấy được
đi một phần thu nhập từ túi của các cá nhân. Vì vậy, phải làm sao cho người nộp
thuế thu nhập hiểu được rằng: khi thu nhập của các cá nhân ngày một tăng lên thì
họ càng đòi hỏi nhiều hơn các hàng hoá công cộng mà nguồn tài chính của Nhà
nước thi có hạn. Do đó việc đánh thuế vào thu nhập của các cá nhân để tạo lập
thêm quỹ cho Chính phủ là một thực tế hoàn toàn logic.
4
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
Thứ hai: Thuế TNCN có chức năng điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã
hội, đây là lí do chủ yếu để thuế thu nhập cá nhân tồn tại được trong thời gian qua.
Việc thiết lập được công bằng trong xã hội sẽ làm cho các cá nhân phấn chấn hơn,
họ không cảm thấy thiệt thòi và hăng hái lao động hơn làm cho xã hội ngày càng
phát triển. Với phương pháp tính thuế luỹ tiến từng phần (mức động viên càng lớn
đối với thu nhập chịu thuế càng cao), người có thu nhập cao hơn sẽ phải nộp thuế
nhiều hơn. Đến thời điểm hiện nay, nếu không sử dụng thuế TNCN thì chưa có
biện pháp hữu hiệu hơn để có thể hạn chế được sự phân hoá giàu nghèo.
Từ những nguyên nhân trên, ta có thể đưa ra một khái niệm về thuế TNCN
như sau:
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực
nhận được của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần, không
phân biệt nguồn phát sinh thu nhập
1.1.2. Đặc điểm của thuế TNCN
Là một chính sách trong hệ thống thuế, thuế TNCN mang đầy đủ các tính chất
cơ bản của thuế nói chung. Đó là: tính quyền lực, tính cưỡng chế và tính pháp lý
cao; được xác lập trên nền tảng các vấn đề kinh tế – xã hội của người làm nghĩa vụ
đóng thuế và tính không hoàn trả trực tiếp. Ngoài những điểm chung đó, thuế

TNCN còn có những đặc điểm riêng sau:
1.1.2.1. Thuế TNCN là loại thuế trực thu:
Thuế trực thu là loại thuế mà người nộp thuế và người chịu thuế là đồng nhất
với nhau. Người chịu thuế không thể chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác
được. Người chịu thuế TNCN phải bỏ một khoản tiền từ “túi” của mình ra để nộp
cho Nhà nước, họ không thể chuyển trách nhiệm phải trả khoản tiền này cho người
khác được.
1.1.2.2. Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng
5
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
Đối tượng chịu thuế này là tất cả các cá nhân có thu nhập (bao gồm công dân
nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường
xuyên tại nước đó) và hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá nhân đều phải
chịu thuế, không kể nguồn thu nhập phát sinh trong nước hay nước ngoài. Bất cứ ai
có thu nhập, từ bất kỳ nguồn nào, làm nghề gì, có tham gia hoạt động kinh doanh
hay không, nếu phát sinh thu nhập trong diện tính thuế thì đều phải nộp thuế theo
quy định của pháp luật. Do vậy khả năng tạo nguồn thu cho Ngân sách của thuế
TNCN là rất lớn, nhất là ở những nước có nền kinh tế phát triển
1.1.2.3. Thuế TNCN là loại thuế gắn liền với chính sách xã hội của
mỗi quốc gia:
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế đặc biệt có lưu ý đến hoàn cảnh cá nhân:
Khác với các loại thuế khác, khi xác định các khoản chi phí được trừ đi trước khi
tính thuế thu nhập phải nộp, người ta có xét đến hoàn cảnh cụ thể của từng cá
nhân, chẳng hạn như người đó sống độc thân hay phải nuôi thêm người ăn theo, chi
phí về y tế, giáo dục nhiều hay ít…Mặc dù cũng có những ý kiến đưa ra để hoàn
thiện chính sách thuế TNCN thì phải xây dựng chính sách thuế có tính trung lập,
đó là những người có cùng thu nhập thì phải nộp thuế như nhau, nhưng hầu như
chưa có quốc gia nào tách biệt hẳn chính sách thuế TNCN và chính sách xã hội.
1.1.2.4. Thuế TNCN thường được đánh theo kiểu luỹ tiến từng phần
Xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN đó là: điều tiết thu nhập, tạo công

bằng trong xã hội. Theo cách đánh thuế luỹ tiến từng phần thì, thuế TNCN sẽ điều
tiết mạnh vào người có thu nhập cao, và động viên sự đóng góp của người có thu
nhập thấp hoặc trung bình.
1.1.2.5. Xét về góc độ kỹ thuật, thuế TNCN là loại thuế phức tạp
Vì có nhiều nguồn phát sinh thu nhập, rất khó xác định được đầy đủ toàn bộ
thu nhập của mỗi cá nhân, cá nhân có thể giấu thu nhập thực tế nhất là trong điều
6
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
kiện kinh tế – xã hội chưa phát triển, lượng tiền mặt trong lưu thông lớn, cơ quan
thuế không kiểm soát được thu nhập của từng người. Khi tính toán phải tính đến
hoàn cảnh của cá nhân và chính sách xã hội.
1.1.2.6. Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN không ảnh hưởng nhiều
đến cơ cấu kinh tế
Việc tăng, giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những biến đổi về cơ
cấu kinh tế do tính trung lập của loại thuế này.
1.1.3. Vai trò thuế thu nhập cá nhân
1.1.3.1. Vai trò của thuế TNCN đối với nền kinh tế xã hội
a. Tạo lập nguồn tài chính cho Ngân sách nhà nước
Sự giảm dần các loại thuế xuất nhập khẩu do yêu cầu tự do hoá thương mại
nên thuế thu nhập cá nhập ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng cho Ngân
sách nhà nước. Sở dĩ như vậy là do thuế TNCN có diện đánh thuế rộng. Bên cạnh
đó thuế TNCN đánh trực tiếp vào thu nhập của dân cư, mà người dân ở bất kì quốc
gia nào cũng mong muốn có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần nên nguồn thu từ thuế TNCN cũng tăng lên. Hiện nay, thuế TNCN
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách của các nước phát triển.
Tại Mỹ, thuế TNCN chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu thuế thu nhập của ngân
sách liên bang (khoảng 40%), ở các nước OECD khác thuế TNCN chiếm khoảng
11.7% GDP và khoảng 30% số thu từ phí, lệ phí của mỗi nước. Đặc biệt, ở các
nước vùng Scandinaves, số thu từ thuế TNCN chiếm khoảng 50% tổng số thu từ
thuế, phí và khoảng 20% GDP của mỗi quốc gia.

Tại Việt Nam, tuy thuế TNCN chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số thu
bằng thuế, nhưng với những kết quả đạt được trong 15 năm qua, số thu từ thuế
TNCN tăng lên rõ rệt đã cho thấy nguồn thu dồi dào từ sắc thuế này: năm 1991: 62
7
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
tỷ, năm 1992: 153 tỷ, năm 1993: 184 tỷ, năm 1998: 1550 tỷ, năm 1999: 1800 tỷ,
năm 2000: 1832 tỷ, năm 2001: 2103 tỷ, năm 2002: 2215 tỷ, năm 2003: 2938 tỷ
Tuy nhiên, diện nộp thuế thu nhập cao của chúng ta vẫn còn rất hạn chế. Theo
đinh hướng cải cách của ngành thuế đến năm 2010 thì số lượng người tham gia
nộp thuế TNCN sẽ tăng lên hàng triệu, do đó nguồn thu từ sắc thuế này trong
tương lai chắc chắn sẽ còn tăng lên nhiều.
b. Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
“Là một bộ phận của hệ thống thuế, thuế TNCN cũng có tác dụng điều tiết vĩ
mô đối với nền kinh tế. Thuế TNCN điều tiết trực tiếp thu nhập nên một mặt tác
động trực tiếp đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh toán của các cá
nhân bị giảm, làm cho cầu hàng hoá, dịch vụ giảm và sẽ tác động đến sản xuất. Đối
với nước ta, trong tương lai, khi mag diện đánh thuế được mở rộng, vai trò điều tiết
thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm của thuế TNCN sẽ được phát huy có hiệu quả
hơn"
1
c. Góp phần thực hiện công bằng xã hội
So với các loại thuế khác thì thuế TNCN thể hiện rõ vai trò là một sắc thuế
mang lại tính công bằng cho xã hội hơn cả. Thuế TNCN điều tiết trực tiếp lên thu
nhập của đối tượng chịu thuế cho nên nó đáp ứng được công bằng dọc, mặt khác
những người có thu nhập như nhau sẽ nộp số thuế bằng nhau do đó nó đáp ứng
được công bằng ngang. Nhà nước sử dụng những đồng tiền thuế thu được để đầu
tư cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi không chỉ ở thành thị, miền xuôi mà còn ở
các vùng nông thôn, miền núi, những nơi xa xôi hẻo lánh và việc trợ cấp người
nghèo, người gặp hoàn cảnh khó khăn
d. Quản lý thu nhập ngầm và góp phần phòng chống tội phạm

Xã hội ngày càng phát triển thì thu nhập của người dân có được ngày càng
lớn, việc quản lý các nguồn thu nhập này là rất quan trọng. Những nguồn thu nhập
1
TS. Nguyễn Thị Bất (Chủ biên), 2002, Giáo trình Quản Lý Thuế , NXB Thống kê
8
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
từ thế giới ngầm (như: tham ô, nhận hối lộ, buôn bán, vận chuyển hàng quốc cấm,
trốn lậu thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước) là rất nguy hiểm, nó là một
hiểm hoạ, góp phần gia tăng tỷ lệ tội phạm trong xã hội hiện nay. Thuế thu nhập cá
nhân là một biện pháp giúp cho nhà nước phát hiện kịp thời những nguồn thu nhập
bất chính và có biện pháp để ngăn chặn.
1.1.3.2. Vai trò của thuế TNCN trong hệ thống thuế
Thứ nhất: Đánh thuế TNCN theo phương pháp luỹ tiến từng phần khắc phục
được một phần tính luỹ thoái. Các sắc thuế như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt có nhược điểm là tính luỹ thoái, có nghĩa là đánh vào người nghèo nhiều
hơn người giàu khi cùng tiêu thụ một lượng hàng hoá, dịch vụ như nhau, các sắc
thuế này không thể phân biệt người giàu và người nghèo để áp dụng mức thuế hợp
lí. Mức chênh lệch về thu nhập giữa người giàu và người nghèo càng lớn thì tính
luỹ thoái càng lớn. Như đã nói ở phần trên thì cách đánh thuế luỹ tiến từng phần
của thuế TNCN giải quyết được vấn đề này, người càng giàu thì số thuế thu nhập
phải nộp, còn người nghèo sẽ nộp ít hơn
Thứ hai: Góp phần hạn chế sự thất thu thuế Thu nhập doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế
TNCN, và hai loại thuế này tồn tại luôn gắn liền với nhau. Khi mà số thuế thu nhập
doanh nghiệp giảm xuống do trả các khoản lương và thưởng cho nhân viên, thì
thuế TNCN sẽ tăng lên do thu nhập của nhân viên tăng lên. Thuế thu nhập góp
phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa
doanh nghiệp và người lao động. Có một cách đơn giản để các doanh nghiệp giảm
các khoản thuế phải nộp cho nhà nước đó là: họ kê khai cao hơn thực tế phải chi
trả cho các cá nhân trong doanh nghiệp vì các khoản chi này được tính vào chi phí

sản xuất, kinh doanh nên đương nhiên số thu nhập chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp sẽ giảm xuống, do đó số thuế thu nhập doanh nghiệp cũng giảm xuống.
9
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
Nhưng những khoản nhận thêm của các cá nhân lại phải chịu thuế TNCN cho nên
việc trốn được thuế thu nhập doanh nghiệp thì lại vướng vào thuế TNCN.
Qua những phân tích ở trên, ta có thể thấy tầm ảnh hưởng rất lớn của thuế
TNCN. Nhưng do luật thuê TNCN còn nhiều kẽ hở, trình độ quản lý còn thấp nên
những vai trò này chưa thực sự phát huy hiệu quả ở các nước chậm phát triển trong
đó có nước ta.
1.1.4. Nội dung của thuế TNCN
1.1.4.1. Đối tượng nộp thuế
Xác định đối tượng nộp thuế là một trong những nội dung quan trọng của thuế
TNCN, từ đó mới có thể vận dụng những cách tính thuế cho phù hợp. Người ta
thường dựa vào 2 tiêu thức để xác định đối tượng nộp thuế là: “nơi cư trú” và
“nguồn gốc phát sinh thu nhập”.
Theo tiêu thức “nơi cư trú” thì những cá nhân được xác đinh là cư trú ở một
nước nào thì tất cả các khoản thu nhập của cá nhân đó không kể trong nước hay
ngoài nước đều phải chịu thuế TNCN. Còn những cá nhân được coi là không cư trú
ở một nước thì chỉ phải nộp thuế TNCN đối với những khoản thu nhập phát sinh ở
nước đó.
Theo tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập”: Mọi khoản thu nhập phát sinh tại
một nước của một cá nhân đều phải nộp thuế TNCN tại nước đó.
Hiện nay đa số các nước trên thế giới đánh thuế TNCN theo tiêu thức “nơi cư
trú”. Khái niệm cá nhân cư trú ở các nước thường khác nhau nhưng thường ở hầu
hết các nước, một cá nhân được gọi là cư trú tại một nước nếu có thời gian ở nước
đó trên 182 hay 183 ngày (6 tháng) trong một năm hoặc trên một năm. Còn một
người được gọi là không cư trú là người ở dưới mức thời gian quy định của người
cư trú nghĩa là dưới 182 hoặc 183 ngày trong một năm hoặc dưới một năm. Khái
niệm cư trú có ý nghĩa để phân biệt người đó có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập trên số

10
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
thu nhập nhận được như thế nào. Người cư trú phải kê khai mọi thu nhập ở trong
nước và ở nước ngoài. Người không cư trú chỉ có nghĩa vụ thuế đối với thu nhập
phát sinh tại nước trả thu nhập. Khái niệm này đòi hỏi các nước cần phải có quy
định cụ thể cho cả người trong nước và người nước ngoài. Chỉ có trên cơ sở đó thì
việc thực hiện tính thuế thu nhập cá nhân mới mang tính chất quốc tế. Như vậy,
nếu Việt Nam quy định người cư trú là người có thời gian ở Việt Nam trên 6
tháng/năm thì người nước ngoài vào Việt Nam làm việc trên 6 tháng sẽ được coi là
người cư trú tại Việt Nam. Ngược lại, người Việt Nam ở nước ngoài trên 6 tháng
sẽ là người cư trú ở nước ngoài, lúc đó người Việt Nam tuy mang quốc tịch Việt
Nam nhưng là người cư trú nước ngoài và họ phải nộp thuế ở nước ngoài và phải
kê khai với cơ quan thuế ở nước ngoài về các thu nhập trong đó có cả thu nhập ở
Việt Nam. Đây cũng chính là vấn đề đòi hỏi các nước phải ký kết hiệp định tránh
tính thuế trùng để xử lý vấn đề thuế thu nhập của cá nhân khi họ có nguồn thu
nhập từ nhiều quốc gia. Tuy nhiên một số nước đưa ra khái niệm “nơi cư trú” cụ
thể hơn và có điểm khác với khái niệm trên. Pháp và Nhật là những ví dụ cụ thể.
Theo luât của Pháp, một người quốc tịch Pháp hoặc quốc tịch nước ngoài
được coi là cư trú tại Pháp nhằm mục đích đánh thuế nếu như nơi ở chính, nơi
hành nghề chính được đặt tại Pháp hoặc họ thường xuyên có mặt tại Pháp quá 6
tháng trong vòng một năm. Nếu một người không được coi là cư trú tại Pháp
nhưng có thu nhập phát sinh trên lãnh thổ của Pháp thì chỉ bị điều tiết phần thu
nhập phát sinh ở Pháp. Còn Nhật Bản lại đưa ra 3 khái niệm về “cá nhân cư trú” đó
là : cá nhân cư trú thường xuyên, cá nhân cư trú không thường xuyên và cá nhân
không cư trú:
Cá nhân cư trú thường xuyên là cá nhân định cư tại Nhật Bản hoặc cá nhân
thường trú tại Nhật Bản hơn 5 năm. Các cá nhân này bị đánh thuế trên thu nhập từ
mọi nguồn
11
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm

Cá nhân cư trú không thường xuyên tại Nhật Bản thường trú tại Nhật từ 1 đến
5 năm nhưng không có ý định thường trú tại Nhật. Các cá nhân này bị đánh thuế
trên thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài nhưng được trả tại Nhật Bản
Cá nhân không cư trú là cá nhân có thời gian thường trú tại Nhật Bản dưới 1
năm. Các cá nhân này chỉ phải nộp thuế với các thu nhập phát sinh tại Nhật Bản.
Luật thuế TNCN ở Mỹ lại quy đinh “cá nhân cư trú” là những người thuộc
công dân Mỹ hoặc sinh sống tại Mỹ tối thiểu là 330 ngày
Sự phân biệt “cá nhân cư trú” hay “cá nhân không cư trú” là rất quan trọng, vì
nó quyết định đến số thuế phải nộp của một cá nhân.
Việc xác định đối tượng nộp thuế căn cứ vào tiêu thức “nguồn phát sinh thu
nhập” được áp dụng để điều tiết các khoản thu nhập của các cá nhân không cư trú
nhưng có thu nhập tại một nước. Có rất ít nước áp dụng kiểu đánh thuế này, Hồng
Kông là một ví dụ: các cá nhân không phân biệt “cư trú” hay “không cư trú” đều
phải nộp thuế thu nhập đối với những khoản thu nhập phát sinh tại Hồng Kông.
Cách đánh thuế này chỉ phù hợp với những nước có số lượng lao động nước ngoài
làm việc tại nước mình lớn còn lao động trong nước ít đi làm hay đầu tư ở nước
ngoài.
1.1.4.2. Thu nhập chịu thuế
Thu nhập tính thuế ở các nước thường phân chia thành 2 dạng: thu nhập
thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Thu nhập thường xuyên là thu
nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền thưởng có tính đều đặn và được nhận
thường kỳ. Thu nhập không thường xuyên là thu nhập từ đầu tư như cổ phiếu, lãi
từ chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng xổ số… các khoản thu nhập này
không có tính đều đặn, thường xuyên, liên tục…
Tương ứng với từng cách phân loại khác nhau sẽ có 2 loại thuế suất khác
nhau. Đối với thu nhập thường xuyên hoặc thu nhập của người cư trú, áp dụng biểu
12
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
thuế luỹ tiến từng phần. Thu nhập không thường xuyên hoặc thu nhập của người
không cư trú áp dụng một thuế suất.

Nhìn chung, giữa các nước không có một quy định hoàn toàn thống nhất về
thu nhập tính thuế, tuy nhiên có thể tập hợp thành một số loại thu nhập thường phải
chịu thuế như sau:
- Thu nhập bằng tiền: thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ tài sản,
vốn…
- Thu nhập bằng hiện vật
- Thu nhập từ các khoản trả thay lương: trợ cấp ốm đau, lương hưu, trợ cấp
nghỉ việc do tai nạn lao động
- Thu nhập từ sự tăng giá trị: sự tăng lên của giá trị các bộ phận cấu thành tài
sản
- Thu nhập từ thừa kế và quà tặng
Lý do không có sự thống nhất giữa các quốc gia chính vì việc xác định loại
thu nhập phải chịu thuế và mức độ chịu thuế thu nhập cá nhân tuỳ thuộc vào tình
hình phát triển kinh tế và quan điểm của mỗi nước.
Dựa vào tiêu thức nguồn tạo ra thu nhập, thu nhập được chia thành các loại:
Thu nhập từ lao động và sản xuất kinh doanh, thu nhập từ đầu tư, thu nhập khác.
- Thu nhập từ lao động và sản xuất kinh doanh là các khoản thu nhập được
trả bằng tiền hoặc các khoản hiện vật có thể được chuyển bằng tiền như ăn giữa ca,
bảo hiểm y tế, trợ cấp thuốc men và viện phí, thanh toán điện thoại, nơi đỗ xe…
Mỗi nước có chế độ thuế đối với các khoản thu nhập được gọi là hiện vật khác
nhau, có nước tính thuế, có nước không. Ví dụ đối với khoản ăn trưa, giữa ca: ở
Mỹ, Anh, Canađa không tính thuế còn úc, Đan Mạch, Pháp, Hà Lan… thì có tính
thuế.
- Thu nhập từ đầu tư: là các khoản thu nhập từ cổ tức, lãi cho vay, phần vốn
góp kinh doanh mà các cá nhân nhận được từ lợi tức đem chia của các công ty
13
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
thường tính thuế thu nhập công ty. Do đó nếu tính thuế thu nhập cá nhân thì có
nghĩa là khoản thu nhập đó bị tính thuế hai lần. Để tránh việc đánh trùng này, mỗi
nước có giải pháp khác nhau

- Thu nhập khác: là các khoản thu nhập từ việc chuyển nhượng tài sản, từ quà
biếu, quà tặng, tiền nhuận bút, trúng thưởng sổ xố.
Không phải nước nào cũng đưa tất cả các nguồn thu nhập ở trên vào diện thu
nhập chịu thuế. Việc quy định khoản nào chịu thuế, khoản nào không chịu thuế và
mức thuế suất bao nhiêu dựa vào quan điểm của mỗi nước và mục tiêu điều tiết
kinh tế, chính trị, xã hội trong điều kiện cu thể của mỗi quốc gia. Ví dụ như ở nước
ta hiện nay chưa thu thuế TNCN đối với những khoản thu nhập từ lãi của tiền gửi
tiết kiệm, nhưng ở các nước như Pháp, Áo, Đức, Hy Lạp, Na Uy thì các khoản thu
nhập này cũng phải chịu thuế TNCN.
1.1.4.3. Những nguyên tắc khấu trừ để xác định thu nhập chịu thuế
Một trong những nguyên tắc cơ bản khi đánh thuế thu nhập cá nhân là thu
nhập chịu thuế phải là thu nhập do người đóng thuế toàn quyền sử dụng. Điều đó
có nghĩa là thu nhập chịu thuế là thu nhập đã khấu trừ đi các chi phí cần thiết để
tạo ra thu nhập với một số giới hạn nhất định. Mỗi quốc gia đều có những nguyên
tắc khấu trừ thuế cho phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia
mình. Tuy nhiên, về cơ bản có một số nguyên tắc khấu trừ chung: tất cả các chi phí
trực tiếp liên quan đến việc tạo ra thu nhập cho cá nhân, một số khoản mang tính
chất xã hội. Sau đó mới tính ra được thu nhập chịu thuế.
a. Các khoản khấu trừ có tính chất kinh tế để xác đinh thu nhập thuần tuý
- Đối với thu nhập từ các hoạt động thương mại, công nghiệp, khai thác, nông
lâm nghiệp, dịch vụ của các hộ kinh doanh cá thể không thuộc diện chịu thuế thu
nhập công ty.
Nguyên tắc khấu trừ là tất cả các chi phí cần thiết và liên quan trực tiếp tới
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tạo ra thu nhập mà người nộp thuế đã
14
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
thực hiện bao gồm: lương công nhân, chi phí thuế mướn, tiền trợ cấp, chi phí mua
vật tư nguyên liệu, chi phí bảo hiểm, các chi phí về dịch vụ được cung cấp từ bên
ngoài, khấu hao các máy móc, thiết bị, nhà xưởng, vật kiến trúc và một vài chi phí
phân bổ chung

Cần phải lưu ý đó là: chỉ những chi phí cần thiết liên quan trực tiếp đến quá
trình tạo ra thu nhập mới được khấu trừ. Ví dụ như các khoản chi tiêu cho cá nhân:
chi phí đi lại hàng ngày, chi phí du lich không được coi là chi phí được khấu trừ
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công, tiền hưu trí, trợ cấp xã hội và các khoản
tương tự
Đối với những khoản này thì được phép trừ đi một phần, gọi là chi phí nghề
nghiệp: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Các khoản này được khấu trừ theo một tỷ
lệ nhất định (khoảng 10% hoặc 15%). Một số nghề đặc biệt do tính chất nghề
nghiệp sẽ được khấu trừ một mức phù hợp, cao hơn bình thường trước khi tập hợp
vào tổng thu nhập chịu thuế như: Ca sĩ, nghệ sĩ, nhạc công, nhà báo
- Thu nhập từ lãi cổ phần, lãi cho vay, lãi tiền gửi và các khoản tương tự
Thu nhập chịu thuế là số lãi thu được trừ đi chi phí, thường là chi phí mua
những chứng khoán có giá
- Thu nhập từ thừa kế
Là số chênh lệch dương của tài sản thừa kế và các khoản nợ của người quá cố,
ngoài ra còn được trừ thêm một khoản không phải chịu thuế tuỳ thuộc vào mối
quan hệ giữa người quá cố và người thừa kế.
b. Các khoản chi tiêu mang tính chất xã hội, khoa học và những thu nhập
mang tính chất trợ cấp xã hội, giúp cho người có hoàn cảnh khó khăn, người già,
tàn tật
Các khoản này cũng được trừ khỏi thu nhập thuần tuý, đây là đặc điểm quan
trọng của thuế TNCN vì có tính đến sinh hoạt và khả năng của đối tượng nộp thuế.
Những chi phí đặc biệt như:
15
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
• Chi phí có tính chất tiêu dùng như bảo hiểm y tế
• Các khoản đóng góp như: tiền nuôi bố mẹ, đóng bảo hiểm xã hội
• Các khoản tiết kiệm cho lúc tuổi già, ủng hộ khoa học, nhân đạo
Các khoản có tính chất lương bổng: trợ cấp ốm đau, lương hưu, trợ cấp về tai
nạn lao động, trợ cấp thất nghiệp

Những chi phí bắt buộc bao gồm: thuốc men chữa bệnh, khắc phục thiên tai
địch họa, chi phí của người tàn tật Mặc dù đây là những khoản chi phí thể hiện
dưới dạng thu nhập nhưng để đảm bảo sự công bằng với những người không phải
chi những khoản này nên được miễn thuế thu nhập
Các khoản chi phí nuôi con, mang tính chất gánh nặng gia đình đối với những
gia đình đông con và thu nhập không đáp ứng được điều kiện sống tối thiểu.
1.1.4.4. Các phương pháp đánh thuế TNCN
Căn cứ để xác định thuế thu nhập cá nhân phải nộp là thu nhập chịu thuế và
thuế suất. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân có thể quy định bằng một tỷ lệ phần
trăm nhất định hoặc được xác định theo thuế suất luỹ tiến từng phần hay thuế suất
luỹ thoái tuỳ theo từng quan điểm về mục đích sử dụng thuế thu nhập cá nhân của
mỗi quốc gia. Do đó, phù hợp với mỗi đặc trưng của thuế suất, thuế thu nhập cá
nhân lại có một phương pháp tính riêng, bao gồm: Phương pháp đánh thuế theo tỷ
lệ; Phương pháp đánh thuế luỹ tiến từng phần; Phương pháp đánh thuế luỹ tiến
toàn phần; Phương pháp đánh thuế với thuế suất luỹ thoái.
Thuế thu nhập cá nhân, đối với thu nhập từ lao động (tiền lương, tiền công)
hầu hết các nước áp dụng hệ thống đa thuế suất, với cơ chế thuế suất luỹ tiến từng
phần. Hiện nay, trong việc tính thuế thu nhập cá nhân thường có hai dạng dạng quy
định:
Dạng 1: Nộp ngay từ đồng thu nhập đầu tiên. Ví dụ như: Hàn Quốc: thu nhập
đến 4.000 Won Hàn Quốc/năm, thuế suất 5%; Singapore: thu nhập đến 7.500 đôla
16
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
Singapore/năm, thuế suất 2%; Nhật Bản: thu nhập đến 3.000.000 Yên/năm, thuế
suất 10%.
Dạng 2: áp dụng mức khởi điểm chịu thuế. Ví dụ như: Philipin: mức khởi điểm là
2.500 Pêsô Philipin/năm. Việt Nam cũng áp dụng việc tính thuế thu nhập cá nhân theo
mức khởi điểm chịu thuế, với mức khởi điểm là 3 triệu đồng/tháng đối với người Việt
Nam và 8 triệu đồng/tháng đối với người nước ngoài.
1.1.4.5. Tờ khai của người nộp thuế

Tất cả các đối tượng nộp thuế đều bắt buộc phải làm một tờ khai thuế sau khi
kết thúc năm thuế. Điều này nhằm làm cho người nộp thuế nhận thức được hết
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong việc nộp thuế, đồng thời về mặt pháp lý,
đây là căn cứ pháp lý để xác nhận một khoản nợ phải trả của người nộp thuế cho
Nhà nước.
1.2. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THUẾ TNCN
1.2.1. Hình thức quản lý thuế TNCN:
Thuế TNCN có thể được kê khai và nộp thuế theo một trong hai phương pháp
là kê khai và nộp trực tiếp tại cơ quan thuế hay kê khai và nộp qua cơ quan chi trả
thu nhập. Tương ứng với hai phương pháp này cơ quan thuế có hai hình thức tổ
chức quản lý: quản lý thu thuế thông qua sổ bộ thuế hay quản lý trực tiếp đối tượng
nộp thuế và hình thức thứ hai là quản lý thu thuế TNCN thông qua cơ quan chi trả
thu nhập.
1.2.1.1. Hình thức quản lý thu thuế thông qua sổ bộ thuế:
Theo hình thức này cơ quan thuế tiến hành lập sổ bộ thuế trên cơ sở các tờ
khai thuế của các đối tượng nộp thuế. Sổ bộ thuế là một danh sách những người
nộp thuế, trong đó ghi rõ tên, địa chỉ, mã số thuế và số thuế phải nộp của họ, cơ
quan thuế gửi thông báo cho người nộp thuế và người nộp thuế thực hiện nộp thuế
vào Ngân sách Nhà nước.
17
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
1.2.1.2. Hình thức khấu trừ tại nguồn
Theo hình thức này, cơ quan thuế yêu cầu cơ quan chi trả thu nhập giữ lại phần
thuế thu nhập phải nộp của đối tượng nộp thuế trước khi chi trả thu nhập cho họ, sau đó
nộp số thuế đó vào Ngân sách nhà nước.
Hình thức khấu trừ tại nguồn chỉ thích hợp trong điều kiện: ý thức của người nộp
thuế chưa cao và phần lớn đối tượng nộp thuế là người làm công ăn lương.
Vì mỗi hình thức quản lý thu nêu trên đều có những ưu, nhược điểm nhất định nên
có rất ít quốc gia sử dụng thuần tuý một hình thức mà thương kết hợp cả hai hình thức
trên.

1.2.2. Nội dung hoạt động quản lý thuế TNCN
Theo quy định của Nhà nước, đối tượng nộp thuế phải đăng kí mã số thuế với cơ
quan thuế. Các cá nhân nộp qua cơ quan chi trả thì do cơ quan chi trả chịu trách nhiệm
đăng kí mã số thuế, cán bộ thuế chỉ liên hệ với đại diện cơ quan chi trả để nắm thông tin
về đối tượng nộp thuế
1.2.2.1. Xác định thu nhập chịu thuế
Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi quốc gia đặt ra mức khởi điểm tính
thuế cũng như các mức thu nhập khác, các quốc gia phải căn cứ vào một số yếu tố nhất
định:
- Thu nhập bình quân đầu người một năm: Nếu thu nhập bình quân đầu người một
năm cao chứng tỏ đời sống của người dân tốt và ngược lại. Điều đó cũng thể hiện khả
năng huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước tới mức nào. Tại những nước phát
triển, do thu nhập của người dân cao nên mức đóng góp từ thuế TNCN lớn. Còn ở
những nước đang phát triển, đời sống dân cư còn nghèo nàn, lạc hậu, mức thu nhập
thấp. Đây là căn cứ để Nhà nước xác định mức thu nhập tính thuế hợp lí, đảm bảo cho
người dân cuộc sống ổn định
18
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
- Các chi phí cần thiết tối thiểu để đảm bảo cuộc sống cho người dân: Mỗi người
đều có một mức thu nhập nhất định, họ sử dụng để trang trải những khoản chi tiêu cần
thiết trong cuộc sống (ăn uống, sinh hoạt, y tế, vui chơi ). Vì vậy khi Nhà nước đặt ra
mức thu nhập tính thuế cũng cần phải xem xét kỹ những chi phí này.
Mức thu nhập đảm bảo cuộc sống phổ biến của người dân: Trong xã hội có nhiều
mức thu nhập khác nhau. Tuy nhiên, có những mức thu nhập là phổ biến bởi số lượng
người có cung mức thu nhập lớn, chiếm đa số. Nhà nước phải đặt mức thu nhập tính
thuế sao cho bao bọc được toàn bộ số thu nhập này. Nguồn thu cho Ngân sách sẽ lớn và
ổn định nếu làm được điều này, tất nhiên cũng phải tính toán sao cho người dân vẫn
đảm bảo được cuộc sống.
Trên cơ sở những căn cứ xác định thu nhập tính thuế như trên, các quốc gia sẽ tuỳ
theo điều kiện quốc gia mình để xây dựng chính sách thuế cho phù hợp. Bên cạnh đó

còn phải xem xét các vấn đề sau:
Nguồn gốc của thu nhập: Mỗi loại thu nhập phát sinh từ các nguồn khác nhau,
phải xác định nguồn gốc thu nhập có vai trò quan trọng trong việc xây dựng căn cứ tính
thuế. Ví dụ: thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp có tính đều đặn,
thường kì được tính khác với thu nhập có nguồn gốc từ quà biếu, quà tặng.
Địa điểm phát sinh thu nhập và thời hạn cư trú hay không cư trú của chủ sở hữu
thu nhập: Thu nhập của chủ sở hữu thu nhập được coi là cư trú tại một nước thì
phải nộp thuế tại nước đó và tính trên mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp nơi
trên thế giới. Thu nhập của chủ sở hữu thu nhập được coi là không cư trú chỉ bị
tính thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nước đó.
Tính thường xuyên hay không thường xuyên của thu nhập: Thu nhập tính
thuế ở các nước thường được chia làm 2 dạng: thu nhập thường xuyên và thu nhập
không thường xuyên. Thu nhập thường xuyên là các khoản thu nhập có tính đều
đặn, thường kỳ. Thu nhập không thường xuyên là thu nhập từ đầu tư như: cổ phiếu,
19
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
lãi chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng sổ xố các khoản này không mang
tính đều đặn.
1.2.2.2. Xác định thuế suất
Thuế suất được coi là linh hồn của mỗi chính sách thuế, nó quyết định đến sự
thành công hay thất bại của mỗi chính sách thuế. Hầu hết các nước đều sử dụng nguyên
tắc đánh thuế luỹ tiến từng phần đối với thuế TNCN. Cơ sở của nguyên tắc này là cân
bằng theo chiều dọc: thu nhập càng lớn thì thuế suất càng cao
• Việc xây dựng các mức thuế suất hợp lý là rất quan trọng trong quá trình xây
dựng và thực hiện Luật thuế TNCN. Chúng ta có thể sử dung mô hình đường cong
Laffer để giải thích mức huy động nguồn thu từ thuế TNCN cho Ngân sách nhà nước:
Hình 1.1: Đường cong Laffer
Mô hình đường cong Laffer thể hiện mối quan hệ giữa thuế suất và tổng thu
về thuế. Nếu mức thuế suất 0% thì thu về thuế bằng 0, ngược lại, nếu mức thuế
suất 100% thì thu về thuế cũng bằng 0 vì mức này không được ai chấp nhận. Thuế

cao làm mọi người không còn nhiệt tình sản xuất kinh doanh, ít làm việc hơn hoặc
chuyển sang hoạt động kinh tế một cách không công khai dẫn đến trốn lậu thuế sẽ
tăng. Việc nghiên cứu để nâng dần thuế suất từ 0% lên một giới hạn t* sẽ đưa đến
20
0
Thuế
suất (%)
t*
%
T*
Tổng
thu về
thuế
100
%
A
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
kết quả tăng về thuế suất tỷ lệ thuận với tăng số thu, nhưng quá giới hạn t* thì quan
hệ giữa chúng lại là tỷ lệ nghịch. Vì vậy, sự phân tích này đã cho chúng ta một kết
luận quan trọng là không phải cứ tăng thuế suất là sẽ tăng thu từ thuế mà thuế suất
cần phải được xây dựng ở một mức đủ để kích thích năng suất và hiệu quả kinh tế
và vẫn đảm bảo khả năng thu Ngân sách (tổng số thu thuế không giảm đi mà còn
tăng lên do thuế suất hợp lý đã tạo ra động lực kinh doanh, kích thích đầu tư, từ đó
làm tăng sản lượng và thu nhập quốc dân).
Quan điểm sử dụng đường cong Laffer thiên về việc xác định mức thuế suất
tối đa có thể, nhưng hiện nay cũng khá phổ biến một quan điểm thiên về tính khả
thi và tính hiệu quả của một chính sách thuế thu nhập cá nhân. Theo quan điểm
này, các nhà hoạch định chính sách thuế nên sử dụng biện pháp hạ thuế suất kết
hợp với mở rộng diện thu thuế (mức thuế suất thấp thường được quần chúng dễ
chấp nhận và ủng hộ hơn là mức thuế cao). Tuy nhiên nếu áp dụng theo quan điểm

nay cũng có những bất lợi nhất định như phức tạp trong công tác quản lý thu, có
quá nhiều đối tượng nộp thuế…
• Mức điều tiết thu nhập đối với người dân cũng là mục tiêu của các quốc
gia khi ban hành chính sách thuế TNCN. Việc làm này giúp giảm bớt khoảng cách
chênh lệch giàu nghèo. Nhà nước xây biểu thuế suất gồm nhiều bậc và chia nhỏ
khoảng cách giữa các mức thu nhập tính thuế. Còn nếu mức điều tiết thu nhập cao
thì biểu thuế suất sẽ có ít bậc hơn và khoảng cách được mở rộng hơn:
Ví dụ 1: Tỷ lệ điều tiết của ít mức thuế suất cao hơn nhiều mức thuế suất
Một người có thu nhập là 1000 USD và phải chịu thuế thu nhập cá nhân tại
nước X, thì sẽ xảy ra 2 trường hợp là:
TH
1
: Nước X chỉ áp dụng 3 mức thuế suất là 0%; 10%; 15% đối với thu nhập của
ngưòi này
Đơn vị:USD
Mức thu nhập tính thuế T/suất Thuế TNCN phải nộp
21
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
Đến 500 0% 0
Trên 500 đến 750 10% 25
Trên 750 đến 1000 15% 62.5
Số thuế phải nộp trong trường hợp này là 62,5 USD
TH
2
: Nước X áp dụng 5 mức thuế suất là 0%; 5%; 10%; 12%; 15% đối với thu
nhập của người này
Đơn vị: USD
Mức thu nhập tính thuế T/suất Thuế TNCN phải nộp
Đến 500 0% 0
Trên 500 đến 620 5% 6

Trên 620 đến 750 10% 19
Trên 750 đến 880 12% 34.6
Trên 880 đến 1000 15% 52.6
Số thuế phải nộp trong trường hợp này là 52,6 USD
Như vậy, có thể thấy rằng, trường hợp 1, thu nhập của người dân bị điều tiết
lớn hơn trong trường hợp 2 vì với cùng mức thu nhập, thuế thu nhập phải nộp cao
hơn.
Ví dụ 2: Tỷ lệ điều tiết của nhiều mức thuế suất cao hơn ít mức thuế suất
Một người có thu nhập là 900 USD và phải chịu thuế thu nhập cá nhân tại
nước Y, thì sẽ xảy ra 2 trường hợp là:
TH
1
: Nước Y áp dụng 5 mức thuế suất là 0%; 10%; 15%; 20%; 25% đối với
thu nhập của người này
Đơn vị: USD
Mức thu nhập tính thuế T/suất Thuế TNCN phải nộp
Đến 500 0% 0
Trên 500 đến 600 10% 10
Trên 600 đến 700 15% 25
22
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
Trên 700 đến 800 20% 45
Trên 800 đến 900 25% 70
Số thuế phải nộp trong trường hợp này là 70 USD.
TH
2
: Nước Y chỉ áp dụng 3 mức thuế suất là 0%; 10%; 15% đối với thu nhập của
ngưòi này
Đơn vị: USD
Mức thu nhập tính thuế T/suất Thuế TNCN phải nộp

Đến 500 0% 0
Trên 500 đến 700 10% 20
Trên 700 đến 900 15% 50
Số thuế phải nộp trong trường hợp này là 50 USD
Trong ví dụ này lại cho thấy nếu mở rộng khoảng cách chênh lệch giữa các
mức thu nhập tính thuế và áp dụng ít mức thuế suất, thuế suất thấp thì với cùng
một mức thu nhập, trong trường hợp 1 người dân phải nộp thuế nhiều hơn trong
trường hợp 2, thu nhập bị điều tiết lớn hơn.
Như vậy, khi xây dựng biểu thuế suất cần tính đến yếu tố mức điều tiết thu
nhập hợp lý đối với người dân sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của
từng nước và mức sống chung của người dân. Đó là lý do vì sao có nước áp dụng ít
mức thuế suất nhưng cũng có nước áp dụng nhiều mức thuế suất.
• Những yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội khách quan như: lạm phát, thất
nghiệp, chiến tranh cũng ảnh hưởng đến thu nhập của người dân, do đó nó cũng tác
động đến thuế TNCN, đến nguồn thu từ thuế TNCN. Trong thời gian đất nước xảy
ra chiến trành hay lạm phát, thất nghiệp tăng cao, kéo dài thì thu nhập thực tế
người lao động nhận được sẽ giảm đi do giá cả của hàng hoá tăng, chi phí cần thiết
cho cuộc sống lớn hơn. Trong những thời kì này, Nhà nước cần phải có những điều
chỉnh về chính sách cho hợp lí.
23
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thuế TNCN
1.2.3.1. Những nhân tố khách quan
• Điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước
Đây là nhân tố khách quan chung nhất có liên quan đến mọi mặt của đời sống xã
hội. Khả năng hoạt động hoạt động của một ngành hay hiệu quả thực thi một chính sách
phụ thuộc một phần vào sự phát triển về kinh tế – xã hội của quốc gia đó, điều này
không loại trừ đối với chính sách thuế thu nhập cá nhân. Ta có thể dễ nhận thấy ở các
nước có nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao nên khả năng đóng
góp của thuế TNCN vào Ngân sách là rất lớn, nó luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong

nguồn thu cho Ngân sách. Bên cạnh đó, các nước phát triển với khoa học kỹ thuật hiện
đại, trình độ quản lý cao, lượng tiền mặt lưu thông nhỏ nên họ dễ dàng quản lý việc tính
và nộp thuế TNCN. Mọi cá nhân đều có tài khoản ở các ngân hàng và việc cá nhân
nhận thêm một khoản thu nhập hay bỏ thêm một khoản chi phí đều được thể hiện trên
tài khoản đó, từ những căn cứ đó việc tính thuế trở nên rất đơn giản, dễ dàng và thuận
lợi hơn. Còn ở những nước đang phát triển như Việt Nam, thu nhập bình quân đầu
người ở nước ta còn thấp, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán còn lớn, trình độ quản
lý ở nước ta còn hạn chế, cở sở vật chất chưa đầy đủ nên công tác quản lý thu thuế còn
gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với thuế TNCN, một loại thuế có thể nói là tương đối
mới với người dân nước ta.
• Môi trường pháp lý của mỗi quốc gia.
Môi trường pháp lý của mỗi quốc gia cũng ảnh hưởng đến công tác quản thu
thuế. Một quốc gia có môi trường pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh và ổn định là điều
kiện tốt cho việc thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Môi trường kinh tế
thuận lợi là điều kiện để tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, giúp các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy kinh tế phát triển, tăng thu nhập
cho người dân, nguồn thu từ các loại thuế cũng tăng theo. Các tổ chức kinh tế nước
24
Chuyên đề tốt nghiệp Trần Quang Liêm
ngoài cũng lựa chọn quốc gia có sự ổn định về mặt xã hội để đảm bảo an toàn
trong đầu tư, kinh doanh.
• Hệ thống văn bản pháp quy về thuế
Để thực hiện bất kì một chính sách, công cụ tài chính nào của Nhà nước cũng
cần có những quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân
làm theo đồng thời đó sẽ là căn cứ để kiểm tra, xử phạt những trương hợp vi phạm.
Hệ thống văn bản pháp quy được đưa ra để làm tiêu chuẩn cho việc thực hiện các
loại thuế, giúp quy định một cách đầy đủ, hoàn chỉnh tạo điều kiện để các loại thuế
có được hiệu quả và mục tiêu Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, nếu hệ thống văn bản
này còn nhiều thiếu sót, không hợp lý thì sẽ gây ra hiện tượng tìm cách trốn, tránh
thuế, gây khó khăn cho công tác quản lý thu thuế và việc áp dụng loại thuế đó

không mang lại hiệu quả mong muốn. Đối với thuế TNCN, đây là loại thuế trực
thu, có tác động trực tiếp đến thái độ của người dân khi có thay đổi về chính sách
thuế, do đó nếu hệ thống văn bản quy định không đầy đủ, hợp lý sẽ làm cho người
dân không tuân thủ một cách nghiêm chỉnh do không hiểu rõ hoặc có tình vi phạm.
Đông thời nếu thay đổi thường xuyên các văn bản pháp quy này (nước ta đã 7 lần
sửa đổi và bổ sung pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao) sẽ
gây khó khăn cho người dân trong quá trình thực hiện do không nắm bắt kịp thông
tin qua những lần sửa đổi. Có thể nói, việc quy định hệ thống văn bản phù hợp sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thu thuế.
• Trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế
Trình độ hiểu biết pháp luật của dân cư, việc cập nhật các thông tin về điều
chỉnh, sửa đổi các văn bản pháp quy về thuế TNCN sẽ tạo điều kiện để các tổ chức,
cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế của mình. Nếu không nhận thức đúng vai
trò tác dụng của loại thuế này, nhiều đối tượng nộp thuế sẽ không chấp hành
nghiêm chỉnh, không tuân thủ đúng với quy định, việc kê khai các khoản thu nhập
sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Trong trường hợp đó, yêu cầu của cán bộ thuế là phải
25

×