Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

D:ba bài thơ hay nhất thế kỷ.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.09 KB, 10 trang )

Ba bài thơ tình trong những bài thơ tình hay nhất
của thế kỷ XX
Trong hai cuộc chiến tranh vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của
dân tộc ta, nhiều trí thức tài hoa đã dứt khoát chia tay với những thành phố,
thị xã, thị trấn đô hội để gia nhập quân đội, cầm súng, giải phóng Tổ quốc,
giải phóng quê hương.
Bằng âm nhạc, hội họa, văn chương và thi ca, các trí thức trẻ tài hoa đã thể
hiện tài năng rực rỡ của mình, phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến
cứu nước. Các tác phẩm nghệ thuật của họ là một mảng tài sản quý giá trong
tâm hồn văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh những tác phẩm hùng tráng trên những nẻo đường kháng chiến,
nhưng kỷ niệm đau xót, bi ai đầy lãng mạn cách mạng đã được các văn nghệ
sỹ thể hiện thành công, mang tính nhân văn sâu sắc nên nó cứ sống mãi với
thời gian.
“Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan sáng tác năm 1948 (bằng tự lòng
tác giả), sau đó được chép vào một chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn
ông ở Thanh Hóa. Anh bạn ông đã chép lại bài thơ từ chiếc quạt ra tờ giấy
để bạn bè đọc. Vậy là bài thơ được truyền đi khắp trong Nam, ngoài Bắc và
đã khẳng định đời sống bền vững của nó trong công chúng cho đến hôm nay,
tính ra đã được 62 năm (1948-2010) và chắc chắn bài thơ sẽ còn sống mãi
trong đời sống văn chương của dân tộc Việt.
Tạp chí HNHN tạ lỗi hương hồn nhà thơ Hữu Loan, xin đăng lại bài thơ
“Màu tím hoa sim” do một cựu chiến binh (đồng cảnh với tác giả) chép
trong sổ tay chiến sỹ từ 1954. Có thể có những câu thơ ngày ấy có khác với
hôm nay nhưng nó hòa cùng thời thế và công chúng ngày ấy…
Bài thơ “Núi đôi” của nhà thơ Vũ Cao ra đời sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ
được ký kết, hòa bình lập lại trên miền Bắc (20-7-1954). Ngày đó, tại một
cuộc chỉnh huấn Chính trị của Đại đoàn 312 ở Phủ Lỗ, Đông Anh, Hà Nội,
Vũ Cao nghe một chiến sỹ bộc bệch cuộc tình dang dở của mình. Cảm xúc
lắng sâu trong tác giả, Vũ Cao đã sáng tác bài thơ “Núi đôi” gắn với cảnh và
người ở vùng trung du thơ mộng. Bài thơ được đăng đầu tiên trên Tạp chí


Văn nghệ quân đội rồi nhiều tờ báo khác và trở thành bài thơ chép trong sổ
tay của hàng triệu công chúng. Có thời gian, đồng chí Bí thư và Chủ tịch của
vùng quê có Núi đôi, có làng Đoài, làng Đông và làng Xuân Dục đã đến Tạp
chí VNQĐ đề nghị Tòa soạn cho biết tên, tuổi của người du kích Anh hùng
ấy để làng, xã vinh danh, học tập. Thật là tình huống khó khăn đối với Tòa
soạn vì trên đất nước triền miên giặc giã này, có biết bao mối tình bi thương
và giàu chất anh hùng ca như thế. “Núi đôi” là tượng đài thơ đậm chất anh
hùng và bi tráng của một thế hệ thanh niên thời chống Pháp.
Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi Mỹ - Diệm
ban hành Luật 10-59 và lê máy chém đi khắp miền Nam, trả thù những
người kháng chiến cũ, nhà thơ Giang Nam lại gặp cảnh chia ly đau xót của
thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Từ chiến khu
Nam Trung Bộ, ông xúc động sáng tác bài thơ “Quê hương” trong lửa đạn.
“Quê hương” thời chống Mỹ là tượng đài tình yêu của một thời kháng chiến
chống Mỹ, hành trình cùng “Núi đôi” của một thuở kháng chiến 9 năm.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc ba bài thơ tình bi thương của một
thuở chiến tranh để mỗi chúng ta cùng hiểu cái giá mà dân tộc phải trả để có
ngày hòa bình, thống nhất, đổi mới đầy vinh quang hôm nay.

Hữu Loan:
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi, người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng trẻ tuổi
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Ngày xưa
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi! Giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông lần cuối
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng may, màu tím hoa sim
Ngày xưa
đèn khuya, bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn mé sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm, thu về
cỏ vàng mồ chị
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài
không bao giờ tắt
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo anh rách vai
Tôi hát trong màu hoa:
“Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già xa lâu…”

Vũ Cao:
Núi đôi
Bảy năm về trước, em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông, hai nhánh lúa
Bữa thì anh tới, bữa em sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi

Em vẫn đùa anh: sao khéo thế?
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Ai ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, Núi Đôi chăng?
Anh nghĩ: quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi?
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng, người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du, làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi, bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi.
Mới đến đầu ao, tin sét đánh:
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung.
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn Đôi mà anh mất em.

Dân chợ Phù Ninh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối
Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương trắng khuây dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng?
Nhớ nhau, anh gọi em: đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.



Giang Nam:
Quê Hương
Thuở còn thơ, ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cạnh cầu ao
Mẹ bắt được
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…
Cách mạng bùng lên,
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên - (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ:
Chuyện chồng con? (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm ngùi

Em vẫn để trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật!
Giặc giết em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

×