Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỉ XX.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.98 KB, 132 trang )

100 bài thơ hay nhất VN thế kỷ 20
Được phát động từ đầu năm 2005, cuộc thi Chọn những bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 do Trung tâm văn hóa
doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã lựa ra được 100 thi phẩm xuất sắc và công bố trong Đêm
Nguyên tiêu của Ngày thơ Việt Nam lần thứ 5.
100 bài thơ, chia đều cho 100 tác giả, không một ai được vinh dự góp mặt với hơn một sáng tác. Hiện tượng này
khiến không ít độc giả ngậm ngùi tiếc nuối khi Xuân Diệu có Nguyệt cầm nhưng không có Đây mùa thu tới hay Vội
vàng... Hoàng Cầm có Bên kia sông Đuống nhưng không có Lá diêu bông... Nguyễn Duy có Đò lèn nhưng lại vắng
Tre Việt Nam hay Hơi ấm ổ rơm...
Ngoài ra sự vắng mặt của nhiều bài thơ nổi tiếng trong danh sách này không khỏi khiến người yêu thơ phải nuối tiếc.
Phong trào Thơ Mới góp mặt trong danh sách với số lượng tác giả, tác phẩm lớn nhất. Tiếp đó là những sáng tác có
ảnh hưởng sâu nặng đến suy nghĩ và hành động của bao thế hệ độc giả qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và
chống Pháp.
Nhà văn Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân, cho biết: "Chúng tôi nhận được rất nhiều bài viết công
phu, thể hiện tình yêu và thái độ trân trọng với thơ ca. Có những độc giả viết đến hàng chục trang bình chọn và đưa
ra nhiều lý lẽ bảo vệ cho sự lựa chọn của mình".
100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã được Nhà xuất bản Giáo Dục in thành sách và phát hành rộng rãi.
Danh sách 100 bài thơ hay nhất
Ngoài Nguyên Tiêu, 99 bài còn lại được sắp xếp theo tên tác giả dựa vào bảng chữ cái.
1) Nguyên Tiêu - Hồ Chí Minh.
2) Ngày Hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc.
3) Những bóng người trên sân ga - Nguyễn Bính.
4) Tạm biệt Huế - Thu Bồn.
5) Vào chùa - Đồng Đức Bốn.
6) Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh.
7) Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao.
8) Núi Đôi - Vũ Cao.
9) Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm.
10) Tràng Giang - Huy Cận.
11) Dọn về làng - Nông Quốc Chấn.
12) Quê hương - Nguyễn Bá Chung.
13) Say đi em - Vũ Hoàng Chương.


14) Miền Trung - Hoàng Trần Cương.
15) Đường về quê mẹ - Đoàn Văn Cừ.
16) Anh đừng khen em - Lâm Thị Mỹ Dạ.
17) Nguyệt cầm - Xuân Diệu.
18) Cô bộ đội ấy đã đi rồi - Phạm Tiến Duật.
19) Tây tiến - Quang Dũng.
20) Lên Côn Sơn - Khương Hữu Dụng.
21) Đò lèn - Nguyễn Duy.
22) Chiều - Hồ Dzếnh.
23) Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà.
24) Cha tôi - Lê Đạt.
25) Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm.
26) Núi mường Hung dòng sông Mã - Cầm Giang.
27) Mắt buồn - Bùi Giáng.
28) Hai sắc hoa tigôn - T.T.KH.
29) Đọc thơ Ức Trai - Sóng Hồng.
30) Bài thơ tình ở Hàng Châu - Tế Hanh.
31) Trở về quê nội - Ca Lê Hiến.
32) Đêm mưa - Hoàn.
33) Những đứa trẻ chơi trước cửa đền - Thi Hoàng.
34) Cửu Long giang ta ơi - Nguyên Hồng.
35) Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ.
36) Nỗi niềm Thị Nở - Quang Huy.
37) Đường khuya trở bước - Đinh Hùng.
38) Người về - Hoàng Hưng.
39) Đồng chí - Chính Hữu.
40) Khi con tu hú - Tố Hữu.
41) Lên Cấm sơn - Thôi Hữu.
42) Lời nói dối nhân ái - Trang Thế Hy.
43) Gánh nước đêm - Á Nam Trần Tuấn Khải.

44) Tỳ bà - Bích Khê.
45) Gửi bác Trần Nhuận Minh - Trần Đăng Khoa.
46) Thu điếu - Nguyễn Khuyến.
47) Bến Mi Lăng - Yến Lan.
48) Tháp Chàm - Văn Lê.
49) Ông đồ - Vũ Đình Liên.
50) Đèo cả - Hữu Loan.
51) Viếng bạn - Hoàng Lộc.
52) Tiếng thu - Lưu Trọng Lư.
53) Nhớ rừng - Thế Lữ.
54) Một vị tướng về hưu - Nguyễn Đức Mậu.
55) Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây.
56) Dặn con - Trần Nhuận Minh.
57) Hội Lim - Vũ Đình Minh.
58) Khóc người vợ hiền - Tú Mỡ.
59) Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ.
60) Quê hương - Giang Nam.
61) Thị Màu - Anh Ngọc.
62) Nhớ - Hồng Nguyên.
63) Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn.
64) Người đàn bà ngồi đan - Ý Nhi.
65) Nhớ máu - Trần Mai Ninh.
66) Mẹ - Nguyễn Ngọc Oánh.
67) Bông và mây - Ngô Văn Phú.
68) Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương - Việt Phương.
69) Đợi - Vũ Quần Phương.
70) Tên làng - Y Phương.
71) Lời mẹ dặn - Phùng Quán.
72) Có khi nào - Bùi Minh Quốc.
73) Tự hát - Xuân Quỳnh.

74) Áo lụa Hà Đông - Nguyên Sa.
75) Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao.
76) Người đẹp - Lò Ngân Sủn.
77) Đồng dao cho người lớn - Nguyễn Trọng Tạo.
78) Tống biệt hành - Thâm Tâm.
79) Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo.
80) Đất nước - Nguyễn Đình Thi.
81) Những người đàn bà gánh nước sông - Nguyễn Quang Thiều.
82) Nghe tiếng cuốc kêu - Hữu Thỉnh.
83) Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông.
84) Bờ sông vẫn gió - Trúc Thông.
85) Bến đò ngày mưa - Anh Thơ.
86) Thăm lúa - Trần Hữu Thung.
87) Cổ lũy cô thôn - Phạm Thiên Thư.
88) Nói sao cho vợi - Thu Trang.
89) Mưa đêm lều vó - Trần Huyền Trân.
90) Bên mộ cụ Nguyễn Du - Vương Trọng.
91) Nhớ Huế quê tôi - Thanh Tịnh.
92) Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ.
93) Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử.
94) Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui.
95) Em tắm - Bạc Văn Ùi.
96) Một ngày ta ngoái lại - Đinh Thị Thu Vân.
97) Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên.
98) Bếp lửa - Bằng Việt.
99) Vườn trong phố - Lưu Quang Vũ.
100) Thương vợ - Trần Tế Xương.
Theo HÀ LINH - VnExpress
Bài số 1
NGUYÊN TIÊU

HỒ CHÍ MINH
Phiên âm
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
1948
Dịch nghĩa:
Đêm rằm tháng riêng
Đêm nay, rằm tháng riêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xanh.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, ánh trăng đầy thuyền.
1948
Dịch thơ:
Rằm tháng riêng
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
XUÂN THỦY dịch
Trăng xưa ngời sáng với xuân này
Lời bình của Thư Trai
Cuối năm 1947, với ảo vọng "đánh nhanh thắng nhanh", thực dân xâm lược Pháp mở những trận càn lớn vào chiến
khu Việt Bắc, ngỡ có thể chớp nhoáng tiêu diệt bộ chỉ huy tối cao cuộc kháng chiến cứu nước của quân và dân ta.
Song, quân giặc đã phải chuốc lấy thất bại thảm hại... Đầu xuân 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc Hội nghị
Trung ương mở rộng, vạch phương hướng và nhiệm vụ mới cho một giai đoạn phát triển của Cách mạng Việt Nam,
chuẩn bị từng bước vững chắc để đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Nhà thơ Xuân Thủy kể lại: Sau cuộc họp ở chốn "yên ba thâm xứ", Bác xuôi thuyền về nơi căn cứ. Nhân trăng sáng,
cảnh đẹp, Bác cảm hứng đọc:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Rồi thêm hai câu nữa thành bài Nguyên tiêu.
Có người đề nghị Bác cho dịch ra tiếng Việt. Bác bảo: "Có Xuân Thủy đây, Xuân Thủy dịch đi".
Sau một hồi suy nghĩ, Xuân Thủy đọc bản dịch.
Bác khen: "Dịch lưu loát, giữ được chất thơ, nhưng dòng thứ hai có ba chữ xuân hòa với nhau mà bản dịch chỉ có hai
chữ xuân, thế là ý thì đủ mà chữ còn thiếu"...
Về sau, nhà thơ - dịch giả Xuân Thủy đưa thêm một chữ xuân nữa vào bản dịch như chúng ta đã biết.
Nhưng giữa ba chữ xuân trên cùng một dòng thơ và ba chữ xuân trên cả hai dòng là cả một khoảng cách không dễ gì
thu ngắn lại. Sự lặp lại ở đây vừa chuyển tải nội dung vừa là điểm nhấn của hình thức nghệ thuật.
Bản dịch có được sự thanh thoát và độ biểu cảm khá nhuần nhuyễn. Nhất là một chữ ngân thêm vào ở dòng kết như
một xuất thần của người dịch. Song, độ sâu sắc và những chi tiết hiện thực, vốn là đặc điểm của phong cách ngôn từ
Hồ Chí Minh trong nguyên tác thì bản dịch đã không sao thể hiện hết được.
Với "yên ba thâm xứ", tác giả vừa muốn gợi lại một không khí rất Đường thi trong thơ cổ lại vừa ghi khắc được màn
sương mù dày đặc vùng cao những ngày mùa đông Việt Bắc hồi giữa thế kỷ trước.
Giữa dòng gần như chưa nói được điều gì. Chính trong màn sương huyền ảo và kín đáo đó những nhà cách mạng,
trao đổi những điều có tính chất sống còn của Tổ quốc, của dân tộc. Câu thơ "Yên ba thân xứ đàm quân sự" khi đọc
lên ta nghe mang một âm hưởng như có gì chùng xuống. Những từ xứ, sự gợi lên sự trầm khuất. Nhưng ngoài ra, ở
ba dòng còn lại:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
với những từ nguyên, viên, thiên, thuyền là những âm vang tạo cho âm hưởng câu thơ nét lạc quan, tươi sáng.
Câu thơ cuối Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền với thanh huyền ở vần thuyền kết bài gợi cho ta một không gian
thật bát ngát, cũng là dư vang cho cả bài thơ. Nhà thơ trở về trên một con thuyền đầy trăng. Thật là thơ mộng. Như
bao nhiêu bậc thi nhân lớn của truyền thống thơ phương Đông.
Cảm hứng của Nguyên tiêu là cảm hứng của niềm vui, hạnh phúc, tin tưởng và hy vọng. Trong cuộc đời đầy thử
thách của tác giả, những khoảnh khắc như thế này thật quý giá. Nhất là lại đêm Nguyên tiêu và vầng trăng Nguyên
tiêu bao giờ cũng gợi lên những tình cảm thật thiêng liêng trong tâm thức phương Đông, tâm thức Việt Nam. Dù ta

biết trăng và thơ vẫn luôn song hành trong suốt cuộc đời Người. Nhưng ở bài thơ này vẫn có một điều gì thật xúc
động.
Bài thơ vừa có được vẻ đẹp cổ điển mẫu mực vừa mang hơi thở ấm áp của thời đại. Mà đây lại là thời đại bão táp
cách mạng. Ta thấy hiện lên rất đẹp cái tôi trữ tình của tác giả - Người mà sự hòa hợp hoàn hảo đã được thi sĩ -
Phêlich Pita Rôđrighêt - gợi lên trong mấy dòng hết sức cô đọng:
Bởi vì Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nhà thơ Hồ Chí Minh
Người nông dân Việt Nam trầm tĩnh Hồ Chí Minh...
Bài thơ chỉ được viết trong khoảnh khắc. Nhưng khoảnh khắc đã trở thành vĩnh cửu. Và, từ một câu thơ khác của Bác
cũng viết ở Việt Bắc thuở ấy, Trăng xưa, hạc cũ với xuân này, trong ta cũng chợt thoáng lên niềm xúc động nghĩ
rằng: Trăng xưa ngời sáng với xuân này.
Theo Tạp chí Thơ
Bài số 2
NGÀY HOÀ BÌNH ĐẦU TIÊN
Phùng Khắc Bắc
Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn
Bắn tiếp và anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả
Van anh
Hôm qua chưa nhận được một viên đạn
Hôm nay nhận được lỗ thủng
Anh về quê không mang súng
Vũ khí lúc này là hai bàn tay...
Mẹ giục ăn cơm con
Hòa bình trong canh cua, rau mồng tơi, cà

Mùi ổ rơm./.
Phùng Khắc Bắc là cựu chiến binh bên kia chiến tuyến, anh còn sống sót đến ngày 30/4/75! Anh cũng là một nhà thơ

trẻ đầy nhiệt huyết với hòa bình với tổ quốc. Sau 30/4/75 đơn vị anh giải thể. Anh trở về với mẹ, với gia đình đơn
côi!
Nghe rất người! Nghe rất đau! Đau lắm phải không anh! Niềm đau của cả dân tộc! Ôi chiến tranh! Ấy thế mà nhà thơ
Phùng Khắc Bắc, cũng như anh, không còn nữa anh ạ! Anh ấy qua đời trước tuổi 40! Anh ấy hình như bị giết chết
trong một tai nạn gỡ mìn! Chiến tranh vẫn theo đuổi anh! Anh đã chết vì chiến tranh trong những ngày hòa bình!
biết anh đã qua đời sau một thời gian sống trong bịnh hoạn, nghèo nàn, túng quẫn. Đọc tâm sự của một nhà thơ bộ
đội trong ngày hòa bình đầu tiên của đất nước để hiểu rằng những xót xa này không phải của riêng ai.
Tôi nghĩ rằng, cũng như anh từng mơ ước, chết không phải là hết, không phải là trở về cát bụi, là nát với cỏ cây;
phải có một ‘Ai’ đó ở trong một cỏi nào đó hiểu được anh, san sẻ niềm đau của anh cũng như của của Phùng Khắc
Bắc! Phải không anh?
Đó cũng là niềm hy vọng của chúng ta, để có thể tự an ủi mình khi nghĩ về thân phận con người./.
Bài số 3
NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA
Nguyễn Bính
Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn xum họp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày.
Có lần tôi thấy hai cô gái
Áp má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
“Đường về nhà chị chắc xa xôi”.
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng liêu xiêu.
Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở trên toan kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu.

Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu anh thắt lại
“Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi”.
Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng
Lưng còng đổ xuống bóng sân ga.
Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ những gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly.
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về
Sao nhà ga ấy sân ga ấy
Chỉ để cho lòng dấu biệt ly ?
Hà Nội 1937
Bài thứ 4
TẠM BIỆT HUẾ
Thu Bồn
(Tặng C)
Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu
xin chào Huế một lần anh đến

để ngàn lần anh nhớ vô tư
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng lầm em với cố đô
áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh đi mãi chẳng về đâu
con sông giùng giằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hóa đá phía bên kia.
Huế 1980
Bài thứ 5
VÀO CHÙA
Đồng Đức Bốn
Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.
Sao lại đang trưa mà không sáng sớm, không chiều tối? Chúng ta biết Đồng Đức Bốn in những bài thơ đầu tiên khi
anh không còn trẻ nữa. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng đùa anh là một tên nửa quê nửa tỉnh cao tuổi (tựa tập thơ
Chăn trâu đốt lửa Nhà xuất bản Lao động 1993). Vậy khoảng thời gian đang trưa mà gã ăn mày xuất hiện là gì?
Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày.
Trong lịch sử, vua Khang Hy Trung Hoa đã từng sắm vai ăn mày. Chúa Chổm ở Việt Nam đã từng ăn chạc. Ăn mày ở
đây không còn phải là một cá thể nào đó riêng biệt mà là một kẻ tha nhân đại diện của đại diện đang trôi dạt trong

bể trầm luân. Khoảng thời gian đang trưa mà gã ăn mày ấy, kẻ tha nhân ấy lạc bước (hay cố ý) vào chùa, giống như
một cử chỉ hướng thượng vào chốn cao minh (gặp gỡ tôn giáo) một liệu pháp tâm linh. Đấy là khoảng thời gian nào
vậy của đời người?
Đời người có một gang tay
Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang.
Khoảng đang trưa là khoảng nửa gang tay già của một đời người! Đáng sợ thay! Đấy là lúc người ta có thể kiểm
nghiệm được khá nhiều điều tưởng bở và không tưởng bở:
Sống gần tới phút chia tay
Tỉnh ra mới thấy đời này rỗng không.
Chín xu đổi lấy một hào
Ai mua cái nắng lại vào cái mưa.
Chiều mưa phố Huế một mình
Biết đâu là chỗ ân tình đến chơi?
Tẽn tò con sáo sang sông
Bờ bên này tưởng cũng không có gì.
Tẽn tò con sáo bay đi
Lại bờ bên ấy có gì cũng không...
Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng.
Vậy khoảng thời gian gặp gỡ tôn giáo, phút đốn ngộ (sát-na) vẫn thường xảy ra phải là khi kẻ tha nhân đã Phú Xuân
cũng trải, Đồng Nai cũng từng rồi! Chúng ta hãy hình dung một khách bộ hành mệt mỏi, bụi bặm, râu bạc (kìa râu
bạc!), nỗi chán chường âm ỉ lặn sâu ở trong đôi mắt âm thầm. Y gõ cửa vào chùa:
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Một cử chỉ diễn ra trong im lặng. Có ai có gì mà cho! Thích Ca Mầu Ni nói: Ta thuyết pháp trong khoảng 49 năm mà
chưa từng nói một lời... (Phật vô ngôn).
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.
Đồng Đức Bốn xuất hiện trong làng thơ Việt Nam khoảng 10 năm nay, viết chừng 80 bài thơ, trong đó có tới trên
dưới 15 bài thơ được khách sành văn chương xếp vào loại cực hay, tài tử vô địch! Còn lại, thực ra nhiều bài cũng
chẳng ra gì.

6. Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh - 1966
Sẽ có những sư đoàn thép
Bất kỳ nơi đâu
Không khuất phục tù đày chém giết
Nơi đâu
Người sống nợ nần người đã chết
Bất kỳ nơi đâu
Từ một cây "mút nhét"
Một sải xuồng bơi
Một nọc ong châm góp làm sự nghiệp
Gốc tre xanh thắng trận cả ba đời
Ba mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa
Vạch lối điều quân
Vai chảy xe thồ
Trồng cây xanh che chở
Mỗi bước quân đi
Đánh trận trường kỳ
Đêm trước nấp trong lùm bắn tỉa
Sớm sau dàn trận chính qui
Đến trận bão hiệp đồng cả nước
Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi...
Đất giải phóng thênh thang
Sẽ cho ta dàn đội ngũ - sư đoàn
Phía trước gọi ta
Những Điện Biên vòng đai thép tung ra làm chiến dịch
Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích
Hành quân
Hành quân
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc

Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc
Trải bản đồ
Còn nguyên
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp
Bài học chiến tranh nhân dân
Lại tiếp
Trang ấp Bắc - Plây me
Và chiến công lên ngực áo những binh nhì
Đất nước sẽ cho ta
Những chùm con số đẹp
Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thep
Này đây
Doi cát Cửu Long xanh
Sư đoàn Châu Thổ
Giữa bãi sú, rừng tràm
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ
Sư đoàn Tây Nguyên
Từ hầm chông bẫy đá cung tên
Này đây Cực Nam Phan Rang - Phan Thiết
Này đây Quảng Ngãi - Phú Yên
Trên nguồn xa Ô Lâu - Thạch Hãn
Sẽ tiến về
Sư đoàn Trị Thiên
Lại có một ngày
Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở
Như Hà Nội đã từng
Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ
Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió
Đón con em

Đón những sư đoàn
Mang chiến thắng trở về
Rập bước
Ca vang!
Bài số 7.
CHIẾC XE XÁC QUA PHƯỜNG DẠ LẠC
Văn Cao
Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma...
Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang... Não nuột khóc tàn sương
áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể
Ta đi giữa đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây...
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy
Ai hủy đời trên tang trống nhỉ?
Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!
Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa
Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo!
Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu
Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!
- Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu

Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
Dặt dìu cung bậc âm dương
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
Đầm đìa rả rích phương Đông
Mang mang thở dài hồn đất trích
Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô
Cửa ô đau khổ
Bốn ngả âm u
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
Đêm đêm, dài canh tan tác
Bốn vực nhạc động, vẫy người
Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói công yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
- Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực

Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
- Hang tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xa dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.
1945
Bài số 8
NÚI ĐÔI
Vũ Cao
Bảy năm về trước, em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục, Ðoài Ðông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Ðôi ngọn nên làng gọi núi Ðôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi!
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Ðâu ngờ từ đó bặt tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Ðông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mấy bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Ðôi chăng?
Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi

Mỗi tin súng nổ vành đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Ðồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Ðôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
********
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Ðôi.
Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thửa
Em sống trung thành, chết thủy chung!
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông bờ cỏ con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo:
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong;
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?
Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối
Xuân Dục, Ðoài Ðông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm

Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.
********
Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ.
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Ðã chết vì dân giữa đất này!
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
Một sự thật đẹp hơn huyền thoại
* Những điều ít biết về cô gái trong bài thơ "Núi Đôi" của nhà thơ Vũ Cao
Nhà thơ Vũ Cao trong một lần trò chuyện với khoa Văn Trường CĐSP HN, ông kể: Có nữ sinh đã khóc nói với ông
rằng "Bác ơi cháu thương bác quá, vì bác đã mất người yêu". Ông cũng không biết giải thích sao với cô nữ sinh đa
cảm. Bài thơ "Núi Đôi" được ông sáng tác nhân lần ông nằm điều trị tại bệnh viện 74 ở Sóc Sơn. Ông đã nghe được
câu chuyện từ đồng đội và dân làng Phù Linh về một cô gái đã hy sinh anh dũng ở Núi Đôi để bảo vệ một đoàn cán
bộ khi cô mới chỉ chừng 20 tuổi. Vào thời đó, nhiều chuyện thực xung quanh cuộc sống riêng và hoạt động cách
mạng của cô ít được biết rõ. Và thế là câu chuyện người ta lưu truyền bằng tình cảm khâm phục và tự hào đã tạo
nên một huyền thoại đối với thế hệ trẻ sau này. Năm 1975, có một người đàn ông tìm đến gặp nhà thơ Vũ Cao, lúc
đó nhà thơ mới vỡ lẽ: Liệt sỹ Trần Thị Bắc - cô gái Núi Đôi đó đã có chồng, một anh bộ đội Cụ Hồ và chuyện đời,
chuyện tình của họ còn cảm động hơn nhiều những gì chúng ta đã nghe kể…
* Vùng đất đã trở thành huyền thoại.

Xuân Dục- Đoài Đông là bên này và bên kia hai ngọn núi đôi, thuộc Xuân Đoài -xã Phù Linh (Lạc Long cũ)-Sóc Sơn-
HN. Xuân Đoài gồm có 3 xóm: xóm Núi Đôi-xóm Giữa-xóm Chùa. "Xóm Chùa cháy đỏ những thân cau" chính là quê
hương của cô gái Trần Thị Bắc ngày xưa - Cô gái được nhắc đến trong bài thơ "Núi đôi".
Trước những năm 1950, Lạc Long là vùng địch hậu, là trọng điểm giằng co giữa ta và quân Pháp. Núi Đôi vừa chứng
kiến những tang tóc đau thương vừa ghi tạc những tấm gương anh dũng của quân và dân ta. Cho đến nay những
chứng tích xung quanh Núi Đôi vẫn còn với những bốt lave, Miếu Thờ, Núi Đôi, bốt Thá…Lạc Long có 3 đồn Tây án
ngữ giữa xã như chảo lửa và bị cô lập bởi vành đai trắng do địch tạo ra. Trong hoàn cảnh khốc liệt đó, người dân Lạc
Long vẫn một lòng kiên trung và đây trở thành một trong những xã tiêu biểu về chiến tranh du kích thời chống Pháp
với nhiều tên tuổi được ghi nhận trong đó có ông Nguyễn Văn Vấn, xã đội phó từng vác dao chém Tây giữa chợ
huyện, lập nhiều chiến công trong các cuộc phá đồn tây và từng là Chiến sỹ thi đua toàn quân…
Trở về Núi Đôi bây gờ hai ngọn núi vẫn còn đó, cây rừng tái sinh đã phủ xanh che đi những sườn núi lở lói sặc mùi
thuốc súng năm nào. Những đồn bốt đã rêu phong, trở thành chỗ chơi trốn tìm của trẻ nhỏ… Rưng rưng giữa lối vào
xóm Chùa, những đổi thay khiến người ta cảm nhận nỗi đau dường như đã chôn sâu vào lòng người sau hơn nửa
thập kỷ trôi đi.
Trong ký ức của những người dân ở đây, điều được nói nhiều nhất lại là huyền thoại về cô gái Núi Đôi. Có những em
bé hồn nhiên bảo: "Cô ấy tên là Ngát, là Hương…" Có người bảo cô không có ai thân thích, có người khẳng định "cô
ấy chưa hề có người yêu, còn trẻ lắm mới 17-18 tuổi thôi". Chỉ hỏi riêng chuyện: "Anh đi bộ đội "sao trên mũ" ngày
ấy là ai ?" Mỗi người nói một phách: Là ông A, ông B… Có lẽ thời chiến tranh khốc liệt, chẳng phải ai cũng có điều
kiện hiểu về người khác một cách chân tơ kẽ tóc. Song cũng có thể, người ta chỉ muốn nghĩ về cô gái Núi Đôi bằng
những thêu dệt như trong huyền thoại, tuy sai thực tế, nhưng chung quy cũng vì một sự mến mộ đối với người đã
khuất.
* Và một cuộc đời có thật.
Liệt sỹ Trần Thị Bắc là con gái đầu của một gia đình có truyền thống yêu nước. Các bác, các cậu của cô đều là cơ sở
của Cách mạng, là du kích. Có người là liệt sỹ, có người từng bị giặc bắt. Bố cô những năm đó cũng là xã đội phó
xông pha gan dạ, bị địch bắt tra tấn chết đi sống lại. Lớn lên giữa những người như vậy, mới chỉ 15 tuổi Bắc đã tham
gia các hoạt động của các đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông liên lạc, tiếp tế cho đội
du kích trong những lần đi bắn tỉa đồn Tây. Năm 1950, cô được cử đi học y tá rồi trở về kiêm nhiệm thêm việc cứu
thương. Có lần theo đội du kích đi bắn tỉa, cô bị đạn của kẻ thù bắn xướt qua mặt để lại vết thương ngay dưới khoé
mắt. Nhưng cô không hề biết sợ hãi.
Là một cô gái xinh đẹp, hát hay và khéo ăn nói, năm 1951, Bắc được giao cả 3 nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và

binh vận.
Thời đó, người ta thấy có một cô gái hàng ngày quẩy gánh đi buôn bán, chiều chiều lại quanh quẩn quanh khu đồn
Tây để cắt cỏ. Những tên lính đồn chẳng những không nghi ngờ mà còn tỏ ra quý mến Bắc. Cô ra vào đồn Tây tương
đối dễ dàng, gánh nước giúp bọn lính đồn, lân la trò chuyện với chúng. Bắc làm quen được với những tên Tây chỉ huy
để thăm dò tin tức và gây dựng được một nhân mối bao gồm hai cai ngụy, một người làm thợ mộc trong đồn Tây và
một vợ Tây… Những người này đã thường xuyên cung cấp cho Bắc những thông tin về kế hoạch hoạt động của lính
đồn, nhiều điều cơ mật của địch. Với những thông tin quý báu do Bắc đem về, quân ta đã tránh được rất nhiều tổn
thất trong cuộc đấu tranh với quân Pháp. Sau này, khi nguy cơ bọn Pháp có thể lần ra nhân mối, cô đã tìm cách đưa
hai người cai ngục được giác ngộ chạy thoát ra vùng kháng chiến.
Vào ngày 12/3/1954, nhóm cán bộ của ta họp tại Lương Châu để chuẩn bị cho kế hoạch đánh phục kích địch. Tiên
lượng sau khi ta đánh thì địch sẽ tức tối điên cuồng và tổ chức vây ráp càn quét, cấp trên lệnh rút bớt cán bộ nằm
vùng ra vùng tự do để tránh tổn thất. Đoàn cán bộ di chuyển ra vùng tự do ngay trong đêm hôm đó gồm có trên 30
người. Bắc được cử dẫn đoàn đi vì hai lẽ: Cô thông thạo địa bàn, gan dạ và khôn khéo trong ứng phó khi có tình
huống xấu. Mặt khác, bản thân cô cũng có dấu hiệu bị lộ, nên đã được lệnh chuyển công tác, hoặc sẽ về làm quân
báo của huyện đội hoặc về phòng y tế huyện. Ngày 21/3 cũng là ngày Bắc về Núi Đôi thì gặp ổ phục kích của địch.
Bọn địch bắt được Bắc, bịt miệng cô dự định ém chờ bắt nốt những người đi sau. Biết điều đó, Bắc đã chống cự
quyết liệt. Cô cố kêu to và lao vào tên Tây chỉ huy túm lấy bộ hạ hắn. Tên này đau điếng quên mất việc lớn, kêu
rống lên. Một tên lính lê dương đứng cạnh đã lôi Bắc ra và xả trọn băng đạn vào ngực cô. Đoàn cán bộ của ta ra khỏi
Lương Châu nghe tiếng súng biết là bị lộ đã lui lại chờ đến khi địch rút. Khi anh em du kích và quân báo huyện tới
nơi Bắc giằng co với địch thì Bắc đã hy sinh. Máu loang đỏ ối trên ngực cô bắt đầu se lại. Những viên đạn của kẻ thù
vẫn còn găm nguyên ở đó. Bắc được anh em thay nhau cõng vượt vành đai trắng ra đến Cầu Cốn-Vệ Sơn-xã Tân
Minh và được đồng đội an táng ở đây.
Đội Hoè, chỉ huy quân đồn Miếu Thờ, có mặt trong trận phục kích đó, sau này kể lại: Hôm ấy bọn địch huy động cả
lính đông gấp đôi, gồm quân của bốt Núi Đôi và bốt Miếu Thờ vì nghi du kích đang đào hầm hố quanh bốt. Bắc đã lọt
vào giữa ổ phục kích, nếu cô không đánh động thì còn nhiều cán bộ bị bắt.
Dân làng thương tiếc Bắc nói với nhau: "Cái Bắc nó muốn sống thì vẫn có cơ hội, vì nó quen biết với bọn Tây, có thể
van xin chúng tha cho. Mặt khác, nó cũng mới chỉ bị tình nghi là du kích thôi". Nhưng điều đáng nói lại ở chỗ, Bắc có
thể tìm đường thoát cho mình nhưng cô đã chọn cái chết vì những người khác.
Sau này khi Phù Linh được công nhận là xã anh hùng và chuẩn bị xét chọn phong tặng danh hiệu anh hùng đối với
một số cá nhân xứng đáng. nhiều người đã có ý kiến: Phải truy tặng danh hiệu anh hùng cho cô gái Núi Đôi năm

xưa. Tuy thành tích của liệt sĩ Trần Thị Bắc khiêm nhường hơn những bậc cha chú đi trước nhưng cô lại được lòng
dân yêu mến, bởi cô đã sống đẹp và dám chết khi cần thiết. Cũng phải nói thêm, phải đến lần thứ ba chuyển mộ và
sau khi bài thơ "Núi Đôi" của nhà thơ Vũ Cao ra đời vào năm 1956, Trần Thị Bắc mới được công nhận là liệt sĩ. Tuy
nhiên trong lòng dân và trong trái tim những người thân đồng đội, Bắc vẫn đẹp và còn mãi.
* Chuyện tình đẹp nhưng mỏng như lá.
Anh bộ đội "sao trên mũ" ấy là Trịnh Khanh người cùng quê Lạc Long. Chúng tôi tìm đến thôn Hậu Dưỡng - xã Kim
Chung - Đông Anh - Hà Nội. Ông Trịnh Khanh bây giờ đã ngoài 70 tuổi là một lão thành Cách mạng, nguyên Chủ
nhiệm khoa Lịch sử, Viện Mác-Lê Nin. Khác với dự đoán của chúng tôi, ông cởi mở nhưng rất đúng mực khi chúng tôi
gợi về "một miền ký ức" mà ông ít khi nhắc tới, cả với những người bạn đồng niên.
"Năm ấy đại đội tôi đóng quân ở gần khu sơ tán, tôi tình cờ quen một cô gái đồng hương đang theo học một lớp y tá
tại đó. Có chung nhiều điều để chia sẻ, chúng tôi trở nên thân thiết. Nhưng rồi chúng tôi cũng phải xa nhau, mỗi
người một nhiệm vụ. Bẵng đi đi gần hai năm, năm 1952, tôi mới gặp lại Bắc khi cô ấy tiếp tục theo học lớp y tá của
tỉnh. Chúng tôi đã hẹn ước với nhau. Trong suốt thời gian đó, Bắc thường xuyên sang chơi, nấu cơm cho cả mấy anh
em trong tiểu đoàn chúng tôi. Mọi người đã gọi cô là "dâu của tiểu đoàn". Đó là thời gian ngắn ngủi chúng tôi sống
trong hạnh phúc của những người yêu nhau. Rồi Bắc quay về Phù Linh. Tháng 1/1953, Tiểu đoàn 64 của tôi đang
phải đương đầu với một trận càn của một binh đoàn Pháp. Trước trận đánh, người chỉ huy của tôi đùa: "Sau trận này
sẽ duyệt cho thằng Khanh về cưới vợ". Anh em ai cũng mừng cho tôi, chẳng ai ngờ sau đó ít phút người chỉ huy đó
đã hy sinh vì đạn pháo của địch. Và phải 1 năm sau tôi mới có dịp đi tìm Bắc ở vùng tự do Hồng Kỳ. Nói đến chuyện
làm lễ cưới chúng tôi đều khóc. Hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, chúng tôi lại chẳng có tiền mua thuốc nước mời bạn
bè, đồng đội. Bắc trở về hậu địch gặp mẹ. Và thật bất ngờ, mẹ Bắc đã cõng theo cậu em út từ hậu địch ra mang
theo bánh kẹo để chúng tôi làm lễ cưới. Đêm đó chúng tôi được mọi người chuẩn bị cho một ổ rơm trên đồi. Hai ngày
sau chúng tôi lại chia tay nhau và đó là cuộc chia ly vĩnh viễn…"
Chợt nhớ câu "Phiên chợ Phù Linh ai cũng bảo/Em còn trẻ lắm nhất làng trong/Mấy năm cô ấy làm du kích/Không
hiểu vì sao chẳng lấy chồng", tôi thắc mắc, tại sao trong bao năm, không thấy ai nói chuyện cô Bắc năm xưa có
chồng? Ông Khanh cười buồn: Chúng tôi cưới nhau ở vùng tự do, quê hương ở vùng địch hậu nên ít người biết ngoài
những người thân thích. Vả lại tiếng là cưới nhưng cũng chỉ được sống cuộc sống vợ chồng có 2 ngày thôi. Sau này,
người ta cũng đinh ninh như thế, tôi cũng chẳng giải thích. Nhắc lại chi một chuyện đau buồn. Năm 1975, tôi tìm gặp
nhà thơ Vũ Cao để cảm ơn ông, nhà thơ lúc đó cũng mới kêu lên: "Thế Bắc có chồng rồi à?"
Sau 3 tháng kể từ ngày cưới, ông Khanh nhận được một lúc 3 lá thư, 1 lá của đồng đội, một của vợ ông nhắn đã gửi
cho ông chiếc đồng hồ và cái áo len, 1 lá của nhà báo tin vợ ông đã hy sinh. Ông đau đớn đến lặng người, nhưng

hoàn cảnh kháng chiến nên phải đến hoà bình lập lại ông mới được trở về tìm mộ vợ.
Chiều hôm ấy, những người dân thấy một anh bộ đội thờ thẫn bên gò Cầu Cốn. Người em của liệt sỹ Trần Thị Bắc
nhận ra anh rể, khóc oà. Kể về ngày đó, ông Khanh nghẹn ngào không nói thành lời. Ông đọc cho chúng tôi nghe
khổ thơ: Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/Núi
vẫn đôi mà anh mất em. Chưa hề gặp người lính cụ Hồ năm nào đã yêu người liệt nữ nhưng sự hình dung của nhà
thơ đã nói được những gì thổn thức trong lòng ông Khanh.
Sau này, khi nỗi buồn nguôi đi, chính mẹ vợ ông, tức mẹ đẻ của liệt sỹ Trần Thị Bắc đã thân chinh đi hỏi vợ lần nữa
cho ông. Ông Khanh kết hôn lần thứ hai với em gái một đồng đội đã hy sinh. Người đàn bà thứ hai trong đời ông,
thật may, là người hiểu lẽ đời và sống có tình có nghĩa. Bà đã về quê bà Bắc, gặp gỡ họ mạc và các cụ thân sinh ra
người đã khuất. Ai cũng quý mến và xem hai vợ chồng bà như người trong nhà. Bây giờ khi đã ngoài 70, không thể
đi lại nhiều, ông Khanh vẫn cho các con về Núi Đôi vào các dịp giỗ Tết.
Ông Trần Văn Nhuận, người em út đã chứng kiến đám cưới của anh chị mình bùi ngùi kể: "Anh tôi (ông Khanh) là
người chu đáo, người vợ sau này cũng rất tốt. Giờ đây chúng tôi không chỉ coi anh ấy như là anh rể mà coi anh ấy
như là ruột thịt". Một lần đài truyền hình về Sóc Sơn quay phóng sự và khẳng định: Liệt sỹ Trần Thị Bắc là liệt sỹ cô
đơn không ai cúng giỗ". Những người em của bà Bắc đã khăn gói lên nhà anh rể vào đúng ngày gỗ chị. Họ thấy trên
bàn thờ mâm cơm ngát mùi khói hương và lặng lẽ khóc.
Những thêu dệt về thân thế của người liệt nữ vẫn không chấm dứt. Bà đã đi vào phim với một hình ảnh được thêu
dệt như thế. Nhưng ít ai biết có một đời thực không tô vẽ, phóng đại vẫn đẹp mãi giữa cuộc sống thường ngày này
và đẹp cả trong tình cảm ấm áp của người thân còn sống.
Bài số 9
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Hoàng Cầm
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu

Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
-- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?
Hé một cánh liếp
-- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững

Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối

Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
-- Việt Bắc, tháng 4, 1948
Bài số 10
TRÀNG GIANG
Huy Cận
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài"
H.C.
Tặng Trần Khánh Giư
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy giòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Bài số 11
DỌN VỀ LÀNG
Nông Quốc Chấn
Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi.
Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ,
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai
Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Ðường đi lại vắt bám đầy chân.
Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vơ hết áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lòa mắt không biết lối bước đi.
Làm sao bây giờ: ta phải chống!
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng nổ ngay đì đùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất
Cha ơi! Cha không biết nói rồi...
Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!

Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín", con im.
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi cất.
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố;
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn...
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả.
Hôm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang
Dọn láng, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.
Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Mặc gà gáy chó sủa không lo,
Ngày hai bữa rau ta có muối.
Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu
Có bắp xay độn gạo no lâu,
Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con
Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng,
Ra đường xe, hát nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,
Chân đi có giày không sợ nẻ

Trên đầu có mũ che nắng mưa.
Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.
Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ
Mùa đông 1950
Nhà thơ Nông Quốc Chấn là người dân tộc thiểu số đầu tiên mang hơi thở núi rừng Tây Bắc vào thơ ca. Ông được
xem là cánh chim đầu đàn của những người cầm bút các dân tộc thiểu số.
Nhà thơ Nông Quốc Chấn tên thật là Nông Văn Quỳnh, sinh ngày 18 tháng 11 năm 1923, quê gốc xã Cốc Đán, huyện
Ngân Sơn, tỉnh Cao Bằng. Dân tộc Tày. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1958).
Sớm giác ngộ cách mạng, ông hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, tham gia du kích và giải phóng quân trước tháng
8 năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám vẫn tiếp tục hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, tham gia tỉnh ủy tỉnh Bắc
Cạn, phục vụ chiến dịch và bắt đầu hoạt động văn hóa văn nghệ. Sau 1945 nhà thơ Nông Quốc Chấn tham gia khu
ủy Việt Bắc, là đại biểu Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hội Văn học – Nghệ thuật khu Việt Bắc, ủy viên Ban chấp hành Hội
Nhà văn, ủy viên rồi Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật toàn quốc. Từ năm 1964 đến nay, nhà thơ Nông
Quốc Chấn tiếp tục đảm nhận những trọng trách của Đảng và Nhà nước: Đại biểu Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Văn hóa
kiêm Hiệu trưởng Đại học Văn hóa, Hiệu trưởng trường Viết văn Nguyễn Du, Chủ tịch Hội Văn hóa văn nghệ các dân
tộc, Phó Chủ tịch Ủy ban Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật, ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Tổng Biên tập Tạp chí Toàn cảnh sự kiện và dư luận.
Tác phẩm đã xuất bản:
Tập thơ: Tiếng ca người Việt Bắc, 1959; Người núi Hoa, 1961; Đèo gió, 1968; Bước chân Pắc Bó, 1971; Suối và biển,
1984.
Tiểu luận: Một vườn hoa nhiều hương sắc, 1977; Đường ta đi, 1970.
Giải thưởng Văn học: Bài thơ Dọn về làng, Giải thưởng ở Đại hội Thanh niên, Sinh viên thế giới họp ở Béclin 1951;
Một số bài thơ cách mạng và kháng chiến được Hội Văn nghệ Việt Nam trao giải thưởng 1954, Hội Nhà văn Việt Nam
trao giải thưởng 1958. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Và đặc biệt là bài Nhớ, đã được phổ nhạc và
được công chúng yêu thích.
Tự sự:
- Vấn đề viết bằng chữ dân tộc rồi dịch ra tiếng phổ thông được đồng bào dân tộc hoan nghênh nhưng gặp khó khăn
trong khâu in và phát hành. Bởi hiện chưa có nhà in riêng. Nếu cố gắng in được cả chữ dân tộc và chữ quốc ngữ, thì

tác phẩm sẽ nhiều trang, giá cao, khó bán.
- Những vấn đề học thuật, như bản sắc dân tộc trong thơ văn, viết song ngữ, việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ nhà
văn các dân tộc, Hội Nhà văn phải làm gì để phát triển văn học các dân tộc v.v…, đó là những điều mà theo tôi, cần
giải quyết từng bước”.
Nhà thơ Nông Quốc Chấn qua những trang viết:
Nhà nghiên cứu, nhà báo Y Trang: Vĩnh biệt nhà thơ Nông Quốc Chấn: "Nhớ người mãi "dọn về làng":
“Nhà thơ Nông Quốc Chấn, dân tộc Tày, cánh chim đầu đàn của những người cầm bút các dân tộc thiểu số Việt Nam
vừa ra đi lúc 1 giờ ngày 4.2. …Nhắc đến nhà thơ Nông Quốc Chấn, người ta thường nhớ đến hai bài: "Bộ đội Ông Cụ"
và "Dọn về làng". Tôi ngờ rằng sau này khi một số người viết - do không am hiểu người dân tộc thiểu số - cái gì cũng
"a lúi" là bắt nguồn từ "Bộ đội Ông Cụ". Bài thơ giản dị mà nồng ấm - mà hay:
Bộ đội đã đến kìa
A lúi
Những người là người
Ðeo súng ngắn, súng dài, súng dóp...
Hoan hô! Hoan hô!
Nhìn không chớp mắt".
Cái tiếng trầm trồ của người Tày trong bài thơ viết năm 1948 của Nông Quốc Chấn sao mà mộc mạc, thân thương
đến thế. Rồi nữa, bài "Dọn về làng" được giải thưởng ở Ðại hội Thanh niên, sinh viên thế giới Berlin 1951 cũng với
tâm cảm như thế:
Hôm nay Cao Bắc Lạng cười vang
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát ruộng ta quang...".
Không hiểu sao, tôi lại nhớ thêm, và thậm chí nhớ rất nhiều về Nông Quốc Chấn với bài thơ "Nhớ", đã được phổ nhạc
- tất nhiên, trường hợp này hơi bị "đặc biệt", bài hát không thật hay so với bài thơ nguyên bản. Ông Nông Quốc Chấn
đã lấy câu "... Ðèn thương nhớ ai/Mà đèn không tắt" (ca dao của người Việt) làm đề từ cho bài thơ. Ông cứ giãi bày
tâm sự về cái sự nhớ của con suối, con chim, cái nón, cái khăn, chiếc cày, chiếc quạt, ngọn đèn... Cái lạ, cái nhớ cái
thương đến thắt ruột, đến nao lòng là ở khổ cuối, như một lời chấp nhận, khẳng định và tin tưởng rất là "dân tộc":
"Ai nhớ cứ nhớ/Ai đi cứ đi/Chiến trường súng nổ/Hết giặc lại về" (1967).
Khi viết và dẫn câu thơ của Nông Quốc Chấn làm tựa đề - "Khi nghe gió thổi qua Phja Bjoóc", Tô Hoài từng nói:

"Cuộc sống lớn lao và những ngày dung dị đã bồi đắp nên thơ Nông Quốc Chấn. Và chính ông - nói không văn vẻ gì
cả - là cánh chim đầu đàn của những người làm văn học cách mạng của các dân tộc thiểu số. Ông là người mở
đường, là người để lại dấu ấn sâu đậm khó thể quên, không chỉ với văn học các dân tộc thiểu số hiện đại nói riêng
mà có vị trí vững chắc trong tiến trình văn học cách mạng Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX".
Nhà thơ Vũ Quần Phương: “Sự xuất hiện các nhà thơ người dân tộc là một biểu hiện tốt đẹp của đường lối văn nghệ
cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, những bài thơ của Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao Tiền) đã
được bạn đọc và bạn bè trong giới nồng nhiệt chào đón. Một trong những bài thơ đầu tay của Nông Quốc Chấn Dọn
về làng viết năm 1950 đã được đưa vào sách giáo khoa trung học từ rất sớm.
Thơ Nông Quốc Chấn thời kỳ Việt Bắc, tính từ bài Bộ đội Ông Cụ (1948) là thứ thơ mạnh về tự sự, chất trữ tình nằm
ngay trong các chi tiết của câu chuyện thơ. Đó là cái nhìn ngạc nhiên trước những sự việc đã quen mắt. Chính cái
nhìn ấy đã phát hiện những yếu tố mới lạ ẩn giấu trong những sự việc ngỡ như quen rồi, biết rồi, đương nhiên rồi.
Cái nhìn lạ hóa mang đầy vẻ hồn nhiên là chất trữ tình độc đáo của các nhà thơ dân tộc.
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi.
Song song với việc phát huy bản sắc dân tộc, Nông Quốc Chấn học tập, càng ngày càng thông thạo, cách diễn đạt,
rồi cả cách lập ý của thơ vùng xuôi. Về hướng tìm tòi này cũng có ý kiến lo âu sợ thơ ông bị "Kinh hóa". Nhiều bài
thơ sau này, từ những năm 60 trở đi, bút pháp ông quả có nhiều nét lẫn vào thơ vùng xuôi. … Là nhà thơ, đồng thời,
trong nhiều năm, là thứ trưởng, sống ở thủ đô, chỉ đạo văn hóa khắp nước, cũng khó mà giữ mãi được cách nghĩ,
cách nói mang biểu trưng dân tộc, Nông Quốc Chấn khắc phục bằng những chuyến đi về nguồn, bằng đề tài, và một
phần bằng ngôn ngữ, cách nói:
Tiếng động ầm ầm rung gốc cây
Trâu đực húc nhau? Hay hổ đẻ?
Vào xem mới biết máy đang cày.
Thuở mới viết, ông làm thơ bằng tiếng Tày rồi dịch ra tiếng Kinh. Bây giờ, có khi làm ngược lại lại thuận với ông hơn.
Điều đó, nếu có thực, cũng bình thường. Điều quan trọng là thơ Nông Quốc Chấn ngày càng mở rộng đề tài, chủ đề,
thủ pháp diễn đạt... Điều quan trọng nữa là từ người viết phong slư (thơ tình) phục vụ bà con trong bản, Nông Quốc
Chấn đã thành nhà thơ có độc giả trong cả nước và được dịch ra nhiều ngôn ngữ bạn bè”.
Nguyễn Tý
Author: nguyenquanlovely posted on 3/7/2007 3:24:28 PM
Bài số 35 : Đêm nay Bác không ngủ

Minh Huệ
1951
Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi
Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ.
Lặng yên như bếp lửa
Vẻ mặt Bác trầm ngâm
Ngoài trời mưa lâm thâm
Mái lều tranh xơ xác.
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm.
Rồi bác đi dém chǎn
Từng người từng người một
Sợ cháu mình giật thột
Bác nhón chân nhẹ nhàng.
Anh đội viên mơ màng
Như nằm trong giấc mộng
Bóng Bác cao lồng lộng
Â'm hơn ngọn lửa hồng.
Thổn thức cả nổi lòng
Thầm thì anh hỏi nhỏ:
- Bác ơi! Bác chưa ngủ?
- Bác có lạnh lắm không?
- Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc!
Vâng lời anh nhắm mắt
Nhưng bụng vẫn bồn chồn.

Không biết nói gì hơn
Anh nằm lo Bác ốm
Lòng anh cứ bề bộn
Vì Bác vẫn thức hoài.
Chiến dịch hãy còn dài
Rừng lắm dốc lắm ụ
Đêm nay Bác không ngủ
Lấy sức đâu mà đi.
- Lần thứ ba thức dậy
Anh hốt hoảng giật mình
Bác vẫn ngồi đinh ninh
Chòm râu im phǎng phắc.
Anh vội vàng nằng nặc:
- Mời Bác ngủ Bác ơi!
Trời sắp sáng mất rồi
Bác ơi: Mời Bác ngủ
- Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc
Bác thức thì mặc Bác
Bác ngủ không an lòng
Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chǎn...
Trời thì mưa lâm thâm
Làm sao cho khỏi ướt
Càng thương càng nóng ruột
Mong trời sáng mau mau.
Anh đội viên nhìn Bác
Bác nhìn ngọn lửa hồng

Lòng vui sướng mênh mông
Anh thức luôn cùng Bác.
Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh.
Author: nguyenquanlovely posted on 3/7/2007 3:25:31 PM
Bài số 42 : LỜI NÓI DỐI NHÂN ÁI
Gió nói với chiếc lá úa:
“Trong vòng luân hồi bất tận của kiếp lá
màu vàng của mi trong khoảnh khắc nầy
là nét đẹp vĩnh hằng của nhan sắc mùa thu tàn phai nhanh”
“Đừng buồn!
Cái đẹp nào cũng phù du
vì chỉ có cái phù du mới đẹp”
Lá biết gió nói dối nhưng lá vẫn vui vẻ bay vèo theo gió
“CHÀNG thấy NÀNG đẹp rồi chàng mới yêu,
Anh thì ngược lại,
anh yêu em trước rồi sau đó mới biết rằng em đẹp”
Lời nói dối ngược ngạo luật phản xạ của anh chồng
làm ửng hồng đôi má cô vợ trẻ]
Cô gái nói với ông già:
“Bố đẹp lão quá, hồi còn trai chắc bố có số đào hoa”
Ong già – héo queo như một cây kiểng còi –
uống lời nói dối cực kỳ khó tin của cô gái
như uống giọt nước thần có dược chất hồi xuân
Tiếc thay, những lời nói dối ta phải nghe hằng ngày
lại là những lời nói dối không nhân ái!
TRANG THẾ HY - Bến Tre - 1990
Author: nguyenquanlovely posted on 3/7/2007 3:27:41 PM

Bài thứ 80 : Đất nước của Nguyễn Đình Thi
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ lại những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Ðứa đè cổ đứa lột da

×