Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Một số giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của Công ty Tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.79 KB, 69 trang )

Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và các anh chị trong
Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy đã động viên và nhiệt tình giúp
đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu để hoàn thành chuyên đề Luận văn
tốt nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo của trường
Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Ngân hàng -
Tài chính, đã tận tình giảng dạy giúp tôi có được có kiến thức rất bổ ích
trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS. Trần
Đăng Khâm, người mà kiến thức sâu rộng cùng với sự hướng dẫn, chỉ bảo
quý báu, tận tình của thầy đã giúp cho tôi hoàn thành được tốt nhất khoá
luận tốt nghiệp của mình.
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
1
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Mục lục
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về 4
hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính 4
1.1. T ng quan v huy đ ng v n c a Công ty Tài chínhổ ề ộ ố ủ 4
1.1.1. Khái quát v Công ty T i chínhề à 4
1.1.1.1. Khái ni m, vai trò v phân lo i Công ty T i chínhệ à ạ à 4
1.1.1.2. Ho t ng c b n c a Công ty T i chínhạ độ ơ ả ủ à 8
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn 27
tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ 27
Các hình th c huy ng v n v n ch a a d ng v phong phúứ độ ố ẫ ư đ ạ à 47
C c u v n v n còn m t s i m ch a h p lýơ ấ ố ẫ ộ ố đ ể ư ợ 48
Lời mở đầu
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải huy động mọi nguồn


lực của xã hội về con người, công nghệ, và vốn. Đóng góp không nhỏ vào
sự nghiệp chung đó là các tổ chức tài chính - tín dụng.
Tổng công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy là Công ty Tài
chính Nhà nước thuộc Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, hoạt
động theo Luật các tổ chức tín dụng, Luật các doanh nghiệp Nhà nước
và các Luật có liên quan khác. Được thành lập ngày 19/12/1998 theo
Quyết định số 3456/QĐ-BGTVT của Bộ Giáo Thông Vận tải và chính
thức đi vào hoạt động từ ngày 9 tháng 5 năm 2005. Công ty tài chính
Công nghiệp tàu thuỷ là một trong những đơn vị thành viên của Tập
đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam với nhiệm vụ chính là huy động
vốn để đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn, trung và dài hạn trong việc
phát triển ngành Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam.
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
2
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Sau gần 5 năm hoạt động, thông qua hoạt động chủ yếu là huy
động vốn, Tổng Công ty tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã và đang dần
chứng tỏ được vai trò là đầu mối cung cấp và thu xếp vốn chủ yếu cho
các thành viên trong Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, cho các
dự án trọng điểm mà Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam làm chủ
đầu tư trên các phương diện đầu tư mở rộng, đầu tư mới, đầu tư nâng
cấp, và bổ sung vốn lưu động.
Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động này được đánh giá là chưa cao.
Để đứng vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong thời
gian tới và khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình phát triển của
Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, nâng cao hiệu quả huy động
vốn là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Tổng Công ty Tài chính Công
nghiệp Tàu thuỷ. Đề tài “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Tổng
công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ” được lựa chọn nghiên cứu làm
chuyên đề luận văn tốt nghiệp chính là nhằm góp phần đáp ứng đòi hỏi đó

của thực tiễn.
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp ngoài phần mở đầu và kết luận
được chia thành 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của
Công ty Tài chính
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Công ty Tài chính Công
nghiệp Tàu thuỷ
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Công
ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ
Do hạn chế về kinh nghiệm và nhận thức, chuyên đề luận văn tốt
nghiệp không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo
của thầy cô và các bạn.
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
3
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Hà Nội, ngày tháng năm 2010
Sinh viên
Nguyễn Mạnh Thắng
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về
hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính
1.1. Tổng quan về huy động vốn của Công ty Tài chính
1.1.1. Khái quát về Công ty Tài chính
1.1.1.1. Khái niệm, vai trò và phân loại Công ty Tài chính
 Khái niệm Công ty Tài chính
Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận cấu thành của hệ
thống tài chính quốc gia. Nó có vai trò đặc biệt trong việc huy động các
nguồn lực tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho hoạt động sản
xuất, thương mại, dịch vụ và đầu tư phát triển nền kinh tế của đất nước.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các tổ chức trung gian tài
chính cũng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng.

Có nhiều cách phân loại các tổ chức trung gian tài chính khác nhau ở
các nước, song nhìn chung thường được phân thành hai loại là các Ngân
hàng và các Tổ chức Tài chính phi ngân hàng.
Các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng là các tổ chức kinh doanh trong
lĩnh vực tài chính tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động Ngân hàng như là
nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
4
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
kỳ hạn và làm dịch vụ thanh toán. Cũng như các Ngân hàng, các Tổ chức tài
chính phi Ngân hàng cũng có chức năng làm trung gian tài chính: huy động
các món tiền gửi có kỳ hạn, đặc biệt là tiền tiết kiệm để đưa vào lĩnh vực đầu

Các Tổ chức Tài chính phi Ngân hàng bao gồm: Các Công ty Tài
chính và các Công ty cho thuê Tài chính, Công ty Bảo hiểm, Công ty
Chứng khoán, Công ty quản lý Quỹ đầu tư
Các Ngân hàng là loại hình trung gian tài chính tiêu biểu đã được xuất
hiện từ lâu (thế kỷ XV). Nó cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất cho
nền kinh tế. Còn các Công ty Tài chính thì mới được hình thành sau này (thế
kỷ XX). Sự xuất hiện của loại hình này nhằm khắc phục được những hạn chế
về mặt luật pháp đối với hoạt động của các Ngân hàng (các Ngân hàng
Thương mại thường không được phép mở rộng các dịch vụ Tài chính Ngân
hàng sang các lĩnh vực khác) và bổ sung cho các khu vực thị trường mà các
Ngân hàng Thương mại không đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư ngày
càng to lớn.
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về Công ty Tài chính. Bản
thân tên gọi Công ty Tài chính mới xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ
XX. Tại mỗi nước, tuỳ theo chính sách phát triển loại hình các Tổ chức Tài
chính để quy định phạm vi, nội dung các nghiệp vụ mà các Công ty Tài
chính được phép thực hiện. Thị trường tài chính càng phát triển thì cấu trúc

tổ chức và hoạt động của các Công ty tài chính càng phong phú, đa dạng.
Song, các Công ty Tài chính trên thế giới đều có đặc điểm chung là:
- Các Công ty Tài chính là một tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp
trên thị trường tài chính, hạch toán độc lập, được đăng ký kinh doanh theo
pháp luật. Quy mô thường nhỏ và vừa, và không có nhiều chi nhánh như
các Ngân hàng Thương mại.
- Khác với các Ngân hàng Thương mại, được hoạt động cả ba khâu:
nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán, hoạt động của các Công ty Tài chính
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
5
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
hẹp hơn, giới hạn ở một số khâu và mang tính chuyên nghiệp, đặc biệt
trong một số nghiệp vụ nhất định. Đặc biệt các Công ty Tài chính không
được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn, không được thực hiện
nghiệp vụ thanh toán. Các Công ty Tài chính huy động vốn bằng cách phát
hành các công cụ nợ (kỳ phiếu, trái phiếu) và dùng số tiền đó để cho vay
hoặc đầu tư.
 Vai trò của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính là một trung gian tài chính, vì vậy nó mang đầy đủ
vai trò của một trung gian tài chính trong nền kinh tế. Một trung gian tài
chính có nhiệm vụ thu hút, tích tụ tập trung các nguồn vốn nhằm cho những
người có nhu cầu sử dụng vốn vay. Thông qua các phương thức huy động
vốn chủ yếu là phát hành giấy tờ có giá, Công ty Tài chính thực hiện hoạt
động tín dụng, kinh doanh trên thị trường chứng khoán, hoạt động ngoại
hối, các dịch vụ bảo hiểm, bao thanh toán, tư vấn tài chính. Công ty Tài
chính đã đem lại lợi ích đầy đủ cho người có vốn (người cho vay), người
cần vốn (người đi vay) và cho cả nền kinh tế. Với tính chất là một tổ chức
tài chính chuyên môn hoá cao trong một số nghiệp vụ được quy định, các
Công ty Tài chính tạo ra được nhiều lợi thế như sau:
- Thứ nhất: Công ty Tài chính giúp những khách hàng của mình tiết

kiệm được các chi phí về thông tin và giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng
các nguồn vốn. Đặc biệt là tạo ra các cơ hội đầu tư sinh lời cho các cá
nhân: các cá nhân sẽ không dễ gì làm lợi từ các món tiền của mình do thiếu
những thông tin cần thiết trên thị trường tài chính. Hơn nữa, món tiền của
họ lại nhỏ, chi phí giao dịch lại quá lớn, thủ tục đôi khi lại rườm rà khiến cá
nhân gặp khó khăn khi đầu tư. Trong khi đó, Công ty Tài chính có đủ điều
kiện cần thiết để phân tích, tổng hợp tình hình, do đó, việc đầu tư sẽ dễ đem
lại lợi nhuận hơn. Khi gửi tiền vào các Công ty Tài chính, nguồn lợi sẽ
mang lại cho cả hai bên nhờ tính kinh tế do quy mô, nhờ sự phân tán rủi ro
đa dạng hoá và nhờ việc giảm chi phí giao dịch trong tổng thể. Các Công ty
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
6
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Tài chính giúp khách hàng của mình tiết kiệm được các chi phí thông tin và
giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng các nguồn vốn bởi họ luôn có những
chiến lược hợp lý, linh hoạt trong quan hệ với khách hàng, trong việc triển
khai các nghiệp vụ được phép làm nên họ tạo ra được tỷ suất lợi nhuận
cao, đảm bảo đem lại những cơ hội đầu tư tốt cho khách hàng gửi tiền vào
Công ty.
- Thứ hai: Công ty Tài chính là kênh có tính chất chuyên môn hoá
trong việc thu hút và đầu tư các khoản vốn trung và dài hạn. Các Công ty
Tài chính thường có khả năng cung cấp vốn cho các giao dịch dài hạn và có
tính rủi ro cao hơn (đầu tư mạo hiểm). Nhờ đó, Công ty Tài chính đã góp
phần làm phong phú thêm các dịch vụ tài chính, ngân hàng.
- Thứ ba: Hoạt động của các Công ty Tài chính cũng rất phù hợp với
các hoạt động giao dịch vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và do đó rất
phù hợp với các nước đang phát triển. Vì ngoài các Ngân hàng, các Công
ty Tài chính với sự linh hoạt trong hoạt động cũng đã tập trung được một
luợng vốn lớn từ nguồn tiết kiệm từ dân chúng và các tổ chức kinh tế trên
thị trường tài chính. Các Công ty Tài chính có thể phát hành những giấy tờ

có giá với lãi suất cao, mệnh giá thấp… để thu hút được được sự đầu tư của
các nhà đầu tư lớn, nhỏ trên thị trường tài chính vào nó, điều này sẽ khiến
nguồn vốn huy động được nhiều hơn, đồng thời mở rộng được giao dịch
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thứ tư: Đối với các Công ty Tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế,
hay trực thuộc Tổng Công ty có điều kiện hiểu biết sâu về các Công ty
thành viên, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc trong việc quản lý
rủi ro tài chính và huy động vốn cho tập đoàn, trong việc cấp vốn cho các
Công ty thành viên hay khách hàng của Công ty thành viên trong tập đoàn.
- Thứ năm: Sự hình thành và hoạt động của các Công ty Tài chính đã
thúc đẩy cạnh tranh trong đầu tư trên thị trường tài chính. Thông qua việc
đáp ứng các nhu cầu về vốn trung và dài hạn, hoạt động của các Công ty
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
7
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Tài chính đã và đang thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Những
năm gần đây, nhiều loại hình Công ty Tài chính ra đời làm chất lượng phục
vụ được cải thiện, giá vốn đầu tư ngày càng giảm, tạo thêm nhiều khả năng
lựa chọn cho khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng và Công ty Tài chính, mỗi
loại hình đều có thế mạnh riêng, nhưng tất cả đều góp phần tăng cường
hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hiện nay Công ty Tài chính đang có xu hướng xích lại gần các Ngân
hàng Thương mại về mặt chức năng khi thực hiện được ngày càng đa dạng
các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp.
1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính luôn có hai loại hoạt động chính: đó là huy động
vốn và cho vay, ngoài ra nó còn có một số hoạt động kinh doanh khác.
Những năm vừa qua, do hoạt động của Công ty Tài chính bị bó hẹp và
giới hạn hơn ở một số nghiệp vụ nhất định mang tính chuyên nghiệp nên không
những loại hình cho vay của Công ty Tài chính đã luôn có sự thay đổi mà cách

thức huy động để cho vay cũng đã chuyển hướng.
Các Công ty Tài chính không được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc
ngắn hạn, không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Hoạt động huy động
vốn của Công ty Tài chính chủ yếu được thực hiện thông qua huy động tiền
gửi có kỳ hạn hoặc phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các Ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, Công ty Tài chính thường có
vốn lệ thuộc chủ yếu vào các định chế tài chính khác.
Vốn huy động được sử dụng để cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn
đối với các đối tượng sản xuất hoặc tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ bao
thanh toán hoặc thuê mua. Ngày nay, hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong thu nhập của các Công ty Tài chính. Điều này phản ánh nhu cầu
đa dạng hoá các hoạt động và giảm thiểu rủi ro trong việc cho vay. Bên
cạnh đó, nhiều Công ty Tài chính đã theo đuổi phương thức mà các chuyên
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
8
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
gia tài chính gọi là chiến lược thích ứng. Nhiều Công ty sở hữu cá nhân
ngày càng nhắm vào bộ phận khách hàng đặc thù và tạo ảnh hưởng lên toàn
bộ sinh hoạt của họ để chiếm lĩnh những thị trường đặc thù đó.
Như vậy, hoạt động cơ bản của một Công ty Tài chính bao gồm:
 Hoạt động huy động vốn
- Công ty Tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn của các cá
nhân và các tổ chức kinh tế ;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại
giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức và cá
nhân trong và ngoài nước;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước.
 Hoạt động sử dụng vốn

- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các cá nhân và
các tổ chức kinh tế ;
- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ và các tổ chức cá nhân
trong và ngoài nước ;
- Đầu tư vào các dự án phát triển, tái thiết các doanh nghiệp,
ngành kinh tế kỹ thuật, các công trình tạo ra sản phẩm chất
lượng cao, giá trị lớn và mang lại lợi ích quốc gia, quốc tế và
các công trình bảo vệ, duy trì và phát triển môi trường sinh
thái của quốc gia và khu vực.
 Cung cấp các dịch vụ Ngân hàng
Công ty Tài chính được thực hiện tất cả các loại dịch vụ Ngân
hàng trừ việc phát hành và cho khách hàng sử dụng các phương tiện
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
9
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
thanh toán (tiền, thẻ tín dụng, ngân phiếu) và thanh toán vãng lai, liên
ngân hàng (bù trừ).
1.1.2. Huy động vốn của Công ty Tài chính
1.1.2.1. Sự cần thiết huy động vốn đối với Công ty Tài chính
 Vốn là cơ sở nền tảng để Công ty Tài chính thực hiện hoạt
động kinh doanh
Vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và phát
triển sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở để phân phối và đánh giá
hiệu quả các hoạt động kinh tế. Đối với Công ty Tài chính, vốn còn là
cơ sở nền tảng để tiến hành tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật
vậy, với đặc trưng của Công ty Tài chính là tổ chức kinh doanh loại
hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn thì vốn không
còn đơn thuần là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh
doanh chính của Công ty Tài chính, trực tiếp quyết định tới quy mô
hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính. Như vậy, những Công ty

Tài chính có vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại
những Công ty Tài chính không có hoặc có ít vốn cũng đồng nghĩa với
việc gặp nhiều khó khăn khi tiến hành kinh doanh.
 Quyết định khả năng cạnh tranh của Công ty Tài chính
Những Công ty Tài chính có quy mô lớn, trình độ nghiệp vụ của
đội ngũ nhân viên cao cũng như trang bị phương tiện kỹ thuật hiện
đại là tiền đề quan trọng cho việc thu hút vốn. Đồng thời khả năng vốn
lớn lại là điều kiện thuận lợi đối với Công ty Tài chính trong việc mở
rộng quan hệ tín dụng với các Ngân hàng và các tổ chức kinh tế xã hội
trong nền kinh tế. Khi đó, Công ty Tài chính sẽ thu hút được ngày
càng nhiều khách hàng đến với mình, kết quả là doanh số hoạt động
của Công ty Tài chính sẽ tăng lên nhanh chóng và Công ty Tài chính
sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Mặt khác, vốn lớn sẽ giúp
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
10
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
cho Công ty Tài chính có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa dạng
trên thị trường, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như: kinh doanh
chứng khoán, kinh doanh dịch vụ thuê mua chứ không chỉ dừng lại ở
dịch vụ cho vay đơn thuần. Thêm vào đó, chính các hình thức kinh
doanh đa dạng này đã góp phần phân tán giảm thiểu rủi ro, tạo thêm
vốn cũng như tăng sức cạnh tranh cho Công ty Tài chính trên thị
trường.
 Đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của Công ty Tài chính
Trong hoạt động Công ty Tài chính, uy tín có thể nói là yếu tố quan
trọng, quyết định trực tiếp đến sự sống còn của Công ty Tài chính. Uy tín
của Công ty Tài chính trong kinh doanh được thể hiện trước hết ở khả năng
sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng. Khả năng thanh toán chi trả
của Công ty Tài chính hàng càng cao thì uy tín cũng như vốn khả dụng của
Công ty Tài chính càng lớn. Hay nói cách khác, khả năng thanh toán của

Công ty Tài chính tỷ lệ thuận với lượng vốn của Công ty Tài chính nói
chung và vốn khả dụng của Công Tài chính nói riêng.
Như vậy, với khả năng cung ứng vốn lớn, các Công ty Tài chính có
thể tiến hành hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, cạnh
tranh có hiệu quả nhưng đồng thời lại giữ được chữ tín và nâng cao danh
tiếng của Công ty Tài chính.
 Quyết định quy mô hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính.
Thực tế đã chứng minh, những Công ty Tài chính có vốn lớn
thường có khoản mục đầu tư và cho vay đa dạng hơn rất nhiều so với
những Công ty Tài chính có quy mô vốn nhỏ, phạm vi và khối lượng cho
vay của các Ngân hàng này cũng lớn hơn. Hơn nữa, do lượng vốn hạn
hẹp nên các Công ty Tài chính nhỏ sẽ không phản ứng nhanh nhạy trước
những tình huống biến động về lãi suất thị trường, từ đó tác động đến
khả năng huy động vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần
kinh tế. Vì vậy, khi khả năng huy động vốn của Công ty Tài chính dồi
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
11
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
dào thì chắc chắn Công ty Tài chính sẽ mở rộng và đáp ứng được nhu
cầu vay vốn, có điều kiện để mở rộng thị trường tín dụng, tăng đều khả
năng thanh toán và dịch vụ Công ty Tài chính.
1.1.2.2. Các hình thức huy động vốn của Công ty Tài chính
Vốn của Công ty Tài chính bao gồm Vốn chủ sở hữu và nợ, vì vậy
huy động vốn của Công ty Tài chính bao gồm huy động vốn chủ sở hữu và
huy động động nợ.
a. Huy động Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động, Công ty Tài chính phải có một lượng vốn nhất
định. Đây là loại vốn Công ty tài chính có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho Công ty Tài chính. Hình thức huy động vốn
này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của Công ty

Tài chính.
 Huy động vốn ban đầu (vốn góp)
Tuỳ theo tính chất của mỗi Công ty Tài chính mà nguồn gốc hình
thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là Công ty Tài chính Nhà nước, vốn ban
đầu do Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là Công ty Tài chính Cổ
phần, vốn sẽ do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ
phiếu. Đối với Công ty Tài chính liên doanh vốn do các bên liên doanh
góp. Công ty Tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng, vốn ban đầu sẽ do
chính tổ chức tín dụng đó cấp bằng vốn chủ sở hữu của mình.
 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, Công ty Tài chính có thể tăng vốn chủ sở
hữu theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
+ Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm
để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết hoặc để đáp ứng
yêu cầu ra tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định Đặc điểm
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
12
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
của hình thức huy động này là không thường xuyên, tuy nhiên, nó giúp cho
Công ty Tài chính có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
+ Nguồn từ lợi nhuận không chia: Trong điều kiện thu nhập sau thuế
lớn hơn không, Công ty Tài chính có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu
bằng cách chuyển một phần thu nhập sau thuế thành vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ
tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chính Công ty Tài chính về tích luỹ và
tiêu dùng.
 Các quỹ
Công ty Tài chính có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước
tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được
tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù
đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần

đánh giá lại tài sản của Công ty Tài chính và chênh lệch giữa thị giá và
mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể
của từng nước, các Công ty Tài chính có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng, quỹ giám đốc
Các quỹ của Công ty Tài chính thuộc sở hữu của Công ty. Nguồn
hình thành các quỹ này là từ thu nhập của Công ty. Tuy nhiên, một số quỹ
không được sử dụng lâu dài.
 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung hạn và dài hạn của Công ty Tài chính mà có
khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của
vốn chủ sở hữu của Công ty Tài chính (vốn bổ sung) do nguồn này có một
số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có
thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
b. Huy động nợ
Công ty Tài chính có thể sử dụng nhiều công cụ huy động nợ khác
nhau nhưng nhìn chung vẫn tập trung chủ yếu vào các công cụ sau:
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
13
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
 Nhận tiền gửi và làm đại lý bảo hiểm
Công ty Tài chính được nhận tiền gửi của mọi tổ chức và cá nhân trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nguồn vốn huy động từ tiền gửi chưa
tương xứng với vai trò của nó trong tổng nguồn vốn huy động của Công ty Tài
chính.
Cùng với xu thế đa dạng hoá hoạt động, Công ty Tài chính còn thực
hiện dịch vụ bảo hiểm. Dịch vụ bảo hiểm giúp cho Công ty Tài chính huy
động được một lượng vốn rất lớn từ khoản thu phí bảo hiểm. Khoản phí
này trong thời gian nhàn rỗi sẽ là một nguồn vốn quan trọng.
 Vay trực tiếp các tổ chức kinh tế trong nước và quốc tế
Công ty Tài chính có thể vay vốn trực tiếp từ mọi tổ chức, cá nhân

nếu có nhu cầu. Nguồn vốn này có thể là nguồn ngắn hạn, trung hạn
hoặc dài hạn. Việc vay mượn có thể diễn ra trong ngắn hạn để phục vụ
nhu cầu thanh toán nhanh như vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc
vay từ các trung gian tài chính để tài trợ cho các dự án. Tuy nhiên các
Công ty Tài chính chủ yếu vay trực tiếp từ Công ty mẹ và các thành viên
cùng tập đoàn với lãi suất ưu đãi.
 Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại
giấy tờ có gía khác
Trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn.
Trái phiếu hay còn gọi là trái khoán là một công cụ nợ mà người phát hành
đảm bảo sẽ chi trả cho người thụ hưởng một khoản tiền nhất định sau một
khoảng thời gian xác định.
Sự hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Lãi suất trái phiếu: người đầu tư luôn muốn hưởng một lãi suất cao
nhưng người phát hành phải cân nhắc mức lãi suất có thể chấp nhận được.
- Kỳ hạn của trái phiếu: tuỳ từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế
hay tâm lý mà trái phiếu với kỳ hạn khác nhau được ưa thích khác nhau.
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
14
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao nhưng lãi suất để bù đắp rủi ro cũng
càng cao.
- Uy tín của doanh nghiệp: các doanh nghiệp có uy tín càng vững
mạnh thì dễ dàng phát hành trái phiếu ra công chúng.
Có rất nhiều loại trái phiếu hiện nay đang lưu hành trên thị trường tài
chính mà Công ty Tài chính có thể phát hành: Trái phiếu có lãi suất cố
định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu
công trình.
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là một công cụ nợ được bán cho người gửi
tiền. Nó thanh toán lãi hàng năm theo một khoản đã định và khi đến kỳ hạn

thanh toán thì hoàn trả hết giá mua ban đầu. Chứng chỉ tiền gửi có thể mua
bán trên thị trường.
 Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư của Chính phủ, các Tổ chức và cá
nhân
Uỷ thác là việc Công ty Tài chính nhận quản lý một lượng giá trị của
một đơn vị kinh tế khác. Công ty Tài chính có quyền sử dụng nhưng không
có quyền sở hữu lượng giá trị này. Lợi nhuận thu từ việc sử dụng, đầu tư trên
lượng giá trị sẽ trích một phần gọi là phí uỷ thác cho Công ty.
Có nhiều hình thức uỷ thác như uỷ thác đầu tư, uỷ thác quản lý tài
sản, uỷ thác sử dụng vốn. Nguồn uỷ thác ở Công ty Tài chính hiện nay chủ
yếu là uỷ thác đầu tư.
Công ty Tài chính trong tập đoàn ở vị trí người được uỷ thác lẫn
người uỷ thác. Các tổ chức uỷ thác cho Công ty Tài chính chủ yếu là Công
ty mẹ, các đơn vị thành viên và các trung gian tài chính khác. Công ty mẹ
thường thông qua việc uỷ thác vốn cho Công ty Tài chính để hỗ trợ vốn
đầu tư, phát triển cho các thành viên. Mục đích thành lập của Công ty Tài
chính chủ yếu là huy động vốn, hỗ trợ các đơn vị trong Tổng Công ty và
đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật nên Công ty Tài chính có lợi thế về việc
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
15
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
nắm thông tin, nghiệp vụ chuyên môn trong ngành, dẫn đến việc thẩm định
các dự án tín dụng chính xác hơn, mối quan hệ với khách hàng chặt chẽ
hơn. Do vậy mà các trung gian tài chính khác khi muốn đầu tư vào một dự
án trong ngành sẽ uỷ thác qua Công ty Tài chính nhằm hạn chế rủi ro.
1.2. Hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính hoạt động trong sự cạnh tranh khốc liệt của các
tổ chức tín dụng khác. Hoạt động của Công ty Tài chính rất nhạy cảm
đối với nền kinh tế. Bất kỳ một biến động kinh tế, chính trị, xã hội nào

cũng ngay lập tức gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và
hoạt động huy động vốn nói riêng của Công ty Tài chính và đòi hỏi Công
ty Tài chính phải có những điều chỉnh về cơ cấu. Do vậy, hiệu quả huy
động vốn không chỉ dừng lại ở việc đánh giá chính xác đúng đắn hoạt
động huy động vốn của Công ty Tài chính mà còn là khả năng thích nghi
và khẳng định sự phát triển của mình trên thị trường.
Hiệu quả hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính được
thực hiện để đáp ứng cho hoạt động của Công ty Tài chính nói chung và
cho nhu cầu đầu tư vốn của Công ty Tài chính nói riêng. Vì vậy, hiệu
quả huy động vốn của Công ty Tài chính được thể hiện ở khả năng đáp
ứng cao nhất nhu cầu vốn cho hoạt động của Công ty Tài chính. Khả
năng đó được thể hiện thông qua sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu
đầu tư vốn. Đây chính là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất để đánh giá
hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính. Bên cạnh khả năng đáp
ứng kịp thời nhu cầu đầu tư vốn thì hiệu quả huy động vốn còn phải
được thể hiện thông qua chất lượng của các nguồn vốn huy động. Chất
lượng của nguồn vốn huy động của Công ty Tài chính được thể hiện ở cơ
cấu vốn hợp lý, an toàn và chi phí vốn, đảm bảo khả năng sinh lời của
Công ty. Ngoài ra, hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính còn thể
hiện bởi sự ổn định của lượng vốn huy động. Điều đó có ý nghĩa rất quan
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
16
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
trọng, nó tạo cho hoạt động của Công ty Tài chính luôn được an toàn và
hiệu quả.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính chính là khả
năng đáp ứng nhu cầu đầu tư vốn của Công ty Tài chính với một cơ cấu hợp
lý, an toàn, ổn định cùng với chi phí vốn phù hợp với khả năng sinh lời của
Công ty.
Xuất phát từ nhận định trên, để đánh giá một cách xác thực hiệu quả

hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính cần dựa trên các tiêu chí cơ
bản sau đây:
- Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn
- Cơ cấu vốn hợp lý và an toàn
- Chi phí vốn hợp lý
- Sự ổn định của các hình thức huy động vốn
1.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính
1.2.2.1. Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn
Đây là chỉ tiêu khó tính toán cụ thể mà dựa trên so sánh giữa nhu cầu
vốn và nguồn huy động được. Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp có thể là
nhu cầu ngắn hạn như: thanh toán hay nhu cầu dài hạn như: đầu tư, cho vay
vào các dự án dài hạn.
Nhu cầu về vốn của Công ty Tài chính có thể tính toán, dự toán
nhưng khó chính xác tuyệt đối do có những nhu cầu nảy sinh tức thời. Bởi
vậy, việc huy động không chỉ thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu dự tính trước
mà còn thể hiện ở khả năng đáp ứng linh hoạt các nhu cầu tức thời trong
ngắn hạn.
Có các loại nhu cầu về vốn sau mà hoạt động vốn mà một Công ty
Tài chính cần đáp ứng:
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
17
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
- Nhu cầu về dự trữ, thanh toán: Mỗi Công ty Tài chính tuỳ vào từng
giai đoạn mà sẽ tính toán được mức ngân quỹ tối ưu. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp còn phát sinh một số nhu cầu vốn trong ngắn hạn do phải thanh toán
nhanh hay đảm bảo tỷ lệ dự trữ theo quy định của pháp luật.
- Nhu cầu cho hoạt động kinh doanh: Mọi Công ty Tài chính muốn
thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thì đều phải cần có vốn. Nhu cầu
vay vốn của khách hàng, nhu cầu đầu tư, liên doanh sẽ không thể thực
hiện được nếu Công ty Tài chính không huy động được vốn. Đây chính là

nhu cầu quan trọng nhất mà Công ty Tài chính cần phải đáp ứng.
- Các nhu cầu khác như: nhu cầu mua sắm, nâng cấp tài sản cố
định… Mọi hoạt động về mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định hay
mở rộng hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính đều dẫn đến nhu cầu
về vốn.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động
được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán và các nhu cầu khác để thấy
nguồn vốn huy động có thể đáp ứng được bao nhiêu, Công ty Tài chính
sẽ phải huy động thêm bao nhiêu để thoả mãn nhu cầu ấy.
Để đạt được mục tiêu này, Công ty Tài chính phải xây dựng được
một kế hoạch huy động vốn hợp lý bao gồm các loại vốn ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng vốn, tránh tình trạng bất hợp
lý giữa vốn huy động với nhu cầu sử dụng vốn.
1.2.2.2. Cơ cấu vốn hợp lý và an toàn
Nói đến cơ cấu vốn tức là đề cập tới tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ mà một
Công ty Tài chính đang sử dụng. Một cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được cân
bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Bởi vậy, muốn đánh giá về hoạt động huy
động vốn là hiệu quả và hợp lý hay không phải xem xét đến cơ cấu vốn của
Công ty Tài chính đem lại từ việc huy động vốn. Một trong những mục tiêu
quan trọng của việc huy động vốn là nhằm hình thành lên cơ cấu vốn tối ưu
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
18
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
cho Công ty trong từng thời điểm cụ thể. Giữa cơ cấu vốn và huy động vốn
còn có tác động qua lại: cơ cấu vốn sẽ góp phần quyết định đến hoạt động
huy động vốn và ngược lại hoạt động huy động vốn hình thành nên cơ cấu
vốn.
Ngày nay, các Công ty Tài chính không còn chịu hoạt động bó hẹp
trong phạm vi một vùng nào đó, mà luôn cố gắng mở rộng mạng lưới hoạt
động kinh doanh của mình thông qua việc mở chi nhánh, văn phòng đại

diện trong và ngoài nước. Kết quả là mối quan hệ hợp tác kinh doanh giữa
Công ty Tài chính và các tổ chức kinh tế khác ngày càng được tăng cường
chặt chẽ hơn. Điều này giúp Công ty Tài chính hoạt động hiệu quả hơn,
nhưng mặt khác cũng sẽ nguy hiểm hơn nếu như một trong những đối tác
kinh doanh hoạt động yếu kém hay thậm chí bị phá sản. Vì vậy, rủi ro trong
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của Công ty
Tài chính nói riêng cũng tăng lên theo mức độ phát triển về mặt tổ chức và
quy mô hoạt động kinh doanh.
Như vậy, để đảm bảo an toàn nguồn vốn, trước hết là nằm ở bản thân
việc quản lý điều hành của chính Công ty Tài chính đó, bằng việc chấp
hành đầy đủ những chỉ tiêu về an toàn vốn như: Hệ số an toàn vốn của chủ
so với tổng tiền gửi, Hệ số giữa vốn chủ sở hữu và các vốn dài hạn, Hệ số
thanh toán…. Việc có áp dụng triệt để những chỉ tiêu trên hay không là còn
tuỳ thuộc vào quy định của Ngân hàng nhà nước, vào chiến lược kinh
doanh, vào đặc điểm riêng của từng Công ty Tài chính trong những điều
kiện cụ thể nhất định. Tuy nhiên, nếu mỗi Công ty Tài chính áp dụng được
thì nó không chỉ đảm bảo an toàn cho bản thân Công ty Tài chính mà còn
củng cố sự vững chắc chung cho toàn hệ thống tài chính quốc gia.
1.2.2.3. Chi phí vốn hợp lý
Chi phí vốn nói chung được hiểu là chi phí cơ hội của việc sử dụng
vốn. Phân chia theo nợ và vốn chủ thì chúng ta cũng có chi phí của nợ và
chi phí vốn chủ.
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
19
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Đối với hoạt động huy động nợ thì chi phí của vốn chính là chi phí
nợ được tính bằng lãi suất của khoản nợ đó. Bên cạnh đó còn có một số chi
phí như chi phí tìm kiếm nguồn, chi phí phát hành.
Chi phí vốn chủ có thể được coi bằng lợi nhuận kỳ vọng của chủ sở
hữu trên khoản đầu tư. Có ba cách xác định mức lợi nhuận kỳ vọng này là

phương pháp CAPM, phương pháp luồng tiền chiết khấu và phương pháp
lấy lãi suất trái phiếu cộng với phần thưởng rủi ro. Chi phí vốn chủ có thể
xác định dễ dàng hơn nếu có một thị trường tài chính phát triển với đầy đủ
thông tin và công cụ. Còn đối với những nước có thị trường tài chính chưa
phát triển như Việt Nam thì chi phí vốn chủ chưa mấy được quan tâm cũng
như hiểu cặn kẽ.
Như vậy, chỉ tiêu chi phí vốn dùng để đánh giá hiệu quả của việc huy
động vốn là nguồn huy động phải có chi phí thấp, hoặc chi phí hợp lý. Việc
xác định nguồn có chi phí hợp lý là vấn đề hết sức quan trọng đối với hoạt
động huy động vốn của Công ty Tài chính. Chi phí vốn phải đảm bảo hoạt
động sử dụng vốn đem lại lợi nhuận đủ để bù đắp chi phí. Đảm bảo hoạt
động của Công ty Tài chính có hiệu quả.
Quản lý chi phí vốn là hoạt động thường xuyên và quan trọng của
mỗi Công ty Tài chính vì mỗi sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn hay lãi suất
đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập sau
thuế của Công ty Tài chính.
1.2.2.4. Sự ổn định của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố
như đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp cần phải có sự ổn định, tức là không
có sự thay đổi đột ngột trong thời gian sử dụng. Nếu vốn huy động được
thay đổi đột ngột, khó dự đoán sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh. Ví
dụ, nguồn tiền gửi thường xuyên thay đổi do khách hàng lớn hay rút tiền
đột ngột sẽ dẫn tới làm áp lực thanh toán cho ngân quỹ, đồng thời ảnh
hưởng tới hoạt động sử dụng vốn. Hay việc người góp vốn đòi rút vốn đột
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
20
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
ngột sẽ làm suy giảm tiềm lực tài chính của Công ty. Hơn nữa việc nguồn
vốn thay đổi đột ngột sẽ làm tăng chi phí của Công ty trong việc tìm kiếm
các nguồn vốn khác để bù đắp.

Thông thường, các nguồn vốn huy động đều có thể dự tính trước thời
gian sử dụng như nguồn tiền gửi có thời hạn, nguồn phát hành có thời gian
xác định, hay nguồn đi vay cũng có thời hạn vay. Bên cạnh đó có những
nguồn có thời gian gắn liền với thời gian hoạt động của Công ty như phát
hành cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại. Mỗi nguồn đều có đặc điểm riêng về sự ổn
định và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Bởi vậy, Công ty cần tính đến sự ổn
định của các nguồn trên cơ sở phân tích nhiều mặt để có sự lựa chọn.
Vốn huy động của Công ty Tài chính phải có sự tăng trưởng ổn định
về số lượng để thoả mãn nhu cầu tín dụng, cũng như các hoạt động kinh
doanh khác ngày càng tăng của Công ty Tài chính. Tuy nhiên, vốn huy
động được phải luôn ổn định về mặt thời gian. Nếu Công ty Tài chính huy
động được một lượng vốn lớn nhưng lại không ổn định, thường xuyên có
những dòng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ
không lớn, hiệu quả huy động vốn không cao, thường xuyên phải đối đầu
với vấn đề thanh khoản. Kết quả, trong nhiều trường hợp Công ty Tài chính
sẽ gặp phải rủi ro lớn là mất khách hàng. Ngược lại, nếu vốn huy động
được ổn định, dù nhỏ Công ty cũng có thể yên tâm sử dụng số tiền đó vào
các hoạt động chắc chắn, lâu dài và thu được lợi nhuận cao.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua: mức độ tăng giảm nguồn vốn huy
động và số lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nếu nguồn vốn tăng đều qua
các năm, có tốc độ gia tăng của từng thành phần vốn huy động ổn định, đều
đặn, thì nguồn vốn huy động đó được coi là nguồn vốn tăng trưởng ổn
định.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của Công ty
Tài chính
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
21
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
 Trình độ cán bộ và tổ chức quản lý tại Công ty

Nhân tố này ảnh hưởng tới công tác huy động vốn không trực tiếp
nhưng lại có vai trò rất quan trọng. Nó thường biểu hiện qua trình độ, thái
độ phục vụ của các nhân viên. Một Công ty Tài chính có hệ thống cán bộ
nhân viên có thái độ phục vụ vui vẻ, lịch sự, tận tình, chu đáo đối với khách
hàng đến gửi tiền, tác phong làm việc nhanh nhẹn với chuyên môn nghiệp
vụ vững vàng sẽ gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng. Đây là một
điểm mạnh của Công ty Tài chính giúp Công ty đó cạnh tranh với các Tổ
chức tín dụng khác.
Lãnh đạo Công ty giỏi sẽ đưa ra những quyết định đúng đắn, phù
hợp với tình hình chung của ngành cũng như đất nước. Nhân viên có trình
độ cao có khả năng đưa ra nhiều sáng kiến trong công tác huy động vốn
cũng như các hoạt động khác của Công ty Tài chính. Tất cả những biểu
hiện trên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài
chính trên thị trường tài chính.
 Hiệu quả cho vay, đầu tư của Công ty
Hiệu quả cho vay, đầu tư của Công ty có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu
quả huy động vốn. Nếu hoạt động cho vay, đầu tư của Công ty được thực
hiện tốt, đồng nghĩa với việc vốn huy động sẽ được sử dụng có hiệu quả.
Việc sử dụng vốn huy động có hiệu quả sẽ tạo ra nhu cầu về sử dụng vốn,
từ đó tạo động lực thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả huy động vốn.
Ngược lại, nếu hoạt động cho vay, đầu tư của Công ty hoạt động
không có hiệu quả sẽ dẫn đến nguồn vốn huy động không được sử có hiệu
quả. Như vậy, sẽ gây tác động đến hoạt động huy động vốn, làm giảm hiệu
quả huy động vốn của Công ty.
Như vậy, hiệu quả cho vay, đầu tư của Công ty sẽ tác động trực tiếp
tới hiệu quả huy động vốn. Để hiệu quả huy động vốn đạt được thì hiệu quả
sử dụng vốn cũng phải đạt được,
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
22
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp

 Tình hình Tài chính của Công ty
Tình hình tài chính của Công ty cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả huy động vốn. Tình hình tài chính Công ty tốt hay yếu kém đều
ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn. Các nhà cung ứng vốn luôn muốn
tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành
mạnh.Vì vậy, nếu tình hình tài chính của Công ty yếu kém, khả năng thanh
toán của Công ty thấp thì Công ty khó có thể huy động thêm vốn từ các tổ
chức cá nhân trong nền kinh tế. Ngược lại, nếu Công ty đang có tình hình
tài chính tốt sẽ có điều kiện thuận lợi để huy động thêm vốn. Từ đó nâng
cao thêm được hiệu quả huy động vốn.
Tình hình tài chính chúng ta đề cập ở đây còn bao gồm cả nhu cầu về
vốn của Công ty. Tình hình tài chính khả quan, các tỷ số doanh lợi tài sản
(ROA), doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) cao đủ bù chi phí nợ sẽ dẫn đến xu
hướng sử dụng nợ nhiều hơn của Công ty, như vậy hiệu quả vốn sẽ được tăng
cường.
 Uy tín của Công ty
Nếu Công ty có uy tín lớn sẽ thu hút được nhiều khách hàng trong
việc nhận tiền gửi hay phát hành các công cụ nợ. Ngược lại, Công ty chưa
có tên tuổi sẽ rất khó khăn trong việc thu hút vốn từ khách hàng. Bởi vậy,
việc tạo danh tiếng cho Công ty là hết sức quan trọng.
Uy tín của Công ty thể hiện ở rất nhiều mặt như:
- Khả năng cung cấp và đáp ứng các dịch vụ tài chính: Một Công ty
Tài chính luôn có các chính sách lãi suất, chính sách sản phẩm, chính sách
khách hàng theo đúng qui định chung của Ngân hàng Nhà nước, mà vẫn
phù hợp với những biến động của ngành, của nền kinh tế sẽ có lợi thế rất
lớn trong việc thu hút khách hàng. Tâm lý khách hàng luôn thích những
Công ty Tài chính hứa hẹn đem lại cho mình một khoản lợi lớn nhất từ
khoản tiết kiệm của mình và phục vụ mình một cách tốt nhất. Ngoài ra, các
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
23

Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
dịch vụ do Công ty Tài chính cung ứng cũng tác động đến các tổ chức kinh
tế có nhu cầu gửi tiền vào Công ty, là đối tượng trung tâm của công tác huy
động vốn. Hệ thống dịch vụ đa dạng, tốt sẽ làm hài lòng tổ chức, cá nhân
gửi tiền.
- Cơ sở vật chất và công nghệ: Đây là điều kiện cần thiết và quan
trọng để đánh giá tình hình hoạt động và uy tín của Công ty Tài chính. Khi
một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào đó có nhu cầu gửi tiền, hay hợp tác
làm ăn với Công ty Tài chính thì họ sẽ tìm đến Công ty có hình thức bề
ngoài có thể tin cậy nhất tức là có trụ sở ở địa điểm dễ nhìn thấy nhất, được
xây dựng ưa nhìn, có trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiến tiến, tiện lợi,
tạo được không khí lịch sự điều đó sẽ tạo nên uy tín của Công ty Tài
chính đối với khách hàng.
 Chính sách huy động vốn của Công ty
Chính sách huy động vốn của Công ty Tài chính sẽ ảnh hưởng quyết
định đến hiệu quả huy động vốn của Công ty. Chính sách huy động vốn của
Công ty sẽ quyết định số lượng vốn và cơ cấu vốn huy động. Số lượng vốn
phải đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư của Công ty còn cơ cấu vốn phải đạt
mục tiêu cân bằng giữ rủi ro và lợi nhuận. Như vậy, nếu Công ty có chính
sách huy động vốn phù hợp về số lượng vốn và cơ cấu vốn thì hiệu quả huy
động vốn sẽ đạt được.
Do chính sách huy động vốn tác động tới hiệu quả huy động vốn của
Công ty, vì vậy nhân tố ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn cũng ảnh
hưởng tới hiệu quả huy động vốn, đó là các nhân tố:
- Thứ nhất là rủi ro kinh doanh: Rủi ro càng lớn thì tỷ lệ sử dụng nợ
càng thấp, doanh nghiệp ít huy động vốn bằng các công cụ nợ.
- Thứ hai là chính sách thuế và các chính sách tín dụng khác: Chính
sách thuế ảnh hưởng tới chi phí của nợ thông qua tiết kiệm nhờ thuế. Nếu
thuế cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do tiết kiệm nhờ thuế.
Nguyễn Mạnh Thắng – NH38

24
Chuyên đề luận văn tốt nghiệp
Từ đó, nghiệp vụ huy động vốn cũng thay đổi theo hướng huy động nguồn
như đi vay, phát hành trái phiếu Còn các chính sách tín dụng khác cũng
tác động trực tiếp đến từng loại hình huy động vốn. Ví dụ như hình thức
huy động vốn uỷ thác đầu tư. Thời gian trước, Chính phủ có quy định tổ
chức nhận uỷ thác phải chịu trách nhiệm khi dự án xảy ra rủi ro, còn ngày
nay, tổ chức uỷ thác lại phải chịu trách nhiệm khi dự án xảy ra rủi ro.
Chính vì vậy, lượng vốn uỷ thác đầu tư sẽ được giảm dần. Tổ chức tín dụng
có vốn để uỷ thác tự đầu tư thay vì uỷ thác cho một tổ chức tín dụng khác.
- Thứ ba là quan điểm của bản thân nhà quản lý doanh nghiệp sẽ có
sự ưa thích trong sử dụng nợ hay vốn chủ. Quan điểm này sẽ dẫn đến
những quyết định trong chiến lược huy động vốn của doanh nghiệp. Điều
đó cũng gây ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vón
1.3.2. Nhân tố khách quan
 Môi trường pháp lý.
Nhân tố pháp lý ở đây được hiểu là những quy định của pháp luật và
Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động huy động vốn của Công ty Tài
chính. Vì Công ty Tài chính là một trung gian tài chính nên chịu sự điều tiết
của luật về các tổ chức tín dụng và sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Trung
ương. Công ty Tài chính phải tuân thủ những quy định của pháp luật về huy
động vốn. Như vậy, những quy định của pháp luật ảnh hưởng đến hiệu quả
huy động vốn của Công ty Tài chính, cụ thể là đến lượng vốn huy động và cơ
cấu vốn huy động. Đây là nhân tố phải quan tâm đến đầu tiên trong hoạt động
huy động vốn.
Một môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn thiện sẽ là điều kiện thuận lợi
cho hoạt động Công ty Tài chính nói chung và công tác huy động vốn nói
riêng. Bởi vì khi có một hành lang pháp lý chặt chẽ, thuận lợi các tổ chức kinh
doanh tiền tệ sẽ có điều kiện hoạt động năng động, an toàn hơn, có khả năng
huy động được tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước đáp ứng kịp thời

Nguyễn Mạnh Thắng – NH38
25

×