Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

nghiên cứu những hoạt động cơ bản của các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam giai đoạn 2003-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.17 KB, 53 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Hệ thống tài chính trên thế giới đã xuất hiện và tồn tại gần hai thế kỉ,
ngay từ những ngày đầu, nó đã trở nên được ưa chuộng với những hình thái
còn khá đơn giản và ngày càng có những sự cải tiến để hệ thống tài chính trở
thành kênh lưu thông tiền tệ hiệu quả và tiện ích. Lúc nào cũng thế, từ khi hệ
thống tài chính được nhắc đến và được quan tâm thì nó đã trở thành tâm điểm
của nền kinh tế. Và có những đột phá, những tiến bộ, nhưng có cũng nhiều rắc
rối phát sinh từ nó. Người ta nhắc đến nhiều hơn những thành viên đắc lực
trong hệ thống tài chính - các tổ chức tài chính trung gian,
Nhưng ở Việt Nam thì hệ thống tài chính mới thực sự phát triển mạnh
mẽ và thay đổi diện mạo từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Cho tới
nay, nếu hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính trên thế giới là điểm
nóng thì ở Việt Nam là bước đầu của sự chuyên nghiệp hóa và đi sâu vào
trong dân chúng. Các tổ chức tài chính trung gian, ngoài chức năng tạo vốn,
cung ứng vốn, và kiểm soát vốn cho nền kinh tế, còn có nhiệm vụ là bằng khả
năng nghiệp vụ của mình, tạo ra và giữ được lòng tin của dân chúng. Nghiên
cứu về các hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam giai
đoạn 2003 – 2008 phản ánh kịp thời các hoạt động cơ bản của những “người
dẫn dắt” trong hệ thống tài chính và quá trình phát triển của lĩnh vực tiền tệ,
hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề án “ nghiên cứu những hoạt động cơ bản
của các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam giai đoạn 2003-2008” là
các hoạt động chủ yếu của các tổ chức tài chính trung gian như: ngân hàng
thương mại, công ty bảo hiểm, công ty tài chính… Các tổ chức này đang phát
triển khá mạnh mẽ và ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn tới đời sống của nhân
dân. Dưới sự chỉ đạo bởi các chính sách của nhà nước và các cơ quan chức
năng, các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam với mục tiêu phát triển xã
hội lành mạnh vì dân sinh xã hội.
Không gian nghiên cứu là Việt Nam: Việt Nam là đất nước đang phát
triển và là nước có tốc độ phát triển cao trong khu vực và trên thế giới. Đất


nước Việt Nam bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, với nền kinh tế quan liêu
bao cấp tồn tại trong một thời gian khá dài nên hệ thống các tổ chức tài chính
trung gian còn rất non trẻ. Mặc dù vậy, thị trường Việt Nam hiện nay được
1
đánh giá là năng động và tiềm năng, và ổn định thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài. Hơn nữa, ở nước ta cũng đang có những chuyển biến rất mạnh
mẽ về cơ chế tạo đà cho sự hội nhập sâu rộng với thế giới.
Về thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2003-2008: đây là giai đoạn được
đánh giá là bùng nổ và đầy biến động của thị trường tài chính và với sự lớn
mạnh trưởng thành của hệ thống tài chính trung gian. Có nhiều đổi mới về
chính sách, quá trình hội nhập với thế giới, đặc biệt là việc gia nhập WTO.
Phương pháp nghiên cứu: bài viết sử dụng chủ yếu sử dụng phương pháp
lịch sử. Nó đi dọc quá trình phát triển từ năm 2003 đến năm 2008 gắn với
những thay đổi về lĩnh vực nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề án là: tìm hiểu về các tổ chức tài chính trung
gian, hiểu về nguyên lý hoạt động, quản lý của các tổ chức tài chính trung
gian và thực trạng của Việt Nam về vấn đề này.
Đề tài bao gồm ba chương:
Chương I: Lý thuyết chung về hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian
Chương II: Các hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian ở Việt
Nam từ năm 2003 đến năm 2008.
Chương III: Nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung gian tài chính ở
Việt Nam
2
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
1. Khái niệm và vai trò của các tổ chức tài chính trung gian:
1.1.Khái niệm về các tổ chức tài chính trung gian:
1.1.1. Tài chính: là phạm trù kinh tế, phản ánh các mối quan hệ phân

phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị, phát sinh trong quá trình hình
thành, tái lập, phân phối các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế
nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định. Có bốn mối
quan hệ tài chính tài chính:
Quan hệ giữa nhà nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư.
Quan hệ giữa các tổ chức tài chính trung gian với các cơ quan, đơn vị
kinh tế, dân cư với nhau
Quan hệ giữa các quốc gia
1.1.2. Tổ chức tài chính trung gian: các tổ chức tài chính trung gian là
các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn từ người có vốn đến người cần
vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp- người cần vốn và người
có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài
chính thực hiện dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa là người cần vốn muốn
có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các ngân hàng, các
công ty chứng khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty
bảo hiểm, các công ty tài chính. Có thể chia tổ chức tài chính trung gian thành
hai loại: tổ chức ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng.
a,Về ngân hàng, có các loại ngân hàng như: ngân hàng trung ương, ngân
hàng thương mại, ngân hàng phát triển…nhưng chúng ta chỉ nghiên cứu về
ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng vay tiền
của người gửi và cho vay lại các công ty và cá nhân. Tiền huy động được của
người gửi gọi là “ tài sản nợ” của ngân hàng, tiền cho công ty và cá nhân vay
lại cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu
gọi là “tài sản có” của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động
được và số tiền đem cho vay, gửi ngân hàng khác, mua trái phiếu gọi là vốn
tự có của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại:
vốn cấp một và vốn cấp hai. Vốn cấp một, còn gọi là nòng cốt, về cơ bản bao
3
gồm vốn điều lệ cộng với lợi nhuận không chia cộng với các quỹ chi dự trữ
được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ

bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. vốn cấp
hai về cơ bản bao gồm: (i) phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ
chức tín dụng (ii) nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài( bao gồm trái
phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một só công cụ thứ cấp nhất định) và
(iii) dự phòng chung cho rủi ro tín dụng.
b, Tổ chức tài chính phi ngân hàng: là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện một số hoạt động của ngân hàng, như là nội quy kinh doanh thường
xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kì hạn, không làm dịch vụ
thanh toán. Tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: công ty bảo hiểm, công
ty tài chính, quỹ tương trợ, công ty tài chính….
1.2. Vai trò, chức năng của tổ chức tài chính trung gian;
1.2.1. Tổ chức tài chính trung gian có ba chức năng cơ bản;
Chức năng tạo vốn: các trung gian tài chính huy động vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế, hình thành các quỹ tiền tệ tập trung bằng cách trả lãi suất, các tổ
chức tài chính trung gian đem lại lợi ích cho người tiết kiệm và đồng thời
cũng là làm lợi cho chính mình trong giai đoạn cung ứng vốn.
Chức năng cung ứng vốn: trong nền kinh tế thị trường, người cần vốn là
các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân kinh doanh trong và ngoài nước. tổ
chức tài chính trung gian sẽ cung ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn và nhận
được một khoản lợi nhất định thông qua việc cho vay với lãi suất cho vay lớn
hơn lãi suất tổ chức này trả cho người tiết kiệm.
Chức năng kiểm soát: các tổ chức trung gian sẽ kiểm soát nhằm giảm tới
mức tối thiểu sự rủi ro bằng cách thường xuyên hoặc định kì kiểm soát trước
khi cho vay, trong và sau khi cho các doanh nghiệpvay vốn.
1.2.2 Vai trò của các tổ chức tài chính trung gian:
Tổ chức tài chính trung gian là công cụ để điều hành kinh tế vĩ mô: việc
điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ , cụ thể hơn là của ngân hàng nhà nước
sẽ thông qua ba công cụ: thứ nhất là nghiệp vụ thị trường tự do(OMO), thứ
hai là chính sách chiết khấu, thứ ba là dự trữ bắt buộc. cả ba nghiệp vụ này
đều được nhà nước điều hành thông qua các tổ chức trung gian tài chính.

Các nghiệp vụ của thị trường tự do được tiến hành bằng việc mua bán
các chứng khoán và lượng giao dịch là rất lớn, vì vậy mà nghiệp vụ này được
4
thực hiện cùng với công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, … việc mua
trên thị trường tự do làm tăng lượng tiền trong lưu thông, do đó, làm tăng cơ
số tiền tệ, còn việc bán trên thị trường tự do làm giảm cơ số tiền tệ.
Ngân hàng trung ương có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu
của ngân hàng thương mại bằng hai cách:
Lãi suất chiết khấu hoặc tác động đến số lượng vay thông qua việc nân
hàng trung ương quản lý cửa sổ chiết khấu. Khi lãi suất chiết tăng thì làm tăng
chi phí vay từ ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại sẽ vay ít hơn
dẫn đến giảm cung ứng tiền tệ. Lãi suất chiết khấu giảm thì làm giảm chi phí
vay từ ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại sẽ vay nhiều hơn dẫn
đến tăng cung ứng tiền tệ. Từ đó mà các ngân hàng trung ương điều chỉnh các
chính sách tiền tệ.
Với dự trữ bắt buộc; ngân hàng trung ương có thể thay đổi dự trữ bắt
buộc đối với ngân hàng thương mại để tác động đến cung ứng tiền tệ. Khi tỉ lệ
dự trữ bắt buộc tăng thì với cùng một lượng tiền huy động được ngân hàng
thương mại sẽ cho vay được với một lượng tiền thấp hơn, lãi suất cho vay sẽ
tăng để đảm bảo chi phí, lợi nhuận của ngân hàng, vì thế sẽ thu hẹp cung ứng
tiền tệ. Nếu dự trữ bắt buộc giảm thì cả chi phí tiền gửi của ngân hàng và chi
phí đi vay của khách hàng cũng giảm nên sẽ tăng cung ứng tiền tệ. Nhưng
công cụ không được khuyên dùng, nó là công cụ quá mạnh để điều tiết kinh tế
vì những thay đổi rất nhỏ trong dự trữ bắt buộc thì cũng dẫn đến những thay
đổi rất lớn về cơ số tiền tệ, đặc biệt là chi phí quản lý sẽ rất tốn kém. Một
điểm bất lợi nữa là nó có thể gây nên mất khả năng thanh khoản với những
ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp.
Vai trò thứ hai của các tổ chức tài chính trung gian là giảm chi phí giao
dịch, đó là đặc điểm mà chỉ ở các tổ chức tài chính trung gian mới có:
Thứ nhất là tiết kiệm do quy mô: một giải pháp cho vấn đề chi phí giao

dịch cao là góp những vốn muốn cho vay của nhiều nhà đầu tư với nhau do
vậy họ có thể thu được lợi ích nhờ phương pháp tiết kiệm do quy mô, tức là
sự giảm chi phí giao dịch cho mỗi đồng đầu tư khi quy mô giao dịch tăng lên.
Nhờ gộp vốn của các nhầ đầu tư lại với nhau, chi phí giao dịch cho mỗi cá
nhân nhà đầu tư nhỏ hơn nhiều. Phương pháp này tồn tại vì chi phí tổng cộng
của việc thực hiện một cuộc giao dịch trong các thị trường tài chính tăng lên
chỉ một chút ít khi quuy mô giao dịch tăng lên. Ví dụ, chi phí dàn xếp cho
5
một vụ đầu tư 100 triệu đồng không lớn hơn nhiều so với chi phí cho một
vụ đầu tư trị giá 10 triệu đồng. Điều này giải thích cho chúng ta vì sao
những trung gian tài chính được phát triển và là một bộ phận quan trọng
trong cấu trúc tài chính.
Thứ hai là: mở rộng hiểu biết để giảm các phí giao dịch: những trung
gian tài chính cũng xuất hiện bởi vì họ có khả năng tốt hơn để mở rộng hiểu
biết nhằm hạ thấp chi phí giao dịch. Các ngân hàng(những tổ chức gửi tiền)
và các trung gian tài chính khác, người thực hiện các món cho vay trở thành
những chuyên gia hiểu biết sâu rộng về những kiến thức trong lĩnh vực này,
do đó họ có thể soạn được những hợp đồng chặt chẽ và có thể áp dụng được
cho nhiều vụ đầu tư hay những món cho vay.
Trước khi tìm hiểu về vai trò còn lại của tổ chức tài chính trung gian thì
chúng ta sẽ thấy có bốn đặc điểm trong cấu trúc tài chính dẫn tới sự ra đời và
khẳng định vai trò quan trọng của các tổ chức tài chính trung gian:
Vấn đề 1: cổ phiếu không phải là nguồn tài chính quan trọng trong các
doanh nghiệp
Vấn đề 2: việc phát hành những chứng khoán mua bán được không phải
là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động của họ
do các doanh nghiệp sẽ bị yêu cầu công bố thông tin.
Vấn đề 3: tài chính gián tiếp, tài chính này liên quan đến các hoạt động
của những trung gian tài chính, quan trọng gấp nhiều lần so với tài chính trực
tiếp, là tài chính trong đó các doanh nghiệp gom vốn trực tiếp từ những người

cho vay trong thị trường tài chính.
Vấn đề 4: các ngân hàng là nguồn vốn quan trọng nhất để tài trợ cho các
doanh nghiệp.
Những vấn đề trên chủ yếu do thiếu thông tin cân xứng, dẫn đến sự lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, do các công ty không muốn công bố thông
tin rộng rãi. Tất cả đều nhấn mạnh sự quan trọng của những trung gian tài
chính. Trong những giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính, một bên thường
không thể biết tất cả những gì cần biết về bên kia để có quyết định đúng đắn.
Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi là thông tin không cân
xứng. vấn đề này tạo nên sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức
6
Sự lựa chọn đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài chính khi người vay
có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn(tức là những rủi ro
không trả được nợ) là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều
khả năng được lựa chọn nhất. Do việc lựa chọn đối nghịch dễ có thể là những
món vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ,
những người cho vay có thể quyết định không cho vay mặc dù có những
trường hợp có thể trả được nợ.
Rủi ro đạo đức cũng là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra
sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo dức trong các thị trường tài chính
diễn ra
Rủi ro đạo đức cũng là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra
sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính
xảy ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực
hiện những hoạt động không tốt ( thiếu đạo đức ) xét theo quan điểm của
người cho vay, bởi vì những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay
này sẽ hoàn trả. Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất trả được vốn nên người
cho vay có thể quyết định thôi không cho vay.
Giải pháp cho vấn đề lựa chọn đối nghịch: nếu không còn vấn đề thông
tin không cân xứng thì vấn đề những quả chanh cũng biến mất. Vì vậy giải

pháp trong thị trường đưa ra thông tin có tác dụng loại bỏ thông tin không cân
xứng và cho phép những người cung cấp vốn có thông tin đầy đủ về những cá
nhân hay những công ty cần tài trợ cho các hoạt động đầu tư. Một cách để thu
lượm thông tin này cho những người tiết kiệm và những người đi vay là có
các công ty riêng thu thập và đưa ra thông tin giúp phân biệt công ty tốt và
công ty tồi. Nhưng điều này lại bị cản trở vấn đề “người đi xe không tốn
tiền”. Tức là những người không bỏ tiền ra để mua thông tin nhưng họ vẫn có
thể hưởng lợi từ những thông tin mà người khác đã mua. Một trung gian tài
chính, như một ngân hàng trở nên một chuyên gia trong việc tạo ra thông tin
về các công ty, do đó, họ có thể phân biệt trường hợp đầu tư tốt và đầu tư tồi.
Một ngân hàng có khả năng thực hiện hầu hết các món cho vay tới những
công ty làm ăn tốt, nên ngân hàng có thể thu lợi nhuận cao hơn lãi của các
7
món tiền gửi mà ngân hàng sẽ thanh toán cho người gửi tiền. một thành phần
quan trọng nằm trong năng lực thu lợi của ngân hàng từ thông tin họ tạo ra là
họ tránh được vấn đề người đi xe không tốn tiền bằng việc thực hiện các món
cho vay riêng hơn là việc mua chứng khoán từ một thị trường tự do. Bởi vì
các nhà đầu tư khác không thể theo dõi được ngân hàng đang làm gì để đặt
giá cạnh tranh các món cho vay đó. Và do trung gian tài chính nắm giữ một tỉ
lệ lớn các món cho vay và không thể đem ra mua bán được sẽ đóng vai trò lớn
hơn trong việc chuyển vốn tới các công ty so với các thị trường chứng khoán
giải thích được cho vấn đề 3 và vấn đề 4. vấn đề lựa chọn đối nghịch cũng
được các tổ chức tài chính trung gian giải quyết bằng vật thế chấp và giá trị
tài sản ròng. Vật thế chấp là vật sở hữu được cam kết trả cho người cho vay
nếu không thanh toán các món tiền vay và chịu vỡ nợ. Giá trị tài sản ròng là
hiệu số giữa tài sản có của một công ty và tài sản nợ.
Trung gian tài chính là một giải pháp cho vấn đề rủi ro đạo đức, đó là
tránh được vấn đề “người đi xe không tốn tiền”. Một trung gian tài chính giúp
giảm được rủi ro đạo đức nảy sinh từ vấn đề người đại lý, người ủy thác (đó là
những người quản lý chỉ sở hữu một phần nhỏ một công ty mà họ làm việc

trong đó, những cổ đông mà sở hữu hầu hết vốn cổ phần của công ty này-
những người ủy thác- tách khỏi quản lý. Sự tách biệt này sẽ dẫn đến rủi ro đạo
đức khi những người quản lý có hành động vì lợi ích cá nhân hơn là vì lợi ích
của chủ sở hữu. Các hãng vốn kinh doanh tập trung vốn từ hội viên và dùng
vốn này để giúp các công ty thầu khoán khởi sự các vụ kinh doanh mới. Để
đổi lại cho vay vốn kinh doanh, hãng này nhận một số cổ phần trong vụ kinh
doanh mới đó. Do sự kiểm tra thu nhập và lợi nhuận có ý ngĩa rất quan trọng
để ngăn ngừa rủi ro đạo đức, các hãng vốn kinh doanh có một số người trong
bộ máy quản lý thầu khoán.
Rủi ro đạo đức trong hợp đồng nợ: tức là người đi vay không dùng tiền
đi vay vào việc đã thỏa thuận mà thực hiện những hoạt động rủi ro hơn sẽ dẫn
đến không trả được nợ. Trong trường hợp này, sự trung gian tài chính sẽ hạn
chế vấn đề này bằng những quy định hạn chế và giám sát cưỡng chế.
8
1.3. Hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian:
1.3.1. hoạt động của tổ chức ngân hàng:
a, Hoạt động cơ bản của ngân hàng:
Các ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn
đến những người vay tiền có các cơ hội đầu tư sinh lời, họ cũng giữ vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng, hữu
hiệu. Chúng ta sẽ xem xét các ngân hàng hoạt động như thế nào và họ thực
hiện các món cho vay như thế nào?
Hoạt động cơ bản của một ngân hàng nói chung là các ngân hàng thu lợi
nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có một số đặc tính (lỏng, rủi ro, lợi tức)
và dùng tiền thu được để mua một số tài sản có đặc tính khác. Như thế, các
ngân hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản
khác cho công chúng. Quá trình chuyển các tài sản và cung cấp một loạt dịch
vụ (thanh toán séc, ghi chép sổ sách, phân tích tín dụng…) giống như bất kì
quá trình sản xuất khác trong một hãng kinh doanh. Nếu một ngân hàng tạo ra
những dịch vụ hữu ích với chi phí thấp hơn và có được doanh thu cao hơn

nhờ vào tài sản có của mình thì ngân hàng đó sẽ có lợi nhuận, nếu không thì
sẽ phải chịu thua lỗ. Các hoạt đông cơ bản hàng ngày của ngân hàng thường
được thực hiện trên tài khoản chữ T ghi tài sản có và tài sản nợ.
Việc quản lý tài sản có và tài sản nợ trong ngân hàng:
Tài sản có mang lại doanh thu cho ngân hàng và tài sản nợ sẽ tạo nên chi
phí cho ngân hàng, nhưng không phải tài sản có nào cũng mang lại doanh thu,
ngoài dự trữ bắt buộc thì dự trữ vượt mức, hay tiền dự trữ cấp hai sẽ không
mang lại doanh thu. Nhưng trên thực tế thì doanh thu chưa phải là tất cả, ngân
hàng còn phải luôn chú ý đến khả năng thanh khoản của mình. Vì vậy, tuy tài
sản lỏng hơn có xu thế thu được lợi tức thấp hơn, các ngân hàng vẫn muốn
nắm giữ chúng. Đặc biệt, tiền dự trữ vượt mức và dự trữ cấp hai kể trên được
ngân hàng nắm giữ vì chúng mang lại sự đề phòng thiệt hại khi có một dòng
tiền lớn được rút ra. Song song với việc giảm thiểu rủi ro và đề phòng thiệt
hại thì các ngân hàng đều cố gắng quản lý tài sản có sao cho lợi nhuận cực đại
qua việc tìm kiếm lợi tức cao nhất có thể ở các món cho vay và chứng khoán.
Tuy trước đây việc quản lý tài sản nợ là một công việc bình thường, và
9
nhiều ngân hàng đã coi những tài sản nợ là cố định và tập trung vào quản lý
tài sản có bởi nguồn tiền chủ yếu chảy vào ngân hàng là do các món tiền gửi
không có lãi và việc cho vay trên thị trường liên ngân hàng chưa phát triển.
Tuy nhiên, từ năm 1960, các ngân hàng lớn đã bắt đầu nghiên cứu việc quản
lý tài sản nợ để đem lại cho họ những khoản tiền dự trữ và những tài sản lỏng,
từ đó dẫn đến phát triển thị trường cho vay ngắn hạn. tính chất mềm dẻo mới
này trong việc quản lý tài sản nợ có nghĩa là các ngân hàng đã có thể sử dụng
phương pháp khác cho việc quản lý ngân hàng. Họ không còn phụ thuộc vào
những món tiền gửi có thể phát hành séc với tư cách nguồn vốn ngân hàng
hàng đầu. Họ luôn đặt ra mục tiêu tăng trưởng vốn và có được lượng vốn như
họ cần.
b, Các nguyên tắc quản lý ngân hàng:
Ở phần trên, chúng ta thấy được vai trò của các tổ chức tài chính trung

gian( trong đó có các ngân hàng) tránh được sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức, thực ra, nó thông qua các nguyên tắc sàng lọc, giám sát, thiết lập
những mối quan hệ khách hàng lâu dài, các mức tín dụng, yêu cầu thế chấp và
yêu cầu về số dư đền bù, sự hạn chế tín dụng:
Sàng lọc và giám sát:
Lựa chọn đối nghịch trong các thị trường cho vay đòi hỏi rằng các ngân
hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu ra khỏi
những người vay tín dụng có triển vọng tốt, nhờ vậy các món tiền cho vay sẽ
có lợi nhuận cho ngân hàng. Nhằm thực hiện việc sàng lọc một cách có hiệu
quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin tin cậy về những người vay tiền có
hiệu quả. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập hợp thông tin, tạo ra một
nguyên tắc quan trọng trong việc quản lý tiền cho vay. Khi khách hàng đến
vay tiền thì sẽ phải có đầy đủ các thông tin về lợi nhuận và thu nhập của công
ty, tài sản có và tài sản nợ, trình bày các dự án, các vụ kinh doanh để ngân
hàng đánh giá hiệu quả và luồng tiền trong lai, doanh số bán, cách thức sử
dụng món tiền, sự cạnh tranh trong ngành công nghiệp này. Thậm chí ngân
hàng có thể đến thăm công ty để có một cái nhìn sơ bộ về toàn bộ hoạt động
của công ty. Điều cuối cùng là dù cho vay cá nhân hay cho vay kinh doanh thì
ngân hàng cũng phải tinh tường.
10
Vai trò chuyên môn hóa của việc cho vay: các ngân hàng có thể chuyên
môn hóa cho các hãng địa phương vay hay chủ yếu cho những hãng thuộc một
ngành công nghiệp riêng biệt nào đó vay tiền. Việc chuyên môn hóa lại mang ý
nghĩa là ngân hàng dễ thực hiện tập hợp thông tin về các công ty địa phương và
mức độ tín nhiệm của họ so với việc thực hiện các thông tin tương tự về các
công ty ở xa hay ngân hàng có thể dễ dàng nắm vững hơn những vấn đề của
một ngành công nghiệp và có khả năng dự báo tốt hơn xem liệu các công ty mà
ngân hàng đó cho vay tiền sẽ có khả năng thanh toán tốt không?
Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng: quan hệ khách hàng lâu
dài làm lợi cho các khách hàng cũng như cho ngân hàng đó. Một khách hàng

đã có một mối quan hệ cũ thì dễ được vay ở một lãi suất thấp, bởi vì ngân
hàng này tốn ít thời gian hơn để xác định xem liệu người vay tiền này có phải
là một người mạo hiểm có triển vọng tốt hay không nên tốn ít tiền hơn trong
việc giám sát. Mối quan hệ khách hàng lâu dài có một lợi ích khác là khi ngân
hàng soạn một hợp đồng cho vay mới thì không thể lường trước hết được
những bất ngờ sẽ xảy ra để đưa vào quy định hạn chế. Tuy nhiên với những
khách hàng cho quan hệ lâu dài thì họ cũng muốn giữ mối quan hệ này và ít
có rủi ro đạo đức hơn. Những lợi ích của việc thiêt lập quan hệ khách hàng
lâu dài gợi ra rằng sự gắn bó chặt chẽ hơn và có lợi hơn cho cả công ty và
ngân hàng. Một cách để tạo ra những gắn bó chặt chẽ này đối với các ngân
hàng là nắm giữ những cổ phần trong các công ty mà họ cho vay tiền và có
những thành viên trong ban giám đốc quản lý các công ty này. Các ngân hàng
cũng xây dựng mối quan hệ lâu dài và tập hợp thông tin bằng cách đưa ra một
mức tín dụng cho khách hàng thương mại. Một quy tắc tín dụng là một cam
kết của ngân hàng cung cấp cho một hãng các món vay lên tới một lượng đã
định với một lãi suất gắn với một lãi suất thị trường nào đó. Phần lớn các món
cho vay thương mại và công nghiệp được thực hiện theo thỏa ước mức tín
dụng. Lợi ích của nó là sẽ có một nguồn tín dụng được cung cấp khi cần đến.
Lợi ích đối với ngân hàng là mức tín dụng này sẽ tạo ra một mối quan hệ lâu
dài giúp cho việc tập hợp thông tin dễ dàng hơn cho. Ngoài ra, các điều khoản
trong thỏa ước về mức tín dụng này đòi hỏi hãng đó cung cấp thường xuyên
cho ngân hàng này những thông tin về tình hình thu nhập, tài sản có và tài sản
11
nợ, các hoạt động kinh doanh….điều này sẽ làm giảm chi phí cho việc sàng
lọc và tập hợp thông tin.
Vật thế chấp và số dư bù: những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền
cho vay là những công cụ quan trọng để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là
vật sở hữu được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ, làm giảm bớt
hậu quả của lựa chọn đối nghịch, vì nó làm giảm các tổn thất của người cho
vay trong trường hợp xảy ra một vụ vỡ nợ. Nếu người vay vỡ nợ đối với món

tiền vay, ngân hàng đó có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù
lại tổn thất của mình. Một dạng riêng của vật thế chấp bắt buộc là số dư bù.
Ngoài việc có tác dụng như vật thế chấp, các số dư bù giúp tăng được khả
năng món tiền cho vay sẽ được hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò là giúp ngân
hàng giám sát người vay và ngăn ngừa được rủi ro đạo đức.
Hạn chế tín dụng: một phương pháp khác để giúp các ngân hàng thành
công trong việc đối phó với lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là việc hạn
chế tín dụng. Những ngân hàng từ chối cho vay mặc dù những người vay sẵn
lòng thanh toán lãi suất đã được công bố, thậm chí cao hơn. Hạn chế tín dụng
có hai dạng: dạng thứ nhất diễn ra khi một ngân hàng từ chối một món cho
vay với số lượng bất kì nào đối với người vay, ngay cả khi người vay sẵn lòng
thanh toán lãi suất, dạng thứ hai diễn ra khi một ngân hàng sẵn lòng cho vay
nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức người vay muốn.
c, Quản lý rủi ro lãi suất:
Các ngân hàng này càng quan tâm hơn đến việc họ đối mặt với rủi ro lãi
suất, việc phân tích khoảng cách và phân tích khoảng thời gian tồn tại làm cho
một ngân hàng biết được liệu nó có nhiều tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất
hơn tài sản có hay không. Các ngân hàng quản lý rủi ro lãi suất không chỉ
bằng cách biến đổi bảng quyết toán tài sản mà còn bằng cách kinh doanh
nghĩa vụ đổi chéo lãi suất các hợp đồng tài chính kì hạn, các hợp đồng chọn
lựa cho các công cụ tài chính.
1.3.2. Hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
a, Công ty bảo hiểm:
Các công ty bảo hiểm cũng thực hiện chuyển từ dạng tài sản này sang
dạng tài sản khác như ngân hàng, nhưng điểm khác biệt là công ty bảo hiểm
12
không huy động tiền gửi mà huy động vốn nhờ các phí bảo hiểm trong hợp
đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản có như các trái khoán, cổ phiếu, các
món cho vay. Rồi tương tự như các khoản tiền rút ra trong ngân hàng, thì
công ty bảo hiểm phải chi trả cho những khiếu nại đòi bồi thường theo các

hợp đồng đã bán. Quá trình chuyển đổi tài sản của một công ty bảo hiểm cung
cấp có hiệu quả cho khách hàng của mình những dịch vụ bảo hiểm xứng đáng
và nếu nó thu được lợi tức cao trong các vụ đầu tư của mình thì nó sẽ tạo ra
lợi nhuận, nếu không sẽ chịu tổn thất.
Trong những hợp đồng bảo hiểm, vì công ty bảo hiểm sẽ là người bồi
thường thiệt hại khi tổn thất xảy ra nên sẽ tồn tại rủi ro đạo đức, hay diều này
sẽ làm tăng khả năng của một vụ thanh toán tiền bảo hiểm, bên được bảo
hiểm sẽ cố ý để mang lấy rủi ro. Còn lựa chọn đối nghịch sẽ là những người
dễ nhận tiền bảo hiểm nhất lại là những người muốn mua bảo hiểm nhất. Cả
rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch đều đưa đến tổn thất lớn của công ty
bảo hiểm vì chúng sẽ tạo ra những khoản tiền phải thanh toán cho các khiếu
nại đòi bảo hiểm. Để hạn chế hai điều này thì công ty bảo hiểm thường sử
dụng những phương thúc là: sàng lọc, phí bảo hiểm rủi ro, những điều khoản
hạn chế, việc phòng ngừa gian lận, khoản khấu trừ, đồng bảo hiểm, giới hạn
của số tiền bảo hiểm.
Các nguyên tắc quản ký bảo hiểm:
Để giảm bớt sự lựa chọn đối nghịch, các công ty bảo hiểm cố gắng sàng
lọc những người mang bảo hiểm rủi ro tốt ra khỏi những người mang bảo
hiểm rủi ro xấu. Do vậy, các phương thúc tập hợp thông tin có hiệu quả là
một nguyên tắc quan trọng trong quản lý bảo hiểm. Dựa vào các thông tin
khách hàng về tài chính, tính cách, thói quen,… , công ty bảo hiểm có thể
chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu của khách hàng
Phí bảo hiểm rủi ro: đối với công ty bảo hiểm, việc thu phí bảo hiểm trên
cơ sở mức độ rủi ro của một người được bảo hiểm là một nguyên tắc quản lý
bảo hiểm đúng đắn. chọn lựa đối nghịch giải thích vì sao nguyên tắc này lại
quan trọng đến vậy đối với khả năng sinh lời của công ty bảo hiểm. Với người
có khả năng xảy ra rủi ro cao hơn sẽ phải nộp phí cao hơn.
Những điều khoản hạn chế: đó là một công cụ để hạn chế rủi ro đạo đức.
13
Các điều khoản như vậy sẽ làm cho những người giữ hợp đồng nản lòng

không thực hiện những hoạt động rủi ro làm cho một khiếu nại đòi bồi thường
khó có thể xảy ra
Việc phòng ngừa gian lận: một trong những nguyên tắc quan trọng trong
công ty bảo hiểm là thực hiện những cuộc điều tra ngăn ngừa gian lận, để chỉ
những người có khiếu nại có căn cứ mới được nhận bồi thường
Hủy bỏ bảo hiểm: các công ty bảo hiểm có thể kiềm chế rủi ro đạo đức
nếu họ đe dọa hủy bỏ một hợp đồng khi khách hàng được bảo hiểm có những
hành động mà dễ có khiếu nại đòi bồi thường.
Khoản khấu trừ: là một khoản tiền cố định được khấu bớt từ tổn thất của
người được bảo hiểm khi được thanh toán
Đồng bảo hiểm: khi một người được bảo hiểm cùng gánh chịu một tỉ lệ
tổn thất với công ty bảo hiểm, sự dàn xếp như thế được gọi là đồng bảo hiểm,
có tác dụng làm giảm rủi ro đạo đức.
Những giới hạn của số tiền bảo hiểm: các công ty bảo hiểm phải luôn
đảm bảo rằng tiền bảo hiểm của họ không cao đến mức để rủi ro đạo đức dẫn
đến đến những tổn thất lớn.
b, Công ty tài chính:
Hoạt động bằng cách thu vốn từ phát hành thương phiếu hoặc cổ phiếu
và trái khoán…, rồi sau đó dùng số tiền thu được này để cho vay, đặc biệt
thích hợp với các nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Hay nói
cách khác, các công ty tài chính huy động vốn bằng vay những khoản tiền lớn
nhưng lại thường cho vay những khoản nhỏ. Quá trình này hoàn toàn khác với
quá trình của ngân hàng thương mại. Một đặc điểm then chốt của công ty tài
chính so với ngân hàng thương mại và các tổ chức tiết kiệm ở chỗ là họ gần
như không bị điều hành. Việc không có các hạn chế giúp cho các công ty tài
chính có thể làm phù hợp các món cho vay của họ với những nhu cầu của
khách hàng một cách tốt hơn. Có ba dạng công ty tài chính: công ty tài chính
bán hàng, công ty tài chính người tiêu dùng, công ty tài chính kinh doanh.

14

CHƯƠNG II
CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2008
1, Giới thiệu về các trung gian tài chính ở Việt Nam:
1.1. Lịch sử hình thành của các trung gian tài chính ở Việt Nam:
Trong thời kì 1951-1954, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập
và hoạt động tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu
tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng,
thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần
tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín
dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng
kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
Nhưng từ năm 1986 cho đến nay thì mới là thời kì thục sự diễn ra nhiều
sự kiện quan trọng:
Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà
nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân
hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động
ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp
lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp
lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức
chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2
cấp - Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của
mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi:
Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động
kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi
nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát
hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước;
NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ
ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính
sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2.

Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín
15
dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc
dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là
quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình
sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân
hàng liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước
ngoài, Hợp tác xã tín dụng, QTDND, công ty tài chính Trong thời gian này,
4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã được thành lập gồm: 1) Ngân
hàng Nông nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; 3)
Ngân hàng Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của
Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt
Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách
của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên
niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình
đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng:
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với
hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ
1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long
(Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997).
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ
cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP.
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng -

Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào
và đầu ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với
chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên
16
cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính
sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1
Luật NHNNVN.
1.2. Tổng quan về hoạt động của trung gian tài chính ở Việt Nam từ
năm 2003 dến năm 2008
Trung gian tài chính ở Việt Nam được chia ra thành:
1.2.1 Nội dung hoạt động của các Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị:
a. Huy động vốn
Ngân hàng huy động vốn dưới các hình thức sau:
Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới
các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi
khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc
NHNN chấp thuận.
Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ
chức tín dụng nước ngoài.
Vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn.
Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN.
b. Hoạt động tín dụng:
Ngân hàng cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài
chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN.
c,Các hình thức vay
Ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau đây:

Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, đời sống.
Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
d. Xét duyệt cho vay, kiểm tra và xử lý
d1, Ngân hàng được quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng
minh phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình và của
17
người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; có quyền chấm dứt việc cho
vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khác hàng cung cấp thông tin sai sự
thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
d2, Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng
vay, tài sản của người bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu
hồi nợ theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của
các tổ chức tín dụng; khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng và
người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh
theo quy định của pháp luật.
d3, Ngân hàng được miễn, giảm lãi suất cho vay, phí ngân hàng; gia hạn
nợ; mua bán nợ theo quy định của NHNN.
đ, Bảo lãnh
Ngân hàng bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ
chức tín dụng, cá nhân theo quy định của NHNN.
Ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo
lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác mà
người nhận bảo lãnh là tổ chức cá nhân nước ngoài theo quy định của NHNN.
e, Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác
Ngân hàng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và
các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định pháp luật hiện hành. Người

chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển
giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ đó cho Ngân
hàng.
Ngân hàng được cấp tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và
các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định pháp luật hiện hành. Ngân
hàng được thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp phát sinh trong trường
hợp chủ sở hữu các giấy tờ đó không thực hiện đầy đủ những cam kết trong
hợp đồng tín dụng.
Ngân hàng được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác theo quy định pháp luật
18
hiện hành.
Ngân hàng có thể được Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu và cho vay
trên cơ sở cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được
chiết khấu theo quy định pháp luật hiện hành.
f, Công ty cho thuê tài chính
Ngân hàng phải thành lập Công ty cho thuê tài chính khi hoạt động cho
thuê tài chính.
g, Tài khoản tiền gửi của Ngân hàng
Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi tại NHNN (Sở giao dịch hoặc chi
nhánh NHNN tỉnh, thành phố) nơi Ngân hàng đặt trụ sở chính và duy trì tại
đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN;
Chi nhánh của Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNN
tỉnh, thành phố, nơi đặt trụ sở của sở giao dịch, chi nhánh.
Ngân hàng mở tài khoản cho khác hàng trong nước và ngoài nước theo
quy định của pháp luật.
h, Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
h1, Ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Cung ứng các phương tiện thanh toán.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khác hàng.

Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN.
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép .
Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
h2, Ngân hàng tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống
thanh toán liên ngân hàng trong nước. Tham gia các hệ thống thanh toán quốc
tế khi được NHNN cho phép.
i, Các hoạt động khác
Ngân hàng thực hiện các hoạt động khác sau đây:
i1, Dùng Vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh
nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật.
i2, Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín
dụng liên doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt
19
động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
i3, Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của NHNN.
i4, Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị
trường quốc tế khi được NHNN cho phép.
i5, Được quyền uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên
quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đông uỷ thác và đại lý.
i6, Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; được thành lập công ty trực thuộc hoặc
liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
i7, Cung ứng các dịch vụ:
Tư vấn tài chính và tiền tệ trực tiếp cho khách hàng hoặc qua các công ty
trực thuộc được thành lập theo quy định của pháp luật
Bảo quản tài sản có giá trị và các giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, nhận
cầm cố và các dịch vụ khác theo quy định của luật pháp.
i8, Thành lập các công ty trực thuộc để thực hiện các hoạt động kinh
doanh có liên quan tới hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật

k, Bất động sản
Ngân hàng không được phép trực tiếp kinh doanh bất động sản.
l, Tỷ lệ an toàn
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng phải tuân thủ các quy định về bảo
đảm an toàn theo quy định tại Mục V, Chương II của Luật các tổ chức tín
dụng và theo quy định của NHNN; thực hiện phân loại tài sản ”có” và trích
lập dự rủi ro để xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng theo quy định của
pháp luật hiện hành.
Tất cả các Ngân hàng thương mại cổ phần được phép hoạt động đầy đủ
các nghiệp vụ ngân hàng.
1.2.2. Nội dung hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn:
a, Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn của mọi tổ chức và dân cư thuộc
các thành phần kinh tế với các hình thức tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn
bằng đồng Việt nam;
b, Tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước;
c, Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác;
20
c, Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức và cá
nhân tuỳ theo tính chất và khả năng nguồn vốn;
d, Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá;
đ, Hùn vốn và liên doanh theo pháp luật hiện hành;
e, Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
f, Thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán quốc tế, huy
động các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ
với nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
1.2.3. Nội dung hoạt động chính của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và
ngân hàng liên doanh tại Việt Nam
Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có thể được thực hiện một số hoặc
toàn bộ các nghiệp vụ sau đây:
a, Nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn theo quy định của Ngân

hàng Nhà nước;
b, Phát hành chứng chỉ tiền gửi, giấy tờ có giá;
c, Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước ;
d, Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước;
đ, Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn;
e, Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, giấy tờ có giá;
g, Bảo lãnh ngân hàng;
h, Kinh doanh ngoại hối;
f, Thực hiện dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân quỹ;
i, Mở tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước;
k, Đại lý chi trả thẻ tín dụng;
l, Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ;
m, Thực hiện các dịch vụ uỷ thác và quản lý tài sản;
n, Thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ.
Nội dung hoạt động cụ thể của từng chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
được quy định trong Giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Khi có nhu cầu và được Ngân hàng Nhà nước cho phép, chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài được phép thực hiện các nghiệp vụ khác phù hợp với pháp
21
luật liên quan của Việt Nam.
1.2.4. Nội dung hoạt động chính của các công ty tài chính:
a, Công ty tài chính được huy động vốn từ các nguồn:
Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước;
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo
quy định của pháp luật hiện hành;
Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài
chính quốc tế;

Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước.
b, Công ty tài chính được cho vay dưới các hình thức:
Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước.
Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định hiện hành của Luật các Tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ
thác.
Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
c, Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác
Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố
thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá
nhân.
Công ty tài chính được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và
các giấy tờ có giá khác với các tổ chức tín dụng khác.
d, Bảo lãnh: Công ty tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài
chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của công ty tài
chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật
Các Tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
e, Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
22
f, Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ
Mở tài khoản
Công ty tài chính được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
nơi công ty tài chính đặt trụ sở chính và các ngân hàng hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam. Việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt
Nam phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Công ty tài chính có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà

nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức quy định của
Ngân hàng Nhà nước.
Dịch vụ ngân quỹ: Công ty tài chính được thực hiện dịch vụ thu và phát
tiền mặt cho khách hàng.
h, Công ty tài chính được thực hiện các hoạt động khác sau đây:
Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác;
Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
Tham gia thị trường tiền tệ;
Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho
các doanh nghiệp;
Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư
của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng;
Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho
khách hàng
Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két,
cầm đồ và các dịch vụ khác.
i. Công ty tài chính được thực hiện các nghiệp vụ dưới đây sau khi được
Ngân hàng Nhà nước hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cho phép:
Hoạt động ngoại hối;
Hoạt động bao thanh toán;
Các hoạt động khác.
23
1.2.5. Nội dung hoạt động chính của các công ty cho thuê tài chính
a, Công ty cho thuê tài chính được phép huy động vốn từ các nguồn:
Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức, cá nhân.
Vay vốn ngắn, trung và dài hạn của các TCTD trong và ngoài nước.
Phát hành các loại giấy tờ có giá (có kỳ hạn trên một năm khi được

NHNN cho phép)
Tiếp nhận các nguồn vốn khác theo quy định của NHNN.
b, Công ty cho thuê tài chính được thực hiện các nghiệp vụ sau:
Cho thuê tài chính,
Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính,
Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho
thuê tài chính,
Thực hiện các dịch vụ uỷ thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên quan đến
hoạt động cho thuê tài chính,
Các hoạt động khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
c, Hoạt động ngoại hối:
Hoạt động ngoại hối của công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty
cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài được quy định tại Giấy phép hoạt
động,
Các công ty cho thuê tài chính khác muốn hoạt động ngoại hối đều phải
có đơn và hồ sơ xin phép NHNN theo quy định.
1.3. Các giai đoạn phát triển của các tổ chức tài chính tính từ năm
2003 đến 2008
Trong những năm qua, ngành ngân hàng thương mại Việt Nam đã có
bước phát triển vượt bậc với việc mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ, tăng cường mạng lưới và hiện đại hóa công nghệ. Cả
nước hiện có 84 ngân hàng (gồm: 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước
(NHTMNN), 31 Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị (NHTMCP), 4 Ngân
hàng thương mại cổ phần nông thôn, 5 Ngân hàng liên doanh, 37 Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và 02 ngân hàng chính sách: Ngân hàng phát triển Việt
Nam – VDB và Ngân hàng chính sách xã hội – VBSP). Tuy nhiên, các ngân
hàng thương mại (NHTM) Việt Nam có quy mô còn rất nhỏ và trình độ phát
24

×