Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

LÝ THUYẾT bộ BA bất KHẢ THI và THỰC TRẠNG bộ BA ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.45 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
ae
ae
&
&
fb
fb
Đề tài môn học
BỘ BA BẤT KHẢ THI
GVHD: PGS.TS HỒ THỦY TIÊN
MÔN: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
NHÓM PHẢN BIỆN_CHIỀU THỨ 4
TP.Hồ Chí Minh - Tháng 4 năm 2015
DANH SÁCH NHÓM 8: PHẢN BIỆN
STT HỌ TÊN LỚP MỨC ĐỘ HOÀN
THÀNH
1 Hoàng Thị Thanh Huệ 12DNH3 100%
2 Đào Văn Hừng 12DIF 100%
3 Lý Thị Ánh Linh 12DNH3 100%
4 Lê Thị Loan 12DIF 100%
5 Nguyễn Ngọc Khôi Nguyên 12DIF 100%
6 Nguyễn Đăng Ngọc Phụng 12DNH3 100%
7 Đỗ Thị Phượng 12DIF 100%
8 Lê Nhật Quyên 12DIF 100%
9 Nghiêm Thị Thu Sang 12DIF 100%
10 Nguyễn Thị Thu Thay 12DIF 100%
11 Nguyễn Duy Thiện 12DIF 100%
12 Nông Thị Thiên Trang 12DNH3 100%
13 Đinh Phan Hoàng Tuấn 12DIF 100%
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH BỘ BA BẤT KHẢ THI


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH BỘ BA BẤT KHẢ THI
1. 1. Mô hình Mundell– Fleming
Robert Mundell và Marcus Fleming đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh
tế quốc tế vào đầu thập niên 1960, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Hai ông đã
chỉ ra rằng ở những quốc gia sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để đạt được
sự cân bằng bên trong (cân bằng tổng cung – tổng cầu) và cân bằng bên ngoài (cân bằng
trong cán cân thanh toán) thì chính sách tiền tệ nên được sử dụng để đạt được sự cân bằng
trong cán cân thanh toán và chính sách tài khóa nên được sử dụng để đạt được sự cân bằng
trong tổng cung và tổng cầu. Đây là kết luận được rút ra trực tiếp từ lý thuyết được gọi là
“Bộ ba bất khả thi”. Theo lý thuyết, luôn tồn tại một mâu thuẫn nội tại trong 3 mục tiêu
chính sách: chu chuyển vốn hoàn hảo, tỷ giá hối đoái cố định và tự chủ về tiền tệ.
Lý thuyết bộ ba bất khả thi liên quan đến những kiến thức cơ bản trong kinh tế vĩ
mô và được minh họa thông qua phân tích mô hình IS-LM có xét đến tác động của cán
cân thanh toán.
1.1.1 Cân bằng bên trong và bên ngoài
Mỗi nền kinh tế đều cố gắng để đạt được sự cân bằng vĩ mô dưới hình thức cân
bằng bên trong và bên ngoài thông qua nhiều công cụ chính sách khác nhau, nổi bật trong
số đó là lãi suất, thuế, mức chi tiêu chính phủ và nợ công. Cân bằng bên trong đạt được
khi tổng cầu bằng với tổng cung trong nước tại mức toàn dụng nghĩa là giá cả và sản
lượng trong nước được duy trì ở mức mà tại đó thị trường hàng hóa, thị trường tiền tệ và
thị trường lao động đều cân bằng. Nếu không đáp ứng đầy đủ những điều kiện trên, nền
kinh tế sẽ chịu áp lực lạm phát hoặc suy thoái tương ứng khi tổng cầu vượt quá hoặc thấp
hơn mức toàn dụng của nền kinh tế. Các thành phần của tổng cầu được thể hiện trong
phương trình sau đây:
Y
d
= C + I + G + NX
Trong đó C là chi tiêu dùng, I là chi đầu tư, G là chi tiêu chính phủ và NX là xuất
khẩu ròng. NX được xác định bởi:
NX = X

0
– mY
Với X
0
là tổng giá trị xuất khẩu, mY là tổng giá trị nhập khẩu. Như vậy, xuất khẩu
không phụ thuộc vào mức sản lượng (thu nhập) quốc gia Y nhưng nhập khẩu là một hàm
của Y. Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu (Y
d
) bằng tổng cung (Y).
Cán cân thanh toán của một nền kinh tế bao gồm hai thành phần chủ yếu là tài
khoản vãng lai và tài khoản vốn, được diễn tả thông qua phương trình sau:
BP = NX + KA
Do NX chiếm tỷ trọng lớn trong tài khoản vãng lai nên NX được xem như là tài
khoản vãng lai và KA là tài khoản vốn (bằng tài sản trong nước được sở hữu bởi công dân
nước ngoài trừ đi tài sản nước ngoài được sỡ hữu bởi công dân trong nước).
Giả sử chu chuyển vốn là hoàn hảo, ta có tài khoản vốn là một hàm của chênh lệch
giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài, cụ thể là:
KA = k( r – r
*
)
Nếu lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài thì lợi nhuận đầu
tư trong nước cao hơn lợi luận đầu tư ra nước ngoài, công dân trong nước và nước ngoài
có xu hướng tăng mua tài sản trong nước và giảm mua tài sản nước ngoài, vốn có khuynh
hướng đổ vào trong nước. Nói một cách khác, nếu lãi suất trong nước (r) cao hơn lãi suất
nước ngoài (r
*
) thì tài khoản vốn sẽ thặng dư và ngược lại. Các khoản mục của một cán
cân thanh toán có thể có sự thâm hụt hoặc thặng dư nhưng cán cân thanh toán tổng thể
phải luôn luôn cân bằng
1

.
Đây là một đóng góp quan trọng của mô hình Mundell-Fleming khi đưa yếu tố
nước ngoài vào phân tích trong mô hình IS-LM thông qua việc bổ sung đường cán cân
thanh toán BP.
1.1.2. Hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định
Mundell và Fleming đã minh họa tính hiệu quả của chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định thông qua mô hình IS-LM-BP.
Đường IS là tập hợp các phối hợp khác nhau giữa thu nhập và lãi suất mà tại đó thị
trường hàng hóa cân bằng. Sự dịch chuyển đường IS thể hiện tác động của chính sách tài
khóa. Đường LM là tập hợp các phối hợp khác nhau giữa thu nhập và lãi suất mà tại đó thị
trường tiền tệ cân bằng. Sự dịch chuyển đường LM thể hiện tác động của chính sách tiền
tệ.
Sự tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có thể làm thay đổi các
trạng thái của cán cân thanh toán. Đường BP là tập hợp những phối hợp khác nhau giữa
thu nhập và lãi suất mà ở đó cán cân thanh toán cân bằng. Đường BP dốc lên thể hiện mối
quan hệ đồng biến giữa lãi suất và thu nhập. Phát hiện này là một sự tiến bộ lớn của mô
hình Mundell-Fleming so với mô hình Keynes. Giả sử cán cân thanh toán cân bằng (BP =
0) ở mức thu nhập Y và lãi suất r. Nếu Y tăng thì lượng nhập khẩu mY tăng làm cho tài
khoản vãng lai NX giảm và do đó BP < 0 (cán cân thanh toán thâm hụt). Vì vậy, để cán
cân thanh toán trở lại cân bằng thì cần phải gia tăng tài khoản vốn KA, điều đó đồng nghĩa
với việc gia tăng mức lãi suất trong nước r. Nói tóm lại, khi thu nhập tăng làm cán cân
thanh toán thâm hụt thì lãi suất trong nước phải tăng lên để cán cân thanh toán trở về vị trí
cân bằng và ngược lại.
Dưới chế độ tỷ giá cố định, không có bất kỳ lý do nào để đảm bảo cán cân thanh
toán luôn cân bằng (BP = 0). Nếu sự kết hợp tạo cân bằng bên trong giữa thu nhập và lãi
suất nằm bên phải đường BP (chẳng hạn như điểm F trong hình 1) thì cán cân thanh toán
thâm hụt (BP < 0). Nếu sự kết hợp này nằm bên trái đường BP (điểm G) thì cán cân thanh
toán thặng dư (BP > 0).
Giả sử ban đầu, nền kinh tế đang cân bằng bên trong và bên ngoài tại điểm E (Y
*

,
r
*
) trên đồ thị 1. Khi chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng, đường IS dịch
chuyển đến IS

, cắt LM tại G, nền kinh tế đạt cân bằng bên trong: sản lượng tăng đồng
thời lãi suất cũng tăng. Kết quả, dòng vốn có xu hướng chảy vào trong nước nên cán cân
thanh toán sẽ thặng dư và tỷ giá có xu hướng giảm. Để duy trì tỷ giá cố định, NHTW phải
đưa thêm lượng nội tệ vào nền kinh tế để mua ngoại tệ. Do đó, đường LM dịch chuyển
sang phải thành LM

, tạo điểm cân bằng vĩ mô mới tại H. Đây là điểm cân bằng dài hạn
bền vững.
Hình 1: Quan hệ IS – LM – BP trong chế độ tỷ giá cố định.
r
IS'
IS
LM
LM'
BP > 0
G
BP
H
E
r*
F
BP < 0
Y* Y
Trong một trường hợp khác, xuất phát từ điểm E (Y

*
, r
*
), nếu chúng ta áp dụng một
chính sách tiền tệ mở rộng thì đường LM dịch chuyển sang phải thành đường LM

. Nền
kinh tế cân bằng bên trong tại điểm F: sản lượng tăng lên, lãi suất giảm. Do đó, dòng vốn
có xu hướng chảy ra nước ngoài khiến cán cân thanh toán thâm hụt và tỷ giá có xu hướng
tăng lên. Để duy trì tỷ giá ban đầu, NHTW phải bán ngoại tệ ra để đổi lấy nội tệ, do đó
lượng dự trữ ngoại tệ giảm và lượng cung tiền trong nước cũng giảm xuống. Kết quả,
đường LM dịch chuyển sang trái trở lại vị trí ban đầu và điểm cân bằng sẽ quay về lại
điểm E. Nghĩa là sản lượng sau khi gia tăng trong một thời gian ngắn sẽ quay lại điểm cân
bằng ban đầu.
Như vậy, dưới chế độ tỷ giá cố định và chu chuyển vốn hoàn hảo, chính sách tài
khóa có hiệu quả cao trong khi chính sách tiền tệ không có hiệu quả.
1.1.3 Hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa dưới chế độ tỷ giá linh hoạt
Giả sử nền kinh tế đang cân bằng bên trong và bên ngoài tại điểm E(Y
*
, r
*
) trên đồ
thị 2. Một chính sách tiển tệ mở rộng sẽ làm đường LM dịch chuyển sang phải thành
đường LM

. Nền kinh tế cân bằng bên trong tại điểm F. Tại điểm F, sản lượng tăng lên,
lãi suất trong nước giảm xuống, do đó vốn có xu hướng chảy ra nước ngoài khiến cán cân
thanh toán bị thâm hụt và tỷ giá có xu hướng tăng lên. Khi tỷ giá tăng lên nghĩa là đồng
nội tệ bị giảm giá, nhờ đó làm tăng sức cạnh tranh quốc tế dẫn đến xuất khẩu tăng và
nhập khẩu giảm nên NX tăng lên. Kết quả, lượng ngoại tệ đi vào ròng tăng lên, làm

đường IS và BP dịch chuyển sang phải là IS

và BP

hình thành nên điểm cân bằng
mới tại J ở mức sản lượng cao hơn sản lượng cân bằng ban đầu. Như vậy, chính sách
tiền tệ có tác dụng mạnh để gia tăng sản lượng.
Hình 2: Quan hệ IS – LM – BP trong điều kiện tỷ giá thả nổi.
r
IS''
IS
IS'
LM
LM'
BP''
BP
G
K
BP'
E
r*
J
F
Y*
Y
K
*
Y
J
*

Y
Ta xét xem tác động của chính sách tài khóa. Xuất phát từ điểm E là điểm cân
bằng ban đầu. Một chính sách tài khóa mở rộng làm đường IS dịch chuyển sang phải
thành IS”. Nền kinh tế đạt cân bằng bên trong tại điểm G với sản lượng tăng đồng thời lãi
suất trong nước cũng tăng. Kết quả, dòng vốn chảy vào có xu hướng tăng nên cán cân
thanh toán thặng dư và do đó tỷ giá có xu hướng giảm xuống. Khi tỷ giá giảm nghĩa là
đồng nội tệ tăng giá làm sức cạnh tranh giảm, do đó xuất khẩu ròng NX giảm và lượng
ngoại tệ đi vào ròng giảm nên đường BP sẽ dịch chuyển sang trái thành BP” và đường
IS” sẽ dịch chuyển ngược lại thành IS

hình thành nên điểm cân bằng mới K với sản
lượng và lãi suất đều giảm so với mục tiêu. Như vậy, chính sách tài khóa có tác dụng yếu
hơn trong việc gia tăng sản lượng.
Qua đó, ta rút ra kết luận: trong chế độ tỷ giá linh hoạt và dòng vốn chu chuyển
hoàn toàn, chính sách tiền tệ có tác dụng mạnh hơn trong khi chính sách tài khóa có tác
dụng yếu hơn.
Từ những phân tích trên, mô hình Mundell-Fleming hàm ý rằng: hiệu quả của
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và mức độ
kiểm soát vốn ở mỗi quốc gia.
1.2. Lý thuyết bộ ba bất khả thi
1.2.1. Thuyết bộ ba bất khả thi của Mundell-Fleming
Giáo sư Robert Mundell được xem là cha đẻ của lý thuyết bộ ba bất khả thi. Và “mô
hình Mundell-Fleming” được xem là điểm khởi đầu của bộ ba bất khả thi, là kết quả nghiên
cứu của Robert Mundell (1962, 1963) và J.M.Fleming (1962) trong thời gian làm việc tại quỹ
tiền tệ quốc tế IMF.

Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, một quốc gia không thể đồng thời đạt được cả ba mục
tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định và tự do hoá dòng vốn ( hội nhập tài chính hoàn
toàn)
Dựa vào lý thuyết này, các nhà kinh tế học như Krugman (1979) và Frankel (1999) đã

phát triển lên thành lý thuyết bộ ba bất khả thi. Lý thuyết bộ ba bất khả thi được phát biểu
như một định đề: một quốc gia không thể đồng thời đạt được tỷ giá cố định, hội nhập tài
chính và độc lập tiền tệ.
• Chính sách tiền tệ độc lập
Chính sách tiền tệ độc lập là những chính sách mà nhà nước thực hiện nhằm mục đích
điều tiết kinh tế, nhưng không quan tâm đến những chính sách đến tỉ giá hay tăng giảm, hay
các biến số vĩ mô khác.
9
Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để
thực hiện chính sách phản chu kỳ kinh tế. Chẳng hạn nếu nền kinh tế có dấu hiệu phát triển
nóng, chính phủ sẽ tăng lãi suất hoặc thắt chặt cung tiền và ngược lại. Trong các trường hợp
này chính phủ không quan tâm đến tỷ giá tăng hay giảm và các biến số kinh tế vĩ mô khác.
Chính vì sự độc lập tiền tệ này mà nhiều nhà kinh tế tin rằng chúng sẽ giúp nền kinh tế tăng
trưởng ổn định hơn. Tuy nhiên độc lập tiền tệ quá mức có thể là một cái cớ để chính phủ lạm
dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong ngắn hạn.
Độc lập tiền tệ nhiều hơn vì vậy dễ dẫn đến bất ổn định trong tăng trưởng và tiềm ẩn
nguy cơ lạm phát cao. Đó là chưa kể độc lập tiền tệ quá mức có khả năng làm cho chính phủ
tiền tệ hóa chi tiêu chính phủ bằng cách phát hành tiền trang trải cho thâm hụt ngân sách. Hậu
quả là nền kinh tế rơi vào mất ổn định với tình trạng lạm phát.
• Ổn định tỷ giá
Ổn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện pháp ổn
định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của nền kinh tế giảm
đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường
đầu tư tốt lên. Tuy nhiên tỷ giá cố định hay ổn định quá mức có mặt trái của nó. Tỷ giá quá ổn
định làm cho chính phủ mất đi một công cụ để hấp thụ các cú sốc bên trong và bên ngoài
truyền dẫn vào nền kinh tế.
Ví dụ lạm phát cao trong nước mà tỷ giá gần như cố định dễ dẫn đến nguy cơ hàng hóa
mất sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, hậu quả là xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng lên.
Ngoài ra tính quá cứng nhắc của tỷ giá còn ngăn cản không cho những nhà làm chính sách sử
dụng công cụ chính sách phù hợp với thực tế diễn biến cả nền kinh tế, nhất là khi đang có dấu

hiệu bong bóng tài sản. Ví dụ vào những tháng đầu năm 2008 kinh tế Việt Nam rơi vào tình
trạng lạm phát tăng tốc 2 con số. Lúc bấy giờ tỷ giá dao động mức 1 USD=16.500 VND. Nhiều
nhà kinh tế lúc bấy giờ đưa ra đề xuất để cho tỷ giá giảm xuống mức 1 USD = 15.500 VND để
nhập khẩu lạm phát thấp ở nước ngoài về.Tỷ giá giảm làm cho giá hàng nhập khẩu giảm đi.
Kết quả của việc giảm tỷ giá, tức để cho đồng nội tệ lên giá, kéo theo giá hàng nhập khẩu giảm
đi (nếu các yếu tố khác không đổi). Vào thời điểm này do dòng vốn chảy vào nền kinh tế Việt
Nam quá nhiều nên tỷ giá có lúc đã giảm xuống khoảng 1 USD = 15.500 VND. Vấn đề là thay
10
vì nhập khẩu các vật tư cần thiết cho sản xuất giúp hạ nhiệt lạm phát thì các doanh nghiệp Việt
Nam lại nhập khẩu quá nhiều ô tô. Nhìn chung tỷ giá quá cứng nhắc chẳng những có khả năng
dẫn đến bất ổn trong tăng trưởng, rủi ro lạm phát cao mà còn dẫn đến phân bổ sai nguồn lực
và tăng trưởng không bền vững.
• Hội nhập tài chính (tự do hóa dòng vốn )
Hội nhập tài chính hợp tác giữa các nền kinh tế, hay có thể nói là sự luân chuyển
dòng vốn giữa các nền kinh tế.
 Lợi ích :
+ Hữu hình :
quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn.
giúp nhà đầu tư đa dạng hóa đầu tư.
+ Vô hình : Tạo ra động lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản
trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập.
Lợi ích lớn nhất-lợi ích vô hình-mang lại từ hội nhập tài chính là tạo ra động lực giúp
cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội
nhập. Trên thực tế chính nhờ vào quá trình tự do hóa tài chính cuối những thập niên 1990, nhất
là sau trở thành thành viên WTO 2007 mà chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách sâu
rộng, trong đó có cải cách thủ tục hành chính và chất lượng thể chế.
 Mặt trái:
Hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế những năm gần
đây. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn hạn và mang tính đầu cơ.
Mặc dù vậy hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế

những năm gần đây. Các cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1990 và cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu cũng có nguyên nhân từ hội nhập tài chính nhưng thiếu quy tắc điều tiết kèm
theo. Tình trạng bong bóng chứng khoán và bất động sản ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 dẫn
11
đến những bất ổn kinh tế vĩ mô một phần cũng do tự do hóa tài chính nhưng thiếu cơ chế giám
sát tương thích. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn hạn và mang tính đầu
cơ.
 Sự kết hợp bộ ba bất khả thi
+ Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi một công
cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài.
+ Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá thả nỗi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, chính phủ (NHTW)
được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của
thị trường.
+ Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường
vốn đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn. Khi có kiểm soát vốn,
mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ.
1.2.2. Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian
Toàn cầu hóa đang trở thành xu hướng chung của thế giới. Điều này càng gia tăng áp
lực cho các quốc gia khi buộc phải chọn một trong hai: hoặc là từ bỏ ổn định tỷ giá hoặc là từ
bỏ độc lập tiền tệ.Tuy nhiên, Frankel (1999) cho rằng một quốc gia vẫn có thể lựa chọn cơ chế
tỷ giá bán ổn định (half-stability) và chính sách tiền tệ bán độc lập (halfindependence). Và lý
thuyết bộ ba bất khả thi không thể ngăn cản một quốc gia theo đuổi cơ chế tỷ giá thả nổi có
quản lý, dải băng tỷ giá, tỷ giá cố định có thể điều chỉnh hay bất cứ cơ chế tỷ giá trung gian
nào. Hơn nữa, ông đã nhấn mạnh rằng không có một chế độ tiền tệ duy nhất nào là tốt nhất cho
tất cả các quốc gia và thậm chí ngay trong chính quốc gia đó thì cũng không có một chính sách
tiền tệ duy nhất nào là phù hợp cho mọi thời đại.
Tam giác bất khả thi mở rộng
12

Yigang và Tangxian (2001) tiếp tục phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi của
Mundell-Fleming và đưa lên thành thuyết tam giác mở rộng. Mối quan hệ giữa ba mục tiêu
chính sách đã được giải thích rất rõ ràng trong mô hình tam giác bất khả thi của
Mundell-Fleming nhưng hiệu quả của cơ chế trung gian vẫn chưa được đề cập. Nghĩa là tam
giác bất khả thi của Mundell-Fleming chỉ mới tập trung đến các cơ chế tỷ giá nằm ở các đỉnh
của tam giác mà chưa đề cập đến một cơ chế tỷ giá trung gian nằm đâu đó bên trong tam
giác bất khả thi. Yigang và Tangxian đã mở rộng mô hình này và kết luận rằng : Một quốc gia
có thể có những phối hợp mục tiêu khác nhau và không phải chấp nhận sự đánh đổi hoàn toàn
như tam giác của Mundell-Fleming.
Tương tự như tam giác của Mundell-Fleming, tam giác mở rộng của Yigang và
Tangxian cũng là một tam giác đều với ba cạnh tương ứng với ba mục tiêu chính sách: độc lập
tiền tệ, hội nhập tài chính và ổn định tỷ giá.
Bên cạnh các kết hợp tại đỉnh của tam giác, các quốc gia vẫn có thể lựa chọn cho mình
một kết hợp nào đó bên trong tam giác miễn là nó phù hợp với những mục tiêu chính sách
mà quốc gia đó đang theo đuổi. Mỗi điểm bên trong tam giác thể hiện một sự kết hợp trung
gian giữa ba mục tiêu chính sách, nghĩa là kiểm soát vốn ở mức độ vừa phải, chính sách tiền tệ
độc lập có giới hạn và tỷ giá hối đoái biến động trong một biên độ cho phép. Tùy vào tình hình
vĩ mô và mục tiêu hướng đến cụ thể ở mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhất định mà các nhà
hoạch định chính sách sẽ quyết định một mức độ thích hợp cho mỗi mục tiêu chính sách.
Do đó, mỗi quốc gia sẽ có một lựa chọn cho riêng mình mà không nhất thiết phải
đánh đổi hoàn toàn theo như tam giác bất khả thi của Mundell-Fleming.
13
1.2.3. Mẫu hình kim cương của bộ ba bất khả thi:
Theo quá trình kế thừa và phát triển của bộ ba bất khả thi, các nhà kinh tế học lại
tìm tòi và phát hiện ra các nhân tố có liên quan mật thiết đến việc lựa chọn mẫu hình bộ
ba bất khả thi. Không nằm ngoài xu hướng đó, Aizenman, Chinn, Ito (2008) đã xem xét
việc lựa chọn mẫu hình bộ ba bất khả thi trong mối tương quan với dự trữ ngoại hối (tỷ lệ
trên GDP). Sau những năm cuối thập niên 90 đầu thập niên 2000, các quốc gia đang phát
triển, đặc biệt là các quốc gia mới đổi đã có xu hướng gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại hối
cùng với xu hướng hội tụ về mức trung bình của ba chỉ số bộ ba bất khả thi. Nhóm tác giả

nghiên cứu đưa ra các lập luận hợp lý cho việc lựa chọn mẫu hình trung gian – không
nhóm quốc gia nào đạt được. Tuy nhiên, chi phí của việc gia tăng nắm giữ dự trữ ngoại
hối và các can thiệp vô hiệu hóa vào thị trường ngày càng gia tăng đã đặt một dấu chấm
hỏi lớn cho tính bền vững của mẫu hình này ở các nước mới nổi, cũng chính là, tính bền
vững của mẫu hình kim cương của bộ ba bất khả thi.
Hình 6: Mẫu hình kim cương
Nguồn: Aizenman, Chinn, Ito (2008).
Lý thuyết bộ ba bất khả thi của Mundell và Fleming ngày càng được hoàn thiện
dần từ mô hình Mundell-Fleming đến tam giác bất khả thi Mundell-Fleming, phát triển
thành tam giác mở rộng Yigang và Tangxian (2001) và cuối cùng là thuyết tứ diện của
Hausmann (2000).
14
1.3. Dự trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi ở các nước đang phát triển
Do xu thế hội nhập tài chính diễn ra ngày càng sâu rộng ở các nước đang phát triển nên
ngày càng có nhiều nghiên cứu cho thấy dự trữ ngoại hối đóng vai trò trong mẫu hình bộ ba bất
khả thi, nhất là tại các nước đang phát triển.
Trong hơn hai thập kỷ gần đây, ngày càng có nhiều các nền kinh tế đang phát triển có xu
hướng thiên về lựa chọn chế độ tỷ giá trung gian cố định và thả nổi, như chế độ tỷ giá thả nổi
có quản lý, neo tỷ giá, hoặc dải băng tỷ giá. Chế độ tỷ giá hỗn hợp như thế đòi hỏi các quốc gia
phải tăng dự trữ ngoại hối để đảm bảo tỷ giá duy trì một vùng mục tiêu nào đó. Sau khủng
hoảng tài chính Châu Á, nhiều nước đang bắt đầu chuyển sang cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tức
hướng về thị trường nhiều hơn. Mặc dù vậy dự trữ ngoại hối ở các nước đang phát triển nhìn
chung gia tăng khá ấn tượng. Dự trữ ngoại hối toàn cầu tăng khoảng 1 nghìn tỷ đô đến hơn 5
nghìn tỷ đô trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2006.
Dự trữ ngoại hối tích lũy diễn ra không đồng đều ở các nước. Trong khi tỷ lệ dự trữ
ngoại hối trên GDP tại các nước công nghiệp tương đối ổn định xấp xỉ 4% thì tỷ lệ dự trữ ngoại
hối trên GDP tại các nước đang phát triển tăng từ 5% đến khoảng 27%. Gần đây các nước đang
phát triển nắm giữ đến ba phần tư dự trữ ngoại hối toàn cầu. Trung Quốc là quốc gia có dự trữ
ngoại hối gia tăng ấn tượng nhất với tỷ lệ ngoại hối trên GDP từ 1% vào năm 1980 lên khoảng
41% vào năm 2006 (và khoảng 50% vào năm 2008).

Dự trữ ngoại hối gia tăng một phần do chính phủ các
nước đang phát triển phải đối phó với xu hướng dòng vốn mang
tính đầu cơ. Dòng tiền nóng từ đầu cơ rất dễ dừng lại đột ngột và
đổi chiều, vì vật tích lũy dự trữ ngoại hối là phương thức mà chính phủ các quốc gia đang phát
triển hướng đến như một tấm đệm can thiệp vào thị trường ngoại hối đề phòng ngừa cho rủi ro
dòng vốn đảo chiều.
15
Thực tế cho thấy, nhân tố đóng vai trò gia tăng dự trữ ngoại hối là yếu tố tài chính thay
cho yếu tố thương mại, trong đó yếu tố tài chính phụ thuộc vào mức độ mở cửa tài chính, khả
năng tiếp cận ngoại tệ thông qua thị trường nợ, chính sách tỷ giá… chính vì tầm quan trọng
ngày càng tăng của hội nhập tài chính là một nhân tố quyết định đến dự trữ ngoại hối như vậy
nên các nhà kinh tế đã có những bắt đầu nghiên cứu sâu hơn về mới liên kết giữ những thay đổi
trong cấu trúc của bộ ba bất khả thi và mức độ dự trữ ngoại tệ.
1.4. Thước đo bộ ba bất khả thi
Tỷ giá, yếu tố đầu tiên của bộ ba, dễ đo lường nhất. Độ ổn định tỷ giá được đo lường
dựa vào chế độ tỷ giá trên thực tế thay vì chế độ tỷ giá như cam kết của một quốc gia với IMF.
Yếu tố thứ hai của bộ ba là độc lập tiền tệ. Rose (1996) có đề xuất đo lường độc lập tiền tệ
bằng cách xem phản ứng của tỷ giá đối với những thay đổi trong sản lượng, lãi suất và cung
tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này có nhược điểm là khó thể nào phân biệt
được trong thực tế đâu là một cú sốc cung và cú sốc cầu tiền tệ, đó là chưa kể phải giả định tốc
độ lưu thông tiền tệ là không đổi.
Khác với Rose, Obstfeld, Jay C. Shambaugh và Taylor (2005) đề xuất cách tiếp cận
khác để đo lường độc lập tiền tệ bằng cách không dựa trên số lượng mà dựa trên lãi suất danh
nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào trực giác khi cho rằng
điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục tiêu hơn là dựa trên số lượng
tiền tệ. Yếu tố khó đo lường nhất của bộ ba là hội nhập tài chính. Thường thì các nhà kinh tế
dựa vào phương thức kiểm soát vốn của mỗi quốc gia theo phân loại của IMF để xem xét chỉ
số độ mở của tài khoản vốn.Tuy nhiên điều mà các nhà kinh tế thực sự quan tâm là mức độ hội
nhập tài chính trên thực tế. Có thể một quốc gia tuy tuyên bố kiểm soát chặt các giao dịch vốn
nhưng trên thực tế các chính sách lại khá thông thoáng.

Chinn và Ito đã phát triển ba thước đo để đánh giá mức độ độc lập tiền tệ (MI), ổn
định tỷ giá ( ERS) và hội nhập tài chính ( KAOPEN).
Độc lập tiền tệ MI. Mức độ độc lập tiền tệ được đo lường bằng hàm đảo nghịch của
mức tương quan hằng năm của lãi suất hàng tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Chỉ
số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng:
16

Trong đó: i: quốc gia sở tại, j: quốc gia cơ sở. Với công thức như trên, giá trị tối
đa, tối thiểu tương ứng là 1 và 0. Gía trị càng tiến về 1 có nghĩa là chính sách tiền tệ càng độc
lập hơn. Ví dụ nếu chúng ta muốn đo lường mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam, quốc gia sở
tại là Việt Nam và quốc gia cơ sở là Mỹ ( nếu chúng ta muốn xem xét thay đổi lãi suất VNĐ
với lãi suất USD).
Ổn định tỷ giá (ERS). Độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá, được tính
theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở.Độ ổn định tỷ
giá nằm giữa giá trị 1 và 0, càng tiến về 1 tỷ giá càng ổn định.

Cách thức đo lường độ ổn định tỷ giá như trên có ưu điểm là giúp chúng ta xác định
được chính sách tỷ giá trên thực tế mà một quốc gia đang áp dụng chứ không phải dựa trên
những gì mà quốc gia đó tuyên bố.
Hội nhập tài chính (KAOPEN). Trong các chỉ số đo lường bộ ba bất khả thi,khó nhất
là đo lường mức độ hội nhập tài chính. Muốn đánh giá mức độ hội nhập tài chính, chúng ta
phải đo lường mức độ mà một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Tuy nhiên việc đo lường mức
độ kiểm soát vốn rất phức tạp vì rất khó để phản ánh hết những phức tạp trong thực tế. Chẳng
hạn có quốc gia tuy tuyên bố mở cửa thị trường vốn bằng những chính sách khá thông thoáng
nhưng trong thực tế lại kiểm soát vốn bằng những biện pháp hành chính của các cơ quan chức
năng. Chinn và Ito (2006 , 2008) đưa ra đề xuất sử dụng độ mở tài khoản vốn KAOPEN để đo
lường mức độ hội nhập tài chính.
Lưu ý : chỉ số KAOPEN chỉ cho ta thấy độ mở tài khoản vốn theo pháp lý dựa trên các
báo cáo của chính phủ cho IMF, WB các chỉ số kinh tế vĩ mô liên quan đến kiểm soát vốn và
ngoại hối.

1.5. Bộ ba bất khả thi đã thay đổi như thế nào sau mỗi cuộc khủng hoảng?
Sau sự đổ vớ của hệ thống Bretton Woods, chỉ số ổn định tỷ giá ở các nhóm quốc gia
công nghiệp hóa giảm đi đang kể, còn mức độ hội nhập tài chính thì tăng nhẹ. Tại các quốc gia
đang phát triển, hội nhập tài chính sâu hơn nhưng mức độ ổn định của tỷ giá tăng mạnh, mức
17
độ độc lập tiền tệ tất nhiên cũng giảm đi đáng kể. Đối với các nước đang phát triển là thị
trường mới nổi thì lại có xu hướng tiến tới linh hoạt tỷ giá nhiều hơn.
Sau khủng hoảng nợ Mexico, các quốc gia công nghiệp hóa tiếp tục gia tăng tính linh
hoạt tỷ giá và mở của tài chính, trong khi vẫn duy trì một mức độ độc lập tiền tệ một chừng
mực nhất định. Cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho tất cả các quốc gia đang phát triển theo đuổi
tính linh hoạt hơn trong tỷ giá. Xu hướng này nói lên một sự thật là các quốc gia rơi vào khủng
hoảng không thể duy trì mãi hệ thống tỷ giá cố định. Điều đáng chú ý là các quốc gia đang phát
triển cũng đồng thời theo đuổi độc lập tiền tệ nhiều hơn, còn các quốc gia không phải thị
trường mới nổi thì thắt chặt kiểm soát vốn do hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ.
Khủng hoảng tài chính Châu Á: Sau khủng hoảng này, mức độ độc lập tiền tệ của các
quốc gia công nghiệp hóa giảm đáng kể, trong khi tỷ giá ổn định hơn, tự do hóa dong vốn.
Những diễn biến này đã phản ánh di chuyển vốn của các quốc gia Châu Âu hướng vào một liên
minh tiền tệ và kinh tế thống nhất. Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển nhưng không
phải thị trường mới nổi cũng bắt đầu tăng tốc hội nhập tài chính và theo đuổi chế độ tỷ giá linh
hoạt và chính sách tiền tệ độc lập hơn. Trái lại, các quốc gia thị trường mới nổi do lựa chọn hội
nhập tài chính nhiều hơn và chính sách tỷ giá linh hoạt nên đã đân mất đi độc lập tiền tệ.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng làm cho cấu trúc của bộ ba bất khả thi
thay đổi. Các quốc gia sẽ thay đổi nhận thức của mình về hội nhập tài chính và thận trọng hơn
bằng cách kiểm soát vốn, có lẽ chính phủ các nước ngày càng mong muốn một chính sách tỷ
giá thận trọng hơn và độc lập tiền tệ nhiều hơn.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc: Với tư cách là công xưởng của thế giới và việc Trung
Quốc tích lũy một lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ cùng với chính sách tỷ giá mà họ thường
tuyên bỗ miễn sao có lời cho dân tộc Trung Quốc càng thúc đẩy các nước, nhất là các nước
đang phát triển có nững điều chỉnh tương thích trong mẫu hình của bộ ba bất khả thi.
1.6. Kinh nghiệm áp dụng bộ ba bất khả thi ở một số nước.

18
Nước Mỹ đã chọn hai mục tiêu đó là sử dụng chính sách tiền tệ và lưu chuyển dòng vốn
tự do vào nền kinh tế. Mọi người Mỹ đều có thể dễ dàng đầu tư ra nước ngoài, đơn giản nhất là
gửi tiền cho 1 quỹ đầu tư tương hỗ quốc tế và người nước ngoài có thể dễ dàng mua chứng
khoán, trái phiếu tại Mỹ. Mặt khác, Cục dự trữ liên bang Fed cũng sử dụng chính sách tiền tệ
để góp phần tạo việc làm và ổn định giá cả. Tuy nhiên, kết quả của quyết định này là sự bất ổn
đối với giá trị của đồng đôla trên thị trường ngoại hối.
Ngược lại, Trung Quốc lại có 1 cách lựa chọn khác. Ngân hàng trung ương nước này
thực hiện chính sách tiền tệ và duy trì kiểm soát chặt chẽ đối với giá trị trao đổi của đồng nhân
dân tệ. Nhưng để hoàn thành 2 mục tiêu này, Trung Quốc phải hạn chế dòng vốn quốc tế, bao
gồm cả việc hạn chế công dân Trung Quốc chuyển tài sản ra nước ngoài. Nếu không có những
hạn chế đó, tiền sẽ chu chuyển ra và vào đất nước, khiến lãi suất trong nước bằng với mức lãi
suất do các ngân hàng trung ương nước ngoài thiết lập.
Phần lớn các nước châu Âu đã chọn cách thứ 3.Bằng cách sử dụng đồng euro để thay
thế cho đồng franc Pháp, mác Đức, lira Italia những nước này đã loại bỏ những biến động tỷ
giá hối đoái trong khu vực của họ.Thêm vào đó, dòng vốn tự do di chuyển trong các quốc gia
này.Nhưng cái giá của sự lựa chọn này là việc từ bỏ khả năng sử dụng chính sách tiền tệ.
• Kinh nghiệm áp dụng:
Kinh nghiệm áp dụng bộ ba bất khả thi của Trung Quốc:Trung Quốc là một quốc gia áp
dụng khá thành công bộ ba bất khả thi vẫn chưa tự do hóa dòng vốn. Trong những năm gần
đây, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ rất nhanh, thặng dư thương mại với Mỹ trờ
thành vấn đề làm cho Mỹ rất lo ngại, gây sức ép để buộc Trung Quốc tăng giá đồng Nhân dân
tệ.
Vấn đề đang làm đau đầu người Trung Quốc đã được giải quyết bằng cách chấm dứt
hành động can thiệp tỷ giá (sterilization) của ngân hàng trung ương nước này (là việc nhằm vô
hiệu hóa ảnh hưởng của sự can thiệp tỷ giá bằng cách tung ra các loại trái phiếu chính phủ để
ngăn cung tiền tăng quá nhanh. Người dân Trung Quốc đang trở nên giàu có hơn và đang lập
những kỷ mới về gửi tiết kiệm, trong bối cảnh những tài sản tiết kiệm này không dễ dàng gì
19
đầu tư ra nước ngoài được (do tài khoản vốn của Trung Quốc vẫn bị kiểm soát chặt). Bởi vậy,

như là một hậu quả tất yếu, lượng vốn nội địa khổng lồ này đã biến thành các khoản đầu tư làm
tăng năng lực sản xuất trong nước đến mức quá lớn so với cầu nội địa. Trong khi đó, phần lớn
nhất trong khối lượng dự trữ ngoại hối tăng lên là từ FDI chứ không phải từ thặng dư thương
mại. Bởi vậy, đồng nhân dân tệ đã bị đặt dưới áp lực tăng giá và quá trình này có tính tự duy
trì, đặc biệt kể từ khi cơ chế cố định tỷ giá NDT/USD được chuyển sang cơ chế cho phép tăng
giá đồng nhân dân tệ từ từ so với đồng đôla từ năm 2005. Nắm giữ đồng nhân dân tệ đang có
chiều hướng lên giá cũng chính là một cách đầu tư sinh lãi hiệu quả của dân chúng.
Nói cách khác, nhìn nhận đồng nhân dân tệ như một hàng hóa, và thặng dư cán cân
thanh toán của Trung Quốc chỉ là sự phản ánh cầu lớn hơn cung: “Nếu anh tạo ra tiền trong
trạng thái cân bằng thì lượng tiền tạo thêm này sẽ phá vỡ cân bằng đó, và dân chúng sẽ chi tiêu
nhiều hơn, dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn, và khả năng là lạm phát sẽ tăng lên. Nhưng nếu anh
in thêm tiền để thỏa mãn nhu cầu tăng lên về tiền của dân chúng thì sẽ không có lạm phát nảy
sinh từ việc này”, giáo sư Mundell lập luận.
Với hành động sterilization, Ngân hàng trung ương đã ngăn không cho cung tiền tăng
lên mạnh để thỏa mãn nhu cầu về tiền của dân chúng, làm tiếp diễn tình trạng bất cân bằng này.
Trong trạng thái cân bằng, kết quả của sự bão hòa về cầu đối với đồng nhân dân tệ là nhu cầu
hàng hóa trong nước cũng như nhập khẩu sẽ tăng lên, làm giảm thặng dư thương mại của
Trung Quốc với thế giới, nhất là với Mỹ. Tuy nhiên, trái với thông thường, giá cả nhiều loại
hàng hóa đã giảm đi ở Trung Quốc vì các doanh nghiệp đã tăng quy mô sản xuất đón đầu
lượng cầu hàng hóa mới tăng lên này mà không phải tăng giá bán do đã hạ được giá thành sản
xuất nhờ đạt được kinh tế quy mô (economy of scale), nhờ đó vẫn giữ được biên độ lợi nhuận
phù hợp. Vì thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ sẽ giảm đi nên áp lực chiến tranh
thương mại với Mỹ cũng vì thế mà giảm đi.
20
Thực tế là mặc dù ngân hàng trung ương của Trung Quốc đã thực hiện sterilization
nhưng lượng cung tiền (M2) vẫn tăng 17% so với mức tăng GDP 11%. Dù vậy, lạm phát ở
Trung Quốc vẫn ở mức thấp. Hơn nữa, trong những thời điểm suy thoái nhẹ, áp lực giảm phát
đã tăng lên ở Trung Quốc. Thêm một khác biệt là tình trạng quá “nóng” của kinh tế Trung
Quốc không dẫn đến cầu tăng quá mạnh như với trường hợp của các nền kinh tế khác. Nói
chính xác hơn thì nền kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với vấn đề là nhu cầu trong nước ở

mức yếu. Bởi vậy, khi cầu nội địa tăng lên thì họ dư sức tăng mạnh sản lượng và tức là tăng
cung để làm bão hòa toàn bộ lượng cầu mới tăng lên này. Tóm lại, cái gọi là “bộ ba bất khả
thi” hoàn toàn có thể là “bộ ba khả thi” trong một số trường hợp. Nền kinh tế Trung Quốc là
một minh họa rõ nét cho hiện tượng này.
CHƯƠNG II: MÔ HÌNH BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM
2.1. Tình hình bộ ba bất khả thi ở Việt Nam
21
2.1.1 Tình hình các chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam.
Các chỉ số độ ổn định tỷ giá (ERS), độc lập tiền tệ (MI) và độ mở tài
chính(KAOPEN) ở Việt Nam có nhiều điểm đặc trưng riêng biệt nhưng dường như vẫn không
có thoát ra khỏi nguyên lý đánh đổi của bộ ba bất khả thi.
Bảng 11: Chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam qua các thời kỳ từ 1970 đến 2008
Chỉ số
1970 -
1981 -
1991 -
2001 -
Ổn định tỷ giá (ERS)
0.47
0.49
0.71
0.84
Độc lập tiền tệ (MI)
.
.
0.66
0.57
Độ mở tài chính
0.05
0.00

0.16
0.16
Bảng 12: So sánh chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam với nhóm nước NON-
EMG DA
Chỉ số
1970 -
1981 -
1991 –
2001 -
Ổn định tỷ
giá (ERS)
Non-
0.72
0.58
0.57
0.59
Việt Nam
0.47
0.49
0.71
0.84
Chênh
0.25
0.09
-0.14
-0.25
F-
statistics
67.28
5

***
5.817
*
21.025
*
94.25
8
***
Độc lập tiền
tệ (MI)
Non-
0.48
0.47
0.50
0.44
Việt Nam
.
.
0.66
0.57
Chênh
.
.
-0.12
-0.12
F-
statistics
110.32
4
***

26.85
7
***
Độ mở tài
chính (KAOPEN)
Non-
0.18
0.23
0.32
0.26
Việt Nam
0.05
0.00
0.16
0.16
Chênh
0.13
0.23
0.17
0.10
F-
statistics
68.05
5
***
167.0
8
1
***
58.086

*
**
29.06
8
***
Nguồn: Trilemma Indexes do tác giả Hiro Ito cung cấp, tính toán của tác giả.
Bảng 11 thể hiện tình hình của 3 chỉ số này từ 1970 đến 2008. Chỉ số ERS chỉ mức
độ ổn định của tỷ giá có xu hướng gia tăng theo thời gian. Giai đoạn 1970 – 1990,chỉ số này
chỉ đạt giá trị ở mức trung bình (nhỏ hơn 0.5) nhưng 20 năm sau đã có những sự gia tăng rõ
rệt, đáng nói hơn là trong giai đoạn này ERS của Việt Nam đã vượt trên mức trung bình của
nhóm các nước NON-EMG DA. Nếu xét lịch sử chênh lệch giữa chỉ số này với mức trung
22
bình khu vực thì có thể khái quát sơ lược là ban đầu Việt Nam nằm dưới mức trung bình của
khu vực nhưng khoảng cách này thu hẹp theo thời gian và tiến đến vượt lên trên và vượt
ngày càng nhiều. Mức độ ổn định ở mức trung bình (nhỏ hơn 0.5) từ năm 1970 đến 1990
phản ánh những đợt phá giá trong giai đoạn này cùng với chính sách ba tỷ giá chính thức.
Trong giai đoạn này, tỷ giá thị trường tự do tồn tại song song với các tỷ giá của nhà nước.
Bởi vậy tỷ giá giai đoạn này sẽ không quá cố định.
Trong giai đoạn tiếp theo, NHNN thực hiện chính sách neo tỷ giá cùng với việc ấn
định các biên độ dao động. Mặc dù trong giai đoạn này NHNN cũng nhiều lần phá giá tiền
Đồng nhưng đi kèm mỗi đợt phá giá đó luôn là biên độ dao động cho phép, các biên độ nhìn
chung là rất nhỏ qua các thời kỳ, chính việc quy định biên độ dao động này đã làm cho tỷ
giá USD/VND gần như cố định, neo chặt. Biên động dao động cũng thay đổi theo thời gian
nhưng nhìn chung là rất nhỏ
Biên độ dao động tỷ giá USD/VND từ 1990 – 2011
Tương tự như ERS, chỉ sổ chỉ mức độ mở cửa tài khoản vốn KAOPEN cũng có xu
hướng tương tự. Chỉ số này có xu hướng gia tăng theo thời gian, trừ giai đoạn 1981 –1990
do chính sách đóng cửa của Nhà nước. Sau khi mở cửa hội nhập chỉ số này đã tăng lại phản
ánh sự hội nhập nhiều hơn vào nền kinh tế toàn cầu của Việt Nam. So sánh với mặt bằng
chung của khu vực, độ mở của Việt Nam luôn thấp hơn khu vực, tuy nhiên cùng với xu

hướng gia tăng của mình thì khoảng cách này cũng được thu hẹp dần từ 0.23 (1981 – 1990)
xuống còn 0.10 (2001 – 2008) và sẽ ngày càng thu hẹp trong tương lai bởi vì hội nhập là xu
hướng tất yếu hiện nay.
Theo lý thuyết kinh điển về bộ ba bất khả thi của Robert Mundell và Marcus
Fleming, một khi hai chỉ số đã gia tăng thì chỉ số còn lại phải giảm để thể hiện sự đánh đổi.
Thực tế Việt Nam đã chứng minh điều đó qua chỉ số MI, chỉ số thể hiện độ độc lập tiền tệ.
Mặc dù không đủ dữ liệu để tính toán chỉ số này trong khoảng thời gian dài, nhưng với
bộ dữ liệu từ 1996 đến 2008 cũng thể hiện sự đánh đổi này: chỉ số MI giảm qua 2 thời kỳ từ
0.66 xuống 0.57. Nếu xét với khu vực, MI của Việt Nam lại cao hơn mức trung bình của khu
vực và khoảng cách này dường như không có dấu hiệu thay đổi.
23
2.1.2. Dữ trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi ở Việt Nam
Một yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng giải quyết bộ ba bất khả thi là dự trữ
ngoại hối. Với một lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ, Trung Quốc có vẻ đã “thành công với bộ
ba bất khả thi”. Nhận xét thành công hay chưa là một câu hỏi quá lớn, tuy nhiên thực tế thì
Trung Quốc có thể vừa hội nhập tài chính, vừa giữ độc lập tiền tệ nhưng tỷ giá của Trung
Quốc lại không biến động nhiều vì lượng dữ trữ ngoại hối có thể được tung ra để bình ổn tỷ
giá. Chúng ta thử xem xét tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong mối quan hệ đối
chiếu với Trung Quốc nhằm đưa đặt ra vấn đề liệu Việt Nam có thể dùng dự trữ ngoại hối
để can thiệp vào bộ ba bất khả thi được hay không?
Dữ trữ ngoại hối Việt Nam và Trung Quốc qua các thời kỳ
197
6- 1980
19
8
1 -1985
19
8
6-1990
19

9
1-1995
19
9
6-2000
20
0
1-2005
20
0
6-2009
Trung
0.6
4.0
3.8
5.1
10.
17.
27.
Việt
.
.
.
4.2
6.6
10.
16.
Chênh
.
.

.
2.3
3.4
7.7
11.
Nguồn: IMF, dữ liệu Việt Nam từ năm 1995, Trung Quốc từ năm 1978
Bảng trên cho thấy dữ trữ ngoại hối của Việt Nam và Trung Quốc đều tăng theo
thời gian ( xét theo trung bình khoảng 5 năm), mặc dù Trung Quốc có giai đoạn giảm dữ trữ
vào thập niên 80, nhưng đó chỉ là thời điểm Trung Quốc mới bắt đầu đổi mới. Tuy nhiên,
mức độ dự trữ ngoại hối của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc rất nhiều. Ngay trong tỷ lệ tương
đối cũng phản ánh điều đó: mức 16.17% trong giai đoạn 2001 – 2005 mà Việt Nam đạt được
vẫn chưa bằng những gì mà Trung Quốc đã làm được cách đó 5 năm. Đó là những so sánh
dựa trên con số tương đối, nếu xét bằng giá trị thực thì khoảng cách này thực rất xa. Một điều
khác cần quan tâm là khoảng cách này không có dấu hiệu giảm mà ngược lại còn tăng nhanh,
nếu nửa đầu thập niên 90 dự trữ ngoại hối Việt Nam thấp hơn Trung Quốc 2.39% thì 15 năm
sau, khoảng cách này đã là 12.21%.
24
Tỷ lệ dữ trữ của Trung Quốc thường tăng nhanh chóng qua các sự kiện kinh tế như
khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 – 1998 hay khi Trung Quốc gia nhập WTO, kiểm định
thống kê đã chứng minh điều đó. Những tính toán thống kê cũng đưa ra kết quả tương tự cho
Việt Nam.
Tóm lại, vấn đề dữ trữ ngoại hối ở Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương
đồng, tuy nhiên lại có một điểm khác biệt quan trọng, đó là quy mô. Trung Quốc đã dùng dự
trữ ngoại hối để can thiệp thành công vào bộ ba bất khả thi, nhưng Việt Nam có vẻ chưa
sẵn sàng cho điều này, và nguyên nhân có lẽ là do sự khác biệt quan trong đã nêu ở trên.
2.2. Tác động của bộ ba bất khả thi ở Việt Nam.
2.2.1 Sự gia tăng của lạm phát
 Tình hình lạm phát
Trong bối cảnh thị kể so với khối lượng cung tiền đã tung ra, điều này đã dẫn đến một sự
gia tăng trong lạm phát. Thể hiện trường mở còn yếu kém thì số tiền mà NHNN thu về

thông qua việc mua bán các chứng khoán gần như là không đáng qua số liệu các năm từ
2006 đến 2010 ( % tăng , giảm so với năm trước)
Bảng Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ 2006 - 2009
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Lạm
phát %
7,70% 12,63% 19.89 % 8.9% 11,75
%
Nguồn : NHNNVN
 Từ trước cho đến nửa đầu năm 2007
– Chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức  cung tiền trong lưu thông tăng vọt.
– Chính sách tài khoá mở rộng  nhập khẩu lạm phát và hiệu quả đầu tư thấp 
kinh tế không hấp thụ được nguồn cung tiền lớn và một phần nguồn vốn được
chuyển sang đầu tư vào các lĩnh vực không sản xuất và tiêu dùng.
 Lạm phát tăng lên mức cao nhất trong vòng 7 năm kể từ 2001 (8,3%)

Nửa cuối 2007 đến nửa đầu 2008
25

×