Website: Email : Tel (: 0918.775.368
T
Lời mở đầu
rải qua một thời gian dài sống trong chiến tranh, đất nớc Việt Nam phải
hứng chịu bao đau thơng mất mát. Sau cuộc chiến đất nớc hoang tàn, đổ
nát với một cơ sở vật chất cũ kĩ, lạc hậu. Vậy mà trải qua hơn 20 năm kể
từ ngày đất nớc đợc hoàn toàn giải phóng, giờ đây chúng ta đang đợc sống trong
nền kinh tế - văn hoá - chính trị ổn định. Cuộc sống của ngời dân đợc cải thiện rõ
rệt, đặc biệt là từ năm 1988 trở lại đây. Đó là năm chúng ta tiến hành công cuộc
đổi mới đất nớc một cách toàn diện. Về mọi mặt đời sống xà hội có những chuyển
biến sâu sắc, tích cực. Đảng và Nhà nớc đà vận dụng có sáng tạo t duy của Triết
học Mác-Lênin: "Bản chất con ngời là tổng hoà các quan hệ xà hội". Vì vậy con
ngời là sản phẩm của xà hội nhng cũng chính con ngời làm nên xà hội ấy, ý thức
chỉ tồn tại ë con ngêi, chØ con ngêi míi cã nh÷ng t duy khoa học sáng tạo tiếp thu
và phát huy tri thức của nhân loại. Thành công của chúng ta trong công cuộc đổi
mới không thể không kể đến vai trò cđa tri thøc khoa häc. ChÝnh tri thøc khoa häc
®· giúp ta tiến những bớc tiến dài trên con đờng đổi mới một cách vững chắc và
hiệu quả. Chúng ta luôn coi khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự
phát triển đất nớc.
Bài tiểu luận với đề tài: "Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi
mới của Việt Nam" sẽ giúp chúng ta một phần nào đó hiểu đợc thế nào là tri thức
khoa học và những đóng góp to lớn của nó trong công cuộc đổi mới của đất nớc ta,
đồng thời thể hiện quan điểm cách nhìn của giới trẻ Việt Nam về cuộc sống và
những biến đổi lớn lao của đất nớc mình.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng I :Tìm hiĨu chung vỊ
tri thøc khoa häc
1-Tri thøc khoa häc
1.1-Kh¸i niƯm vỊ tri thøc
Tri thøc lµ lÜnh vùc rÊt réng, cã thể xem xét ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác
nhau. Tri thức có thể là tri thức đời thờng (còn gäi lµ tri thøc tiỊn khoa häc, tri thøc
kinh nghiƯm đời thờng hoặc có sách viết là tri thức thờng nghiƯm), tri thøc nghƯ
tht vµ tri thøc khoa häc (kinh nghiệm và lý luận). Nh đà biết, tri thức nghệ thuật
là phơng thức đặc thù nhằm nắm bắt hiện thức về mặt thẩm mĩ. Tri thức đời thờng
dựa trên lẽ phải và ý thức thông thờng, nó là cơ sở định hớng quan trọng cho các
hành vi hàng ngày của con ngời. Hình thức này của tri thức phát triển phong phó
thªm cïng víi sù tiÕn bé cđa tri thøc khoa học. Xét về nguồn gốc phát sinh và phơng thức hoạt động, tri thức là một hiện tợng xà héi.
1.2-Kh¸i niƯm vỊ tri thøc khoa häc
Tri thøc khoa häc là những kiến thức thu đợc qua những quá trình học tập
một cách công phu.
Tri thức khoa học bao gồm tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Trong
đó tri thức kinh nghiệm là trình độ thấp, còn tri thức lý luận là trình độ cao của tri
thức khoa học. Giữa hai trình độ này của tri thức khoa häc cã mèi quan hƯ mËt
thiÕt víi nhau, lµm tiỊn đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển, phản ánh ngày càng
gần đúng hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thế giới vật chất đang vận động không
ngừng.
*Tơng quan giữa hai cấp độ của tri thức khoa học:
Tri thức kinh nghiệm chủ yếu thu nhận đợc thông qua quan sát và thí
nghiệm. Nó nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, từ lao động sản xuất đến ®Êu
tranh x· héi hc tõ thÝ nghiƯm ®Õn khoa häc. Xét một cách toàn diện và đầy đủ
hơn, tri thức kinh nghiệm lại đợc chia làm hai loại:
+ Thứ nhất, là loại tri thức kinh nghiệm thông thờng, còn gọi lµ tri thøc
tiỊn khoa häc, tri thøc thêng nghiƯm. Tri thức thờng nghiệm thông thờng chủ yếu
thu nhận đợc từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống. Loại tri thức này phản
ánh trực tiếp vẻ bề ngoài và mang đậm màu sắc cảm tính nhng không đồng nhất
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
với nó. Đơng nhiên, tri thức ở cấp độ này hình thành từ nhận thức giản đơn, từ sự
tác động một cách trực tiếp của sự vật lên các cơ quan cảm giác, từ những "lẽ phải
thông thờng", và là trình độ thấp mà ngời ít học vấn vẫn có thể có đợc.
+ Thứ hai, là loại tri thức kinh nghiệm khoa học, thu thập từ những thí
nghiệm khoa học, từ sự khái qu¸t c¸c thùc nghiƯm khoa häc.
Trong sù ph¸t triĨn cđa xà hội, hai loại tri thức này có sự xâm nhập, bổ sung
lẫn nhau, giả định và chuyển hoá nhau, làm phong phú hơn quá trình nhận thức thế
giới. Loại tri thức kinh nghiệm dợc hình thành thông qua so sánh, đối chiếu và đợc
kiểm nghiệm qua thực tiễn đà chøa ®ùng nhiỊu u tè khoa häc, gióp con ngêi
nhËn thức và cải tạo thực tiễn, gọi là tri thức kinh nghiƯm khoa häc. Tri thøc kinh
nghiƯm khoa häc ®óng nh Ph. ¡ngghen chØ ra, cã t¸c dơng: "Chän läc lại những
giả thuyết gạt bỏ những giả thuyết này, sửa đổi những giả thuyết khác cho đến
lúc cuối cùng, quy luật đợc xác định dới hình thức thuần khiết" (C. Mac vµ Ph.
¡ngghen, 1978-1995, tËp 20, tr. 733). Tri thøc kinh nghiệm là những hiểu biết đợc
tích luỹ từ cuộc sống hàng ngày. Tri thức kinh nghiệm đà giúp cho con ngời có đợc những hình dung thực tế về các sự vật, hiện tợng, biết cách ứng xử trớc các hiện
tợng tự nhiên và trong các quan hệ xà hội. Theo thời gian và bằng kinh nghiệm
sống, số lợng và chất lợng tri thức kinh nghiệm ngày càng trở nên phong phú, đa
dạng, chứa đựng những mặt đúng đắn, nhng còn riêng biệt, cha thể đi sâu vào bản
chất các sự vật và do vậy, "tri thức kinh nghiệm chỉ giúp cho con ngời phát triển
đến một khuôn khổ nhất định" (Vũ Cao Đàm, 2002, tr. 13).
Tri thức kinh nghiệm (ở cả hai cấp độ nói trên), có vai trò quan trọng không
thể thiếu đợc trong đời sống hàng ngày, cũng nh trong mọi hoạt động xà hội khác
để xây dựng cuộc sống con ngời. Chính kinh nghiệm là cơ sở để kiểm tra lý luận,
sửa đổi và bổ sung lý luận đà có, là luận cứ đanh thép để tổng kết, khái quát và
hình thành nên lý luận míi. Song cịng cÇn nhËn thÊy r»ng, dï cã vai trß rÊt quan
träng nhng tri thøc kinh nghiƯm míi chØ nhận thức đợc những lớp thuộc tính bề
mặt, cha có khả năng đi sâu vào khám phá đợc những mối liên hệ phức tạp bên
trong của sự vật. Tri thức kinh nghiệm mới chỉ là những hiểu biết về những mặt
riêng rẽ, rời rạc về các mối liên hệ bên ngoài của đối tợng. Vì thế, dù đà mang tính
trừu tợng và khái quát nhất định nhng tri thức kinh nghiệm mới chỉ là bớc đầu và
còn nhiều hạn chế.
Nói tóm lại, tri thức kinh nghiệm là sự phản ánh cái hiện tợng, cái đơn nhất,
cái cụ thể, cái trực tiÕp, bỊ ngoµi cđa sù vËt. Nã míi chØ lµ mét h×nh thøc, mét
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trình độ của nhận thức, nên cha thể nắm bắt đợc một cách đầy đủ, toàn diện cái tất
yếu, cái bản chất sâu sắc, cũng nh các mối liên hệ bên trong của sù vËt, hiƯn tỵng.
Ph. ¡ngghen nhËn xÐt trong BiƯn chøng của tự nhiên: "Sự quan sát theo kinh
nghệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh đợc đầy đủ tính tất yếu" (C. Mác
và Ăngghen, 1978-1995, tập 20, tr. 718). Về điểm này, triết gia duy tâm khách
quan Đức nổi tiếng thời cận đại là G.V. Heget cũng từng khẳng định rằng, nếu chỉ
dừng lại ở sự quan sát kinh nghiệm thì chỉ: '' biến đổi kế tiếp nhau… nhng nã
kh«ng cho ta thÊy tÝnh tÊt u cđa mối liên hệ" (C. Mác và Ăngghen, 1978-1995,
tập 20, tr. 963).
Để nắm bắt đợc bản chất của sự vật thì nhận thức của con ngời tất yếu phải
chuyển lên trình độ tri thức lý luận. Đây là một trình độ cao h¬n vỊ chÊt so víi tri
thøc kinh nghiƯm. Tri thức lý luận đợc khái quát từ tri thức kinh nghiệm. Nó tồn
tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, giả thuyết, lý thuyết, học
thuyết nào đó. Lý luận hình thành từ kinh nghiệm nhng nó không xuất hiện một
cách trực tiếp, tự phát và không phải mọi lý luận đều xuất phát trực tiếp từ kinh
nghiệm. Hå ChÝ Minh nãi: "Lý ln lµ sù tỉng kÕt những kinh nghiệm của loài
ngời, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xà hội, đợc tích luỹ lại trong
quá trình lịch sử" (Hồ Chí Minh, 1995-1996, tập 8, tr. 497).
Tri thức lý luận ở vào trình độ cao nhất của tri thức khoa học, là sản phẩm
của t duy bậc cao. Cố nhiên nó phải là kết quả của quá trình nghiên cứu, học tập
nghiêm túc, bỊn bØ, cã hƯ thèng cđa con ngêi. Mét sù nghiên cứu cẩu thả, hời hợt,
không chịu đào sâu, thiếu kiên trì, không chuyên tâm, chắc chắn không thể đem
lại hiểu biết ở trình độ tri thức lý luận đợc. Nó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tợng,
khái quát khách thể nhng là sự phản ánh sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn
tri thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận mang lại những hiểu biết có tính bản chất,
bên trong, vạch ra những mối liên hệ tất nhiên, và tính quy luật của đối tợng. Một
sự hiểu biÕt nh vËy sÏ cho phÐp con ngêi tiÕn gÇn sát đến chân lý về sự thật. Nh C.
Mác chỉ ra, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là: "đem quy sự vận động bề ngoài
chỉ biểu hiện trong hiện tợng về sự vận động bên trong thực sự" (Bộ Giáo dục và
Đào tạo, 1993, tập 3, tr. 65). Tri thức lý luận chính là sự khái quát từ tri thức kinh
nghiệm; là một trình độ cao hơn về chất so víi tri thøc kinh nghiƯm. Tri thøc lý
ln dï đợc hình thành từ tri thức kinh nghiệm nhng không phải hình thành một
cách tự phát và không phải tri thức lý luận nào cũng hình thành từ kinh nghiệm.
Nhờ tính độc lập tơng đối này mà có lúc lý luận có thể đi trớc các dữ liệu kinh
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiÖm. Tri thøc lý luận là sự biểu hiện chân lý chính xác hơn, hệ thống hơn, có
tính bản chất sâu sắc hơn và vì thế, phạm vi ứng dụng của nó cũng rộng hơn nhiều
so với tri thức kinh nghiệm (Hội đồng Trung Ương, 1999, tr. 363).
Nhờ những u điểm trên mà tri thøc lý luËn cã vai trß rÊt quan träng đối với
thực tiễn, tác động và góp phần biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động năng động
có ý thức cđa con ngêi. Lý ln lµ kim chØ nam cho mọi hoạt động và góp phần soi
đờng chỉ lối cho thực tiễn đi đúng hớng. V.I. Lênin đà chỉ ra vai trò quan trọng của
lý luận: "Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng"
(V.I. Lênin, 1974-1981, tập 26, tr. 30). Trớc đó, C. Mác cũng đà chỉ ra vai trò
quan trọng của lý luận, một khi nó thâm nhập đợc vào quần chúng nhân dân thì sẽ
trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Tri thức lý luận có thể dự kiến đợc sự phát triển
và vận động của sự vật trong tơng lai, dự báo đợc những phơng hớng mới cho sự
phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con ngời chủ
động hơn, tự giác hơn, hạn chế đợc sự mò mẫm, tự phát, mất phơng hớng.
Tri thøc lý ln vµ tri thøc kinh nghiƯm lµ hai trình độ phản ánh khác nhau
nhng chúng liên hệ hữu cơ, mật thiết với nhau và bổ sung cho nhau để nắm bắt
chuẩn xác hơn bản chất của sự vật. Xét về nguồn gốc của hai trình độ nhận thức
này, có tác giả nhầm tởng nhận thức kinh nghiệm chính là nhận thức cảm tính, và
nhận thức lý luận là đồng nhất với nhận thức lý tính. Cách hiểu trên là máy móc,
siêu hình, không thấy đợc tính phức tạp của sự phản ánh bằng ý thức, một thuộc
tính đặc biƯt, chØ riªng cã ë bé ãc con ngêi chø không có ở bất cứ một hệ thống
vật chất nào khác. Thực ra, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không
đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhËn thøc lý tÝnh. "Ranh giíi cđa nhËn thøc
kinh nghiƯm và nhận thức lý luận, do vậy, không trùng khớp với ranh giới của
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính". Và: "Nhận thức kinh nghiệm, trên thực
tế, có một phần ở trình độ lý tính, do đó nó rộng hơn cảm tính, nhận thức kinh
nghiệm bao hàm một phần công việc xử lý về mặt lý tính các tài liệu cảm tính"
(Nguyễn Duy Quý, 2000, tr. 18-19). Cách hiểu trên phù hợp với tiến trình biện
chứng nhận thức hiện đại, đợc Nguyễn Duy Quý mô tả trong tác phẩm Nhận thức
thế giới vi mô. Nếu tuyệt đối hoá một trong hai giai đoạn của nhận thức, để đi đến
sự phân định rạch ròi giữa hai trình độ của tri thøc khoa häc, nhËn thøc cđa chóng
ta sÏ r¬i vào một trong hai cực của quan điểm siêu hình về nhận thức mà lịch sử t
tởng nhân loại đà từng cho thấy. Đó là chủ nghĩa duy cảm hoặc chñ nghÜa duy lý.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chia sẻ và tán đồng quan niệm nói trên của Nguyễn Duy Quý, trong bài báo
Từ t duy kinh nghiệm đến t duy lý luận, Hoàng Chí Bảo cũng cho rằng, tri thức
kinh nghiệm thông thờng "tuy đà ở vào giai đoạn nhận thức lý tính nhng đó là lý
tính cha đầy đủ, cha khoa häc". Tri thøc kinh nghiƯm thêng híng tíi "mô tả
những đặc điểm, những mối liên hệ, quan hệ của đối tợng, hơn là phân tích,
khái quát những bản chÊt cđa sù vËt", bëi thÕ, "ph¹m vi cđa tri thức kinh
nghiệm hẹp hơn, thuần phác và thô sơ hơn, ít triệt để hơn" (Hoàng Chí Bảo,
1988, tr. 54-55). Tuy nhiên, trên thực tế, ranh giới giữa tri thức kinh nghiệm và tri
thức lý luận đôi khi chỉ là tơng đối, vì không có một kết quả nào của nhận thức lại
không phả là sự thống nhất biện chứng của hai quá trình nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tÝnh.
Do tri thøc kinh nghiƯm cã néi dung "kh¸ch quan hơn, bắt nguồn từ hoạt
động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con ngời" (Hữu Ngọc, 1987,
tr. 245) nên nó đóng vai trò là cơ sở cung cấp thông tin, dữ liệu chân thực để nhận
thức đợc các thuộc tính, bản chất của đối tợng. Theo phơng pháp nhận thức đi từ
trừu tợng đến cụ thể thì tri thức kinh nghiệm chỉ là sự trừu tợng chung, mới chỉ
nhận thức đợc một số mặt của đối tợng. Chính vì vậy, bớc chuyển từ tri thức kinh
nghiệm lên trình độ tri thức lý luận là tất yếu, khách quan nhằm nắm bắt đợc đầy
đủ hơn bản chất của sự vật. Bớc chuyển này phù hợp với con đờng biện chứng của
sự nhận thức chân lý mà V.I. Lênin đà vạch ra trong tác phẩm Bút kí triết học:
"Từ trực quan sinh động đến t duy trừu tợng và từ t duy trừu tợng đến thực
tiễn- đó là con ®êng biƯn chøng cđa sù nhËn thøc ch©n lý, cđa sự nhận thức
thực tại khách quan" (V.I. Lênin, 1974-1981, tập 29, tr. 179). Tách khỏi tri thức
kinh nghiệm, tuyệt đối hoá tri thức lý luận, xa rời thực tiễn thì tri thức lý luận dễ
trở thành giáo điều, ảo tởng hoặc duy lý. Bởi vì: "lí luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995-1996, tập 8, tr. 496). Ngợc lại
nếu đè cao quá mức vai trò của tri thức kinh nghiệm mà coi thờng tri thức lý luận
cũng sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, một cực khác của lối t duy siêu hình, máy
móc. Đúng nh Hồ Chí Minh nói: "Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng
nh một mắt sáng một mắt mờ" và "không có lý luận thì lúng túng nh nhắm mắt
mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995-1996, tập 5, tr. 234). Tuyệt đối hoá vai trò của tri thức
kinh nghiệm cũng dẫn đến thứ chủ nghĩa giáo điều kinh nghiệm, đây là "lối t duy
ở trình độ kinh nghiƯm c¶m tÝnh, rÊt Ýt u tè duy lý, coi trọng tổng hợp thô sơ,
hoặc suy diễn trừu tợng, coi nhẹ phân tích, chứng minh, quy nạp" (Trần Hữu
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
TiÕn, 1988, tr. 15). ThÊy râ u thÕ cña tri thøc lý luËn so với tri thức kinh nghiệm,
song cũng cần phải tỉnh t¸o nhËn thÊy r»ng, do tÝnh gi¸n tiÕp trong sù phản ánh
hiện thực khách quan, nên lý luận có nguy cơ phản ánh sai sự thật do xa rời thực
tiễn. Khả năng đó càng tăng lên nếu lý luận đó bị chi phối của các t tởng không
khoa học. Trớc đây, khi bàn về lý luận nhận thức, V.I. Lênin đà từng chỉ ra khả
năng này, yêu cầu phải quán triệt chặt chẽ con đờng biện chứng của nhận thức là
từ trực quan sinh động đến t duy trừu tợng và từ t duy từu tợng đến thực tiễn. Vì
vậy, cần coi trọng lý luận nhng không đợc thổi phồng vai trò của lý luận đến mức
tách rời lý luận khái thùc tiƠn, lµm cho lý ln mÊt hÕt sinh khí của nó. Điều này
đà đợc Hồ Chí Minh nhắc nhở nhiều lần: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hớng dẫn là thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995-1996, tập 8, tr. 496).
Học giả Xô Viết, G.I. Ruzavin, trong cuốn Các phơng pháp nghiên cứu
khoa học, cũng đà chỉ ra sự khác biệt giữa tri thức khoa học và tri thức thông thờng. Theo tác giả, giữa chúng có đặc điểm chung là đều dựa trên các sự kiện
khách quan, đều nhằm đạt tới chân lý khách quan. Trong đó tri thức khoa học nảy
sinh từ những hiểu biết thông thờng nhng không phải là sự kế tục trực tiếp tri thức
thông thờng. Tri thức khoa học không chỉ tìm ra các sự kiện mới mà còn nhằm
giải thích các hiểu biết mới này bằng các giả thuyết, lý thuyết, định luật đà có,
hoặc đề ra các lý thuyết mới để giải thích chúng. Hơn nữa, con ngời chỉ có thể đạt
đến tri thức khoa học thông qua những phơng pháp nghiên cứu nhất định, dựa trên
những quy luật nhất định của thế giới khách quan. Trong khi đó, tri thức thông thờng đợc nhận thức một cách trực tiếp, là t duy thực tế không có hệ thống và không
có phơng pháp (G.I. Ruzavin, 1983, tr. 3). Một số tác giả, trong công trình Lịch sử
phép biện chứng mácxít, cũng cã quan niƯm t¬ng tù. Theo hä, sù hiĨu biÕt mang
tÝnh chÊt lý ln khoa häc so víi hiĨu biÕt thông thờng, đợc ví nh là: "hai tấm gơng của cùng một hiện thực, trong đó hiện thực này đợc thể hiện một cách
khác nhau, nhiều khi đối lập nhau" (Nhiều tác giả, 1986, tr. 327).
Phân tích trên cho thấy, việc vơn lên từ trình độ tri thức kinh nghiệm đến
trình độ tri thức lý luận là một tất yếu khách quan, nhằm nắm bắt bản chất sự vật
một cách ngày càng đầy đủ hơn, gần đúng hơn. Hơn thế nữa, đối với nớc ta, nó có
vai trò đặc biệt quan träng trong viƯc kh¾c phơc " bƯnh chđ quan, duy ý chí, lối
suy nghĩ giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan" mà Văn kiện
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đà kiên quyết vạch ra (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 1986, tr. 26)
Trong lịch sử t tởng nhân loại, triết gia cổ điển Đức, I.Kant, cũng đà chia tri
thức ra thành tri thức khoa học và tri thức thông thờng. Theo ông tri thức khoa học
tuyệt đối là chính xác, mang tính phổ biến và tất yếu vì nó là tri thức siêu nghiệm
có trớc kinh nghiệm. Còn tri thức thông thờng do dựa trên kinh nghiệm nên không
tuyệt đối chính xác, không có tính tất yếu và phổ biến. Do quan điểm duy tâm chủ
quan và vì không xem xét sự phát triển của tri thức kinh nghiệm theo quan điểm
lịch sử nên ông đà giải quyết vấn đề tính phổ biến và tính tất yếu tiên thiên một
cách duy tâm (Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, 1962, tr. 54-55). Thực ra, ngay
cả tri thức toán học, dù có vẻ rất cao siêu, trừu tợng nhng nh Ph.Ăngghen chỉ ra,
nó cũng chỉ là sự phản ánh "những nhu cầu thực tiễn của con ngời từ việc đo
diện tích các khoảng đất và việc lờng diện tích của ngững bình chứa, từ việc
đếm thời gian và từ cơ học " ( C.Mác, Ph. Ăngghen, 1978-1995, tập 20, tr. 59).
Có thể khẳng định rằng: tri thức khoa học là kết quả của sự phản ánh thực tiễn,
chứ không phải là sản phẩm thuần tuý tinh thần nh G.V Hegel quan niệm, cũng
không phải là cái tiên thiên có sẵn nh cách hiểu của I.Kant. Tri thøc chØ cã thĨ t×m
thÊy trong cc sèng, trong thùc tiễn chứ không thể dừng lại trong sách vở. Tri
thức sách vở xét đến cùng chẳng qua là sự tổng kết cuộc sống và thực tiễn mà thôi.
Sự phát triển cđa tri thøc khoa häc, cïng víi hƯ thèng c¸c khái niệm, phạm trù,
quy luật của nó ngày càng phong phú hơn cả về số lợng lẫn chất lợng, càng chứng
tỏ "sự tách khỏi giới tự nhiên" của con ngời để chinh phục và ngày càng "nắm
vững đợc mạng lới " tự nhiên đó, đúng nh nhận xét của V.I. Lªnin trong Bót Ký
triÕt häc (V.I. Lªnin, 1974-1981, tËp 29, tr. 102)
Phân tích hai cấp độ của tri thức khoa häc lµ tri thøc kinh nghiƯm vµ tri thøc
lý ln trên đây cho phếp chúng ta thấy đợc mức độ nông sâu của chúng, cũng nh
vai trò của từng cấp độ tri thức và sự đan xen và tác động qua lại giữa chúng một
cách hữu cơ. Giữa các cấp độ, trình độ của các tri thức khoa học có sự tiếp nối, kế
thừa lẫn nhau. Ngay cả trình độ tri thức kinh nghiệm (tiền khoa học) đà xuất hiện
những mÇm mèng cđa lý ln. Tri thøc kinh nghiƯm, chÝnh là cơ sở dữ liệu để
khái quát, hình thành nên tri thøc lý luËn. Tri thøc lý luËn n©ng tri thức kinh
nghiệm lên trình độ cao hơn về chất, từ chỗ là cái cụ thể, đơn nhất trở thành cái có
tính khái quát, phổ biến. Ngày nay, cùng với việc nâng cao trình độ học vấn của
nhân dân, các thuật ngữ khoa học, công nghệ hiện đại cũng đợc các ph¬ng tiƯn
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thông tin đại chúng phổ cập và dần đI vào tri thức của quần chúng. Đó chính là cơ
sở để họ tiếp nhận và nâng cấp từ trình độ tri thức kinh nghiệm lên tới trình độ tri
thức lý luận và nâng cao khả năng du nhập tri thức khoa học áp dụng vào đời sống
thực tiễn, biến tri thức đó thành sự giàu có và văn minh. Tri thức khoa học đà và
đang đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao chất lợng sống cho nhân dân, làm cho
họ có thể làm chđ vËn mƯnh cđa m×nh.
* Tri thøc khoa häc cã những đặc trng sau:
-Tri thức khoa học là tri thức ở tầm quản lí đợc cái bản chất, quy luật,
nguyên nhân, xu hớng của thế giới khách quan.
-Tri thức khoa häc lµ tri thøc cã tÝnh hƯ thèng vỊ sù vật khách quan.
-Tri thức khoa học là tri thức chân thực về thế giới khách quan và không
ngừng phải đợc kiĨm tra vµ chøng minh bëi logic vµ thùc tiƠn.
2- Vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của kinh tế-xà hội
Tri thức khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động
thực tiễn. Vai trò của tri thức khoa học ngày càng tăng lên đối với sự phát triển của
xà hội.
Ngày nay, tri thức khoa học đà trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Vai trò
của nó đợc thể hiện ở chỗ tri thức khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời những
ngành sản xuất mới, công nghệ mới, nguyên liệu mới. Không chỉ vậy khoa học
còn là yếu tố tri thức không thể thiếu đợc của ngời lao động, biến ngời lao động
thành ngời điều khiển, kiểm tra quá trình sản xuất. Đội ngũ các nhà khoa học, kĩ
thuật viên trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ngày một đông. Bản thân khoa
học cũng đà là một lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất với quy mô ngày càng
lớn.
Cùng với khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật, các khoa học xà hội nh
kinh tÕ häc, lt häc, x· héi häc… cịng kh«ng ngừng phát triển và đóng vai trò
quan trọng trong đời sống xà hội. Khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất lợng cuộc sống mà còn giúp con ngời có đầu óc t duy sáng tạo, tầm nhìn sâu rộng.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nhà lÃnh đạo vì phải nắm đợc cơ sở khoa
học thực tế thì mới hoạch định đợc chính sách, đờng lèi ph¸t triĨn cđa mét tỉ chøc
hay mét qc gia.
NỊn kinh tế thế giới chuyển dần sang cơ cấu phát triển theo chiều sâu, đặc
biệt là trong công nghiệp cơ cấu đó chuyển dịch khá nhanh về phía những ngành
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có hàm lợng khoa học, công nghệ và trí tuệ cao. Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật
đà làm cho vai trò của năng lợng và lợi thế so sánh của nguyên liệu và sản phẩm
sơ cấp trong công nghiệp giảm dần. Trớc tình hình đó để tránh thua thiệt những nớc xuất khẩu nguyên liệu và những sản phẩm sơ cấp - mà ở đây chủ yếu là các nớc
đang phát triển - phải tìm cách nhanh chóng nâng cao năng lực biến đổi tài nguyên
thành sản phẩm tiêu dùng cao cấp, muốn nh thế thì không có cách nào khác hơn là
phảI tìm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Nh vậy do tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà yêu cầu phảI đổi
mới về mặt kinh tế, từ cơ cấu sản xuất cho đến quan hệ giữa các quốc gia, trở
thành một tất yếu không thể cỡng lại đợc nếu nh quốc gia đó muốn tồn tại và
không bị nhấn chìm.
Ngày nay, việc quản lý xà hội, trong đó quan trọng là quản lý kinh tế, quản
lý Nhà nớc, xà hội thành công đến mức nào là tuỳ thuộc vào khả năng xử lý thông
tin. Không theo kịp những biến đổi hết sức mới trong lĩnh vực này mà kh kh giữ
lấy cách quản lý cũ, lạc hậu thì không tránh khỏi bỏ lỡ thời cơ có thể vơn lên để
tiến kịp cùng thời đại và thoát ra sự trì trệ.
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nớc thoát
ra khỏi sự lạc hậu và trì trệ nếu nh biết định hớng đúng, nếu có một tiềm năng nhất
định nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần thiết để tiếp thu các
công nghệ tơng đối hiịen đại. Khi đà có những kỹ thuật và công nghệ mới, tiến bộ
thì vấn đề đặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số đông lao động dôi ra, tìm
thị trờng tiêu thụ sản phẩm Nếu giải quyết tốt chúng thì khả năng hội nhËp víi
trµo lu chung cđa thÕ giíi lµ hiƯn thùc. Song tiến bộ khoa hoc - kỹ thuật thời đại
chúng ta còn có một mặt khác nghiệt ngà là hoàn toàn có khả năng nhấn các nớc
kém phát triển chìm sâu hơn trong cảnh lạc hậu và phụ thuộc, đồng thời còn tạo
nên một khoảng cách còn lớn gấp bội so với khoảng cách đà từng tồn tại trớc đây
giữa họ và các nớc phát triển nếu nh họ không tìm ra con đờng thích hợp hoặc cố
tình duy trì cách làm ăn cũ, thói quen cũ, không thích nghi với những biến đổi của
thời đại.
Nh vậy trong thế giới hiện đại vừa liên kết hợp tác, vừa chứa đầy mâu thuẫn
và cạnh tranh khốc liệt, mọi quốc gia trong đó có chúng ta, nếu không muốn giành
cho một vị trí xứng đáng hay ít ra để không bị nhấn chìm, đều không thể cỡng lại
xu thế của thời đại là đổi mới mọi mặt trên cơ sở nhận thức, đánh giá và sử dụng
đúng đắn, nhanh chóng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất đợc loài ngêi t¹o
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ra, ®ång thêi biết khai thác những nguồn lực khác có thể khai thác. Sự tác động hết
sức to lớn của tri thức khoa học - công nghệ ngày nay đang dẫn dắt các nền kinh tế
của các nớc phát triển đến "nền kinh tế tri thức". Đó chính là tiên đoán của C.
Mác: "Khoa học ngày càng trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp".
Tóm lại, có khoa học là bạn đồng hành thì xà hội ngày càng văn minh tiến
bộ.
Chơng II :Thực trạng tri thức khoa học trong
công cuộc đổi mới cđa ViƯt Nam
1.Vai trß cđa tri thøc khoa häc trong công cuộc đổi mới của Việt Nam.
1.1.Tính tất yếu của công cuộc đổi mới:
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra những biến đổi xà hội nhanh chóng và
sâu sắc. Khoa học - công nghệ đà đạt đợc những thành tựu rất to lớn. So với các nớc trên thế giíi, ViƯt Nam tơt hËu rÊt nhiỊu. Cơ thĨ lµ:
- Trình độ công nghệ lạc hậu tụt xa so với c¸c níc.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- TiÒm lùc khoa học công nghệ yếu cả về nguồn nhân lực, khoa học công
nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt động khoa học công nghệ.
- Cơ chế quản lí khoa học công nghệ còn yếu kém.
- Khoa học công nghệ ít gắn bó với sản xuất kinh doanh.
Do vậy đổi mới chính là con đờng duy nhất của chúng ta. Chỉ có đổi mới
mới đa đất nớc ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, trở thành một nớc có nền kinh tế
phát triển, làm cho "Dân giàu, nớc mạnh, XÃ hội công bằng, văn minh"
1.2.Tri thức khoa học là nền tảng và động lực cho sự phát triển của Việt Nam
trong công cuộc đổi mới.
Trong công cuộc đổi mới, tri thức khoa học đợc xem là nền tảng và động
lực của sự phát triển đất nớc. Những cơ sở khoa học cùng những luận cứ khoa học
đà giúp Đảng có một sự định hớng đúng đắn về đờng lối chính sách phát triển của
đất nớc; vạch ra kế hoạch phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nông
nghiệp, Du lịch dịch vụ, Khoa học công nghệ Nói đến vai trò nền tảng và động
lực của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới là nói đến con đờng công
nghiệp hoá hiện đại hoá dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ, coi khoa học công
nghệ là lực lợng sản xuất trực tiếp và hàng đầu. Quan diểm này cho thấy rõ sự
quyết tâm và lựa chọn sáng suốt của Đảng ta trong đổi mới t duy, đổi mới quan
niệm và đổi mới phơng thức phát triển phù hợp với những đòi hỏi phải tiến hành
công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá với tốc độ nhanh nhng vẫn đảm bảo tính
bền vững trong những thập niên đầu thế kỉ 21.
Nhìn lại thế kỉ 20 đà qua chúng ta thấy có những đổi thay to lớn do khoa
học - công nghệ mang lại. Trên thế giới sự xuất hiện các nhóm nớc mới công
nghiệp hoá (NIC) sau chiến tranh thế giới thứ 2 cũng không nằm ngoài ảnh hởng
lan toả của các thành tựu khoa học công nghệ thông qua quá trình chuyển giao
công nghệ tiến bộ bằng các chính sách công nghiệp và nông nghiệp khôn ngoan,
các nớc NIC đà tận dụng đợc cơ hội tiếp thu nhanh chóng các công nghệ mới, thay
đổi các phơng thức sản xuất cũ vốn dựa trên lao động thủ công và tài nguyên chủ
yếu để chuyển sang áp dụng các kĩ thuật cơ khí hoá, tự động hoá theo hớng tạo ra
các giá trị gia tăng cao thúc đẩy sự phát triển, tăng trởng kinh tế. Nhờ đi theo con
đờng công nghiệp hoá dựa hẳn vào khoa học - công nghệ mà một số nớc đà rút
ngắn hẳn đợc thời gian cần thiết để làm tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu ngời.
Trớc kia, nớc Anh phải mất 58 năm, Mỹ mất 47 năm thì giờ đây Braxin chỉ mất 18
năm, Hàn Quốc 11 năm và Trung Quốc chỉ trong vòng 10 năm. Ta có thể so sánh
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hµn Quèc vµ Gana vào những năm 60 và bây giờ. Điểm xuất phát hai nớc đều có
mức thu nhập bình quân đầu ngời nh nhau, đều là các quốc gia chậm phát triển.
Vậy mà ngày nay, thu nhập đầu ngời của Hàn Quốc đà gấp hơn 6 lần của Gana. Vì
sao có sự cách biệt lớn lao nh vậy? Đó là do Hàn Quốc đà thu nhận và sử dụng tri
thức khoa học sáng tạo và phù hợp với thực tiễn hơn.
Thực tiễn trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy: ở đâu có sự sáng tạo
trong công cuộc đổi mới các giải pháp về khoa học - công nghệ thì ở đó có sự tiến
bộ vợt bậc. Thử hỏi nếu ViƯt Nam vÉn gi÷ nỊn kinh tÕ tËp trung bao cấp cha
chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì hiện giờ đất nớc chúng ta sẽ ra
sao?
Về Nông nghiệp, với sự sáng tạo của Đảng ta trong chính sách khoán áp
dụng trong nông nghiệp những năm 80 là một ví dụ điển hình cho thấy vai trò của
chính sách trong việc tạo ra mức tăng trởng sản lợng kỉ lục về lơng thực mà không
có một yếu tố sản xuất thông thờng nào nh: vốn, lao động, vật t có thể mang lại
(năm 2004 Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo). Chính sách mới
làm cho ngời lao động làm việc có trách nhiệm và năng nổ sáng tạo hơn. Đảng đÃ
đẩy mạnh và khuyến khích nông dân đa khoa học - công nghệ vào sản xuất nh: sử
dụng các loại giống mới, phân bón, máy móc sản xuất theo công nghệ cao của thế
giới; nâng cấp hệ thống thuỷ lợi bằng cách đầu t, cải tạo, nâng cấp hệ thống sông,
đê ngăn chặn nớc mặn.ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật và vật liệu mới trong thiết kế
và thi công công trình là cho việc thực hiện công trình xảy ra nhanh chóng đáp
ứng kịp thời nhu cầu, lợi ích của bà con nông dân.
Về công nghiệp, qua quá trình sáng tạo và triển khai chính sách mở cửa thu
hút vốn đầu t nớc ngoài đà dẫn tới sự ra đời của một khu vùc kinh tÕ míi - Khu
vùc kinh tÕ cã vốn đầu t nớc ngoài rất năng động, có tốc độ tăng trởng tơng đối
cao, chiếm trên 15,5% GDP, trên 33% kim ngạch xuất khẩu của cả nớc. Các công
ty xí nghiệp nhờ đi thẳng vào công nghệ hiện đại mà đà đạt đợc những thắng lợi
ngoài cả sự mong đợi. Ví dụ điển hình là công ty chế biến sữa Vinamilk từ tình
trạng vô cùng khó khăn đà vơn lên sản xuất ra đợc những sản phẩm cạnh tranh đợc
với hàng nhập ngoại.
Trong các ngành, bu chính viễn thông, khai thác dầu khí và các ngành nghề
khác nhờ những quyết định táo bạo trong đầu t vào kĩ thuật công nghệ hiện đại mà
đạt mức tăng trởng cao trong thời gian dài, ổn định. Văn hoá giáo dục đợc nâng
cấp, đầu t cơ sở một cách thoả đáng.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thùc tÕ cho thấy sau 20 năm đổi mới dựa vào tiềm năng của đất nớc và sự
trợ giúp của Khoa học - công nghệ chúng ta đà đạt đợc những thành tựu đáng kể.
Về kinh tế, tổng sản lợng trong nớc năm 2006 tăng gấp nhiều so với năm
1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xà hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế
từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay đà sản xuất đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của nhân dân. Nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển
sang cơ chế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa. Đời sống của nhân dân dần đợc
cải thiện. Đất nớc đà ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xà hội, vợt qua đợc cơn chấn
động chính trị và sự hụt hẫng về thị trờng, kinh tế tăng trởng tơng đối cao: Tổng
sản phẩm trong nớc trong 5 năm (2001-2005) tăng bình quân 7,5% trong một
năm; tốc độ tăng GDP trong những năm qua: năm 2001 là 6,9%; năm 2002 là
7,08%; năm 2003 là 7,3%; năm 2004 là 7,7%. Tính đến năm 2005, GDP ớc đạt
817622 tỷ đồng, bình quân đầu ngời là 9,8 triệu đồng (tơng đơng 600 USD). Giá
trị nông - lâm - ng nghiệp tăng bình quân 5,4%, trong đó: nông nghiệp tăng 5,6%,
lâm nghiệp 0,4% và ng nghiệp tăng 8,9%. Công nghiệp đà đạt đợc nhiều thành tựu
đáng kể. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng năm là 15,7%. Đầu t sản xuất ra sản
phẩm có chiều sâu, đáp ứng đợc nhu cầu trong nớc và xuất khẩu. Dịch vụ phát
triển với giá trị trung bình là 7,6%/ năm. Lạm phát giảm đáng kể.
Về chính trị xà hội, nghiên cứu khoa học xà hội và nhân văn trong những
năm qua đà có đóng góp tích cực phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng
xà héi chđ nghÜa ë ViƯt Nam trong thÕ kØ 20. Khoa học xà hội còn đóng góp quan
trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản dới luật, các chính sách và hiệp định quốc tế, trong đó có hiệp định thơng mại Việt Mỹ, khoa học xà hội còn hớng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể bức xúc trong
thực tiễn phát triển kinh tế xà hội nh: vấn đề toàn cầu hoá, quốc tế hoá, công
nghiệp hoá - hiện đại hoá Các vấn đề tôn giáo, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy văn hoá phát triển lành mạnh với phơng
châm "Hoà nhập nhng không hoà tan ". Bên cạnh việc tiếp thu văn hoá thế giới
chúng ta không quên giữ gìn và phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt
Nam. Giáo dục ngày càng đợc chú trọng. Các quốc gia phát triển đà rút ra một
điểm quan trọng là: Giáo dục là con đờng ngắn nhất để phát triển, để tiến tới nền
kinh tế tri thức hay còn gọi là nền kinh tế chất xám. ở Việt Nam từ năm 1997 đến
nay, nhân lực Khoa học - Công nghệ cả nớc đà tăng 2,3 lần. Cán bộ Khoa học
công nghệ có trình độ Đại học đạt xấp xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ sung thªm
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khoảng 180 nghìn ngời. Cán bộ có trình độ tiến sĩ đà tăng lên gần 14,5 nghìn vào
năm 2003. Trình độ, năng lực cán bộ trong một số lĩnh vực nh nông nghiệp, xây
dựng,giao thông vận tải, công trình điện, bu chính viễn thông, thăm dò và khai
thác dầu khí đạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực. Bắt đầu từ năm 2000
chính phủ đà bố trí khoản ngân sách riêng để hàng năm chủ động gửi sinh viên
cán bộ khoa học - công nghệ có năng lực đi đào tạo dài hạn tại các nớc có nền
Khoa học tiên tiến.
Khoa học - Công nghệ đà có khả năng làm chủ và thích nghi nhiều công
nghệ tiên tiến của nớc ngoài trong các lĩnh vực nh viễn thông, khai thác dầu khí,
năng lợng
Nhiều vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với đất nớc do thực tiễn
đặt ra đợc các lực lợng Khoa học - Công nghệ nghiên cứu và giải quyết nh: Cơ sở
khoa học cho các phơng án phòng chống thiên tai, các phơng pháp sản xuất
Vacxin phòng bệnh
Rõ ràng, quan niệm về vai trò nền tảng và động lực phát triển của Khoa
học - Công nghệ đối với sự phát triển vừa có cơ sở thực tiễn trong nớc vừa hợp với
xu thế phát triển chung của thế giới, khi lợi thế tơng đối của các yếu tố lao động rẻ
và tài nguyên thiên nhiên đang chuyển dần sang các yếu tố tri thức Khoa học Công nghệ.
2. Những yếu kém và hạn chế của tri thức Khoa học-Công nghệ ở nớc ta hiện
nay.
Bên cạnh những thành tựu đà đạt đợc, hoạt động Khoa học - Công nghệ ở nớc ta cũng còn nhiều hạn chế cha đáp ứng đợc yêu cầu của sự phát triển kinh tế xÃ
hội trong giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc và cha thực
sự đóng vai trò động lực - nền tảng cho phát triển. Sau đây là một số biểu hiện:
- Tiềm lực Khoa học - Công nghệ vẫn còn ở mức thấp so với thế giới và khu
vực, cha đáp ứng đợc đòi hỏi của nhu cầu phát triển. Tỉ lệ cán bộ Khoa học - Công
nghệ trên tổng số dân cha cao so với các nớc trong khu vực và trên thế giới. Đặc
biệt, còn thiếu rất nhiều chuyên gia đầu ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến
hành chậm, nguy cơ hụt hẫng trong đội ngũ rất lớn, nhất là trong những ngành mũi
nhọn nh công nghệ tin học, sinh học, cơ khí, chế tạo máy. Việc xếp loại các cơ
quan Khoa học - Công nghệ còn lúng túng, việc sử dụng đội ngũ trí thức còn lÃng
phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học còn thấp xa so với nhu
cầu thực tiễn.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- C¬ chÕ quản lí kinh tế cha thực sự gắn kết với các hoạt động Khoa học Công nghệ với kinh tế xà hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt
động Khoa học - Công nghệ phát triển.
- Cơ chế quản lí Khoa học - Công nghệ chậm và cha đợc đổi mới một cách
căn bản mặc dù t tởng đổi mới cơ chế quản lí đà xuất hiện từ rất sớm. Cha có sự
liên thông giữa cơ chế quản lí kinh tế và cơ chế quản lí Khoa học - Công nghệ. Cha đảm bảo đợc quyền lợi vật chất và tôn vinh xứng đáng đối với các nhà khoa học
có cống hiến lớn. Cơ chế hình thành, quản lí, đánh giá các đề tài Khoa học - Công
nghệ vẫn còn nhiều khó khăn để có thể chuyển đổi theo tinh thần đổi mới của luật
Khoa học - Công nghệ.
- Thị trờng Khoa học - Công nghệ còn manh nha cha phát triển. Mặc dù giá
trị các hợp đồng kí kết giữa các cơ quan Khoa học - Công nghệ với các tổ chức
kinh tế xà hội, giữa trong nớc và nớc ngoài đang tăng lên nhng vẫn cha xứng đáng
với tiềm năng.
Chơng III : Những giảI pháp cần thiết và cấp bách
cho việc phát triển tri thøc Khoa häc ë níc
ta hiƯn nay
ViƯt Nam lµ nớc đi sau có nhiều khả năng tiếp cận những thành tựu Khoa
học - Công nghệ của thế giới. Do đó có thể rút ngắn đợc quá trình Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nớc. ở các nớc công nghiệp phát triển, kinh tế tri thức đang
có những bớc phát triển mạnh. Việt Nam không chỉ phải tích cực chuẩn bị cho bớc
phát triển này, mà cần phải tiếp nhận kinh tế tri thức ở những ngành, lĩnh vực mà
ta có khả năng, u thế. Hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao trình độ Khoa học Công nghệ và xây dựng tiềm lực khoa học. Đứng trớc tình hình đó, Đảng và nhà nớc đà vạch ra chiến lợc: Phát triển đồng bộ các ngành khoa học, gắn nghiên cứu
khoa học với sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện để Khoa học - Công nghệ thực sự
là động lực phát triển, vừa đảm bảo thực hiện công nghiêp hoá - Hiện đại hoá vừa
tạo ra tốc độ tăng trởng kinh tế cao. Đồng thời xây dựng tiềm lực Khoa học - Công
nghệ, xây dựng cơ sở để tõng bíc ph¸t triĨn kinh tÕ tri thøc ë ViƯt Nam, cụ thể là
một số giải pháp sau:
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Mét lµ, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nghị quyết đại
hội X của Đảng, nâng cao nhận thức toàn dân và các cấp, các ngành về vai trò nền
tảng và động lực của Khoa học - Công nghệ trong sự nghiệp Công nghiệp hoá Hiện đại hoá đất nớc.
- Hai là, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lí kinh tế nhằm tạo lập môi
trờng kinh tế - xà hội theo hớng tạo điều kiện, vừa khuyến khích vừa ràng buộc
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu t vào nghiên cứu đổi mới công
nghệ, đổi mới và nâng cao tính cạnh tranh thị trờng trong nớc và nớc ngoài.
- Ba là, đa luật Khoa học - Công nghệ vào cuộc sống rộng rÃi hơn. Tiến
hành tổng kết thực tiễn hoạt động Khoa học - Công nghệ những năm qua và kịp
thời thể chế hoá những mô hình tốt, cách làm hay đà đợc thực tiễn thử thách và
chứng minh. Đồng thời tích cực đổi mới về cơ bản cơ chế quản lí Khoa học - Công
nghệ theo tinh thần luật Khoa học - Công nghệ để nhanh chóng nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực Khoa học - Công nghệ.
- Bốn là, tháo gỡ các khó khăn, các ắch tắc để mở rộng và phát triển khai
thông thị trờng Khoa học - Công nghệ. Đây là nhiệm vụ hết sức cấp bách, cơ bản
và lâu dài, để phát huy hết vai trò ®éng lùc cđa Khoa häc - C«ng nghƯ trong sù
nghiƯp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc.
- Năm là, chú trọng và u tiên cho nghiên cứu và thực thi các chính sách sử
dụng và đÃi ngộ nhân tài tri thức khoa học bên cạnh các biện pháp chăm lo đào tạo
nhân lực Khoa học - Công nghệ.
- Sáu là, tăng cờng xây dựng cơ sở hạ tầng Khoa học - Công nghệ để nhanh
chóng hội nhập với thế giới và khu vực, đặc biệt là cơ sở hạ tầng về thông tin Khoa
học - Công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu cho các phòng thí nghiệm trọng điểm
quốc gia.
- Bảy là, đầu t để phát triển giáo dơc, khoa häc Ýt ra víi tØ lƯ kh«ng thÊp hơn
tỉ lệ trung bình của thế giới. Bằng mọi cách đẩy nhanh việc xáo nạn mù chữ và phổ
cập giáo dục từng bớc từ thấp đến cao. Gắn khoa học với sản xuất và đời sống, có
chính sách chiêu hiền đÃi sĩ, trọng dụng nhân tài. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ
sở hữu trí tuệ, đÃi ngộ đặc biệt đối với nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất
sắc.
- Tám là, tạo thị trờng cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính
nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công nghƯ víi s¶n xt,
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh doanh, qu¶n lí dịch vụ. Coi trọng việc nghiên cứu cơ bản trong các ngành
khoa học. Tăng đầu t ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và
công nghệ. Thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng và Nhà nớc đà đề ra: coi giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Kết luận
Trong suốt 20 năm đổi mới, chúng ta đà đạt đợc nhiều thành tựu đáng kể,
tuy còn nhiều thiếu sót và bất cập cùng với sự phát triển của đất nớc, tri thức khoa
học ngày càng có vai trò quan träng. ThÕ kØ 21 - thÕ kØ cã nhiÒu biến đổi sâu sắc
và phổ biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xà hội trên phạm vi toàn thế giới.Cả thế
giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triĨn nỊn kinh tÕ tri thøc. Nhê ¸p dơng c¸c
kü thuật Khoa học - Công nghệ của thế giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền
kinh tế tri thức mà không qua kinh tế công nghiệp. Đó là sự lựa chọn hợp lý và
đúng đắn. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng nó để đa tri thức khoa học vào tất
cả các lĩnh vực hoạt động chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt
cho một khu vực nào đó. Kinh tế tri thức theo cách hiểu nào đó là của mọi ngời,
nó phải đợc thẩm thấu vào trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và xà hội. Đất nớc
Việt Nam đà đi qua chiến tranh thắng lợi rất vẻ vang, vậy tại sao chúng ta không
thể chiến thắng trong việc xây dựng và phát triển đất nớc? Nhất định chúng ta sẽ
làm đợc và làm tốt bởi mang trong mình sức mạnh đoàn kết dân tộc và bản tính
thông minh lao động sáng tạo của con ngời Việt Nam. Những thắng lợi bớc đầu
của công cuộc đổi mới đà cho thấy râ ®iỊu ®ã.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy nhiªn, bªn cạnh những mặt tích cực tri thức khoa học còn gây ra nhiều
tiêu cực nh: gây ô nhiễm môi trờng, gây ra nhiều bệnh tật mới, làm cho xà hội
phân hoá giàu nghèo, Nếu biết khắc phục các mặt tiêu cực, phát huy các mặt
tích cực thì nớc ta sẽ nhanh chóng phát triển, theo kịp các nớc trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Lý luận, phơng pháp và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học - công nghệ _ PGS
TS Đỗ Công Tuấn
2. Danh từ thuật ngữ khoa học
3. Sinh ho¹t lý luËn - Sè 4 (47 - 2001) Häc viện chính trị quốc gia HCM - phân
viện Đà Nẵng
4. Tạp chí Cộng sản - Số 13 (7 - 2001)
5. Tạp chí Cộng sản - Số 19 (10 - 2001)
6. T¹p chÝ Khoa häc x· héi - Sè 5 (93) - 2006
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Môc lôc
Trang
Lêi më đầu............................................................................................................1
Chơng I :Tìm hiểu chung về ...............................................................................2
tri thức khoa học..................................................................................................2
1-Tri thøc khoa häc .................................................................................................................2
1.1-Kh¸i niƯm vỊ tri thøc...................................................................................................2
1.2-Kh¸i niƯm vỊ tri thøc khoa häc...................................................................................2
2- Vai trß cđa tri thøc khoa học đối với sự phát triển của kinh tế-xà hội..............................9
Chơng II :Thực trạng tri thức khoa học trong công cuộc ®ỉi míi cđa ViƯt
Nam.....................................................................................................................11
1.Vai trß cđa tri thøc khoa häc trong công cuộc đổi mới của Việt Nam............................11
1.1.Tính tất yếu của công cuộc đổi mới:.......................................................................11
1.2.Tri thức khoa học là nền tảng và động lực cho sự phát triển của Việt Nam trong
công cuộc đổi mới.............................................................................................................12
2. Những yếu kém và hạn chÕ cđa tri thøc Khoa häc-C«ng nghƯ ë níc ta hiện nay.......15
Chơng III : Những giảI pháp cần thiết và cÊp b¸ch cho viƯc ph¸t triĨn tri
thøc Khoa häc ë nớc ta hiện nay.......................................................................16
Kết luận...............................................................................................................18
Tài liệu tham khảo.............................................................................................19
21