Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

tìm hiểu về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn(1841 – 1883)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 48 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
I. Mục đích, ý nghĩa, lý do chọn đề tài
Trần Thúc Nhẫn hay còn được gọi là Trần Thúc Bình (1841- 1883), là
một trong những nhân vật quan trọng, trong khúc quanh của lịch sử nước
nhà, nữa cuối thế kỷ XIX. Khi mà ở giai đoạn này nhiều vấn đề phức tạp
của lịch sử nhân loại và dân tộc đã liên tiếp xảy ra, nó giống như một “ma
trận”mà không nước nào có thể cưỡng lại và thoát ra được cụ thể: Về thế
giới đó là sự phát triển ngày càng lớn mạnh và hoàn thiện của chủ nghĩa tư
bản, theo sau đó là quá trình bành trướng và xâm lược thuộc địa. Còn ở
trong nước đó là những mưu đồ và công cuộc xâm lược một cách trắng trợn
của bọn thực dân Pháp và phong trào kháng chiến chống pháp của nhân dân
ta, sự phân hóa về mặt nội bộ triều đình Huế với những cuộc đấu tranh về
mặt tư tưởng, chính trị, nên hòa hay nên chiến? chiến thì như thế nào? Còn
hoà thì như thế nào mà giữ được độc lập?...Thực tế đó đòi hỏi cần phải có
một sự nhận thức một cách đúng đắn và khoa học.
Là một nhân vật được sinh ra và ra làm quan trong một giai đoạn lịch
sử đầy biến động và phức tạp với những “khúc xạ” khác nhau. Do đó cuộc
đời và sự nghiệp của Trần thúc Nhẫn cần được phải xem xét, đánh giá một
khách quan và khoa học, giống như giới nghiên cứu đã từng làm đối với
các nhân vật trước, sau hoặc cùng thời với ông như: Phan Thanh Giản,Tôn
Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường…, để rồi từ đó mới có thể giải quyết
được những vướng mắc trong nhận thức và cách đánh giá của hậu thế mỗi
khi nhìn nhận về sự nghiệp và cuộc đời của ông.
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
Như vậy với ý nghĩa đó, thiết nghĩ theo tôi việc nghiên cứu toàn diện
về nhân vật TrầnThúc Nhẫn trong giai đoạn này là một việc làm hết sức
cần thiết.
Là một sinh viên khoa lịch sử, tôi không thể không quan tâm đến các
nhân vật lịch sử, nhất là đối với những con người từng có công trạng lớn


như Trần Thúc Nhẫn. Chính vì vậy tôi mà đã quyết định chọn đề tài “tìm
hiểu về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn(1841 – 1883)” để làm bài niên
luận cuối khóa cho năm học của mình, tôi nghĩ rằng qua nghiên cứu đề tài
này nó sẽ giúp ích rất nhiều cho tôi trong công tác nghiên cứu khoa học và
thực tiễn và hơn nữa nó sẽ đóng góp trong việc giải quyết một phần nhỏ
những vấn đề còn khúc mắc đối với một nhân vật lịch sử còn nhiều điều
“ẩn chứa”này.
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nói về lịch sử nghiên cứu vấn đề, thực chất ở đây đó chính là quá
trình nhận thức về vấn đề được nghiên cứu, cụ thể hơn đó chính là nhân vật
lịch sử Trần Thức Nhẫn. Tại đây nó luôn được thể hiện ở rất nhiều những
góc độ khác nhau, những cái nhìn khác nhau… Đó hoặc là các “nghệ sĩ
dân gian” những con người đương thời, các sử gia phong kiến, tư sản, các
học giả nước ngoài…, các nhà sử học Mácxít, thông qua việc dựa trên
những địa vị, mỗi thời kì, cũng như những khác biệt về chế độ chính trị, mà
cách nhận thức về nhân vật lịch sử có những quan điểm, lập trường khác
nhau, đúng hay là sai, khoa học hay là phản khoa học.
Do là người được sinh ra, lớn lên và ra làm quan trong thời buổi loạn
lạc cho nên hiện nay những nguồn sử liệu viết về ông buổi đương thời cũng
như hiện nay là hết sức hạn hẹp, nếu có chăng đi nữa thì đó cũng chỉ là
những bước phác thảo, sơ lược về tên tuổi và cuộc đời của ông ví như đó là
các cuốn sách như Đại Nam Thục Lục, Đại Nam liệt truyện, Việt Nam danh
nhân từ điển, Huế 1885 – Thái Vũ, Bản sơ yếu lí lịch về di tích lăng mộ về
Trần Thúc Nhẫn ở Huế, hay là các cuốn sách giáo khoa như “ Lịch sử Việt
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
2
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
Nam tập II” của giáo sư Đinh Xuân làm chủ biên, “Trần Văn Giàu tổng
tập….”…vv hoặc kế đó gần hơn nữa ngay chính trong gia phả của dòng họ
ông ở thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên

Huế thì những “kỉ niệm” viết về ông cũng thật sự không nhiều thậm chí đôi
khi chỉ còn là những “sự tích”, còn đọng lại qua các lời kể của những thế
hệ sau ông.
Như vậy qua đó để cho chúng ta thấy rằng khi nghiên cứu về nhân vật
lịch sử Trần Thúc Nhẫn tôi dường như không có nhiều nguồn tư liệu để
“phục chế” lại một cách toàn diện nhất, cũng như là những mặt đối chiếu,
so sánh giữa các nguồn tư liệu một cách tốt nhất. Mà chỉ có thể phản ánh,
xác minh với một cố gắng cao nhất có thể.
III. Giới hạn nghiên cứu vấn đề
Như ở phần trước đã nêu cho thấy việc nghiên cứu về Trần Thúc Nhẫn
tuy rằng không phải là nhiều. Nhưng những đóng góp của ông trong sự
nghiệp quan trường và đấu tranh giữ gìn đất nước thì ít nhiều cũng đã được
ghi nhận qua các bài viết, sách, sổ tay, hồ sơ và quan trọng hơn nữa là với
qui mô của một bài niên luận đã không cho phép tôi có tham vọng gì lớn,
mà chỉ có thể nghiên cứu một phần nào đó về cuộc đời và sự nghiệp của
ông bằng việc trên cơ sở những khung thời gian, và nguồn tư liệu hiện có
trong tay.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Vốn được xem là một điều “bất di bất dịch” mà khoa Mác xít đã chỉ
rõ : “Trong mọi vấn đề thuộc khoa học xã hội, phương pháp chắc chắn và
cần thiết để thể hiện có được một thói quen và đề cập vấn đề một cách đúng
đắn mà không bị xa đắm vào nhiều những chi tiết và thật nhiều ý kiến đối
lập nhau, thì điều quan trọng thứ nhất của khoa học là không nên quên sự
liên hệ lịch sử căn bản, là nhận xét vấn đề theo quan điểm sau đây : Một
hiện tượng nào đó đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào ? Các giai đoạn
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
3
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
phát triển của nó là gì? Mà đứng trên quan điểm của sự phát triển của nó,
để xem hiện tượng đó đã trở nên như thế nào?”

Qua đó cho chúng ta thấy rằng, như vậy muốn nghiên cứu hay đánh
giá một nhân vật lịch sử thì việc đầu tiên là phải xem xét bối cảnh lịch sử
và trực tiếp xem xét bản thân sự kiện lịch sử hay nhân vật lịch sử đó, để
qua đó mà có thể tránh được những khuynh hướng tách rời điều kiện lịch
sử cụ thể với những điều kiện đặt ra một cách quá đáng. Hay dùng tiêu chí
hiện nay để làm chuẩn mực khi nhìn về quá khứ. Vì như thế nó sẽ làm mất
đi tính trung thực, khách quan của lịch sử.
Do đó tại niên luận này ngoài những phương pháp chính của sử học
MácXít như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic…, thì bên cạnh đó
trong quá trình nghiên cứu vấn đề này người viết bài còn sử dụng cả những
phương pháp như: phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu sử liệu…bởi lẽ
với một điều đơn giản rằng: đây là một giai đoạn đầy uẩn khúc trong suốt
quá trình phát triển của lịch sử nước nhà, cũng do vậy mà việc đánh giá
một nhân vật lịch sử với tư cách là sản phẩm của thời đại, là một vấn đề
không hề đơn giản. Do đó cần phải luôn đặt nó trong những mối liên hệ
vào những hoàn cảnh lịch sử nhất định, để rồi mới có thể thấy được những
công việc đã làm được hoặc chưa làm được của ông so với những nhu cầu
của đất nước đặt ra, và qua đó cũng tìm ra được những kết luận, đánh giá
về ông một các khách quan nhất.
V. Đóng góp của đề tài
Mặc dù rất khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tư liệu, và có nhiều
điều còn bỡ ngỡ trong việc bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu,
cũng như là khả năng tư duy còn hạn chế, hơn thế nó còn là một đề tài
tương đối rộng qua sự xâu chuỗi của một quá trình lịch sử từ trước khi thực
dân pháp xâm lược 1858 cho đến sự kiện thất thủ Thuận An 1883 và một
phần nhỏ trong giai đoạn sau đó, cũng như những dư âm còn đọng lại trong
nhân gian cho đến nay đã làm cho mỗi chúng ta cần phải có sự cân nhắc
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
4
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn

khi chọn và nghiên cứu đề tài này. Song với sự say mê, niềm tâm huyết
bước đầu của một nhà nghiên cứu, cộng với sự giúp đỡ của các thầy cô
giáo, các anh chị sinh viên trước và cùng khóa dường như đã tiếp thêm cho
tôi một động lực, một sức mạnh giúp tôi nhanh chóng hoàn thành đề tài
này.
Qua đề tài này mặc dù tuy không đủ, toàn diện trong khi nghiên cứu,
song tôi cũng hi vọng mình có thể cung cấp những thông tin cần thiết, có
thể nhất về bối cảnh lịch sử, cuộc đời và sự nghiệp của ông, cũng như là
những lời nhận xét của riêng cá nhân mình, cho những ai vốn quan tâm đến
các nhân vật trong lịch sử nước nhà. Xa hơn nữa là có thể đóng góp một
phần nào đấy vào sự nghiệp của nền sử học nước nhà khi nghiên cứu về các
nhân vật lịch sử, bằng việc trên cơ sở dựa vào những nguồn tư liệu, sự lập
luận, cách đánh giá của chính bản thân cá nhân tôi.
VI.Bố cục của đề tài
Do yêu cầu của bài viết cũng như là tham vọng không quá lớn của tác
giả, nên tại niên luận này của tôi về cơ bản được chia làm 3 chương chính,
ngoài lời mở đầu, kết luận và phục lục. Cụ thể nội dung niên luận sẽ được
giải quyết ở những vấn đề sau.
Chương I. Bối cảnh lịch sử lịch sử Thế Giới và Việt Nam
nữa cuối thế kỷ XIX.
I. Bối cảnh thế giới
1. Tình hình chung.
2. Nước Pháp và công cuộc chuẩn bị xâm chiếm Việt Nam.
II. Bối cảnh trong nước
1. Vài nét về tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược.
2. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của triều đình phong kiến
Nguyễn và nhân dân Việt Nam( 1-9-1858 đến 24/61867).
a. Công cuộc kháng chiến của triều đình phong kiến.
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
5

Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
b. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của nhân dân ta.
Chương II. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Thúc Nhẫn
I. Vài nét về tiểu sử,gia thế Trần Thúc Nhẫn.
II.Trần Thúc Nhẫn với sự nghiệp chống thực dân Pháp xâm lược
(1867-1883).
Chương III. Đánh giá về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
I. Những đóng góp.
II. Những hạn chế.
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
6
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM NỬA SAU XIX:
I.Bối cảnh thế giới
1. Tình hình chung.
Có thể tạm nhận định một điều rằng: Vào buổi giao thời giữa thời
trung đại và cận đại thuộc địa của các nước Châu Âu ở Châu Á, Châu Phi
là chưa nhiều . Khi mà Bồ Đào Nha cường quốc thuộc địa của châu Âu vào
cuối thế kỷ XV- đầu XVI cũng mới chỉ dừng lại ở những vùng ven của bờ
biển châu Phi, vịnh Pécxích, Đông Nam Á chủ yếu là ở Indonesia, hay
người Tây Ban Nha cũng mới chỉ là ở hướng Tây bán cầu.
Tuy nhiên từ nữa cuối XVII đến nữa đầu XIX, Nhất là cuối XIX với
sự hoàn thiện dần và phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
thông qua việc xác lập, thắng lợi của các cuộc cách mạng Tư sản (như ở
Anh 1640, Pháp 1789, Đức 1848, Ý 1848-1849…), Cách mạng công
nghiệp (ở Anh vào cuối thế kỷ XVIII, Pháp 1848-1852 và được hoàn thành
vào những năm 60 của XIX….). Tất cả những điều đó đòi hỏi các nước tư
bản Châu Âu cần phải có những chính sách về mặt thị trường và thuộc địa,
mới có thể đáp ứng được những “nguyện vọng” đang phát triển một cách

cực kỳ nóng bỏng của nền kinh tế và lòng tham của các chính giới Tư sản.
Cũng vì vậy mà nguy cơ bị xâm lược của các quốc gia vốn còn đang trong
tình trạng mông muội, lạc hậu về văn hoá , trì trệ về kinh tế, mang nặng
tính độc tôn, bản vị hẹp hòi, chưa có ý thức nảy nở về khu vực và thế giới ở
các quốc gia châu Á là một điều khó tránh khỏi.
Là một trong những quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á - Một khu
vực có diện tích khoảng trên 4 triệu Km2 trải ra trên một phần đất từ 92
0
đến 140
0
Kinh đông và từ khoảng 28
0
Vĩ bắc chạy qua xích đạo đến 15
0

nam. Tại đây, cùng với nguồn tài nguyên vô cùng phong phú , thì Đông
Nam Á còn được coi là một khu vực có vị trí chiến lược quan trọng “là
hành lang, cầu nối giữa thế giới Trung Quốc, Nhật Bản với khu vực Tây Á
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
7
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
và Địa Trung Hải” [10;5], nơi có eo biển Malacca là trung tâm vận chuyển
dầu mỏ cực kỳ quan trọng và là cửa ngõ chiến lược để đi vào khu vực châu
Á- Thái Bình Dương” [7;242]. Do vậy, là một nước có vị trí đầu cầu, nút cổ
chai để đi vào bên trong Đông Nam Á lục địa, cũng như là địa vị trung tâm
của cả khu vực. Việt Nam ngay từ rất lâu đã luôn trở thành đối tượng dòm
ngó của nhiều nước tư bản Âu – Mỹ, trong số đó lớn nhất, nguy hiểm nhất
và thực tế nhất là đế quốc Pháp.
2. Nước Pháp và công cuộc chuẩn bị xâm chiếm Việt Nam.
Cũng không nằm ngoài tham vọng trong số những nước tư bản Âu –

Mỹ khác. Đứng trước sự phát triển đang ngày một mạnh mẽ của nền kinh
tế, cùng những “thúc dục” trong công cuộc chạy đua thuộc địa, nhất là với
đế quốc Anh và nhiều nước Tư bản khác. Nước Pháp, đặc biệt kể từ sau khi
đã bước đầu hoàn thành cuộc cách mạng tư sản (1789) của mình cũng đã
nhanh chóng lao chân vào công cuộc mở rộng thuộc địa cho riêng mình
trên tất cả các lục địa.
Tại châu Á, quá trình đó đã bắt đầu được thực hiện manh nha ngay
từ những năm đầu của XVI-XVII, đặc biệt trong số đó tại Việt Nam để có
thể “ chen chân” mình vào một cách sâu hơn, thì ban đầu giới thương nhân
và giáo sĩ Pháp đã không ngần ngại tìm đủ mọi thủ đoạn, chịu đựng mọi
gian khổ để mong có được một “thế” đứng vững chắc, qua đó nhằm phục
vụ cho những mưu toan lâu dài. Trong sốs đó mối quan hệ giữa Nguyễn
Ánh và Bá Đa Lộc là một dịp không có lúc nào tốt hơn cho nước Pháp, cụ
thể:
Tại đây lợi dụng những “ân hụê” của Bá Đa Lộc đã giành cho
Nguyễn Ánh trong cuộc chiến tranh “cướp đoạt” lại vương quyền từ nhà
Tây Sơn và sự “đền ơn”mà Nguyễn Ánh đã trả lại cho những người Pháp
đã từng giúp đỡ mình. Nước Pháp dường như đã “cài lại một số nhà gián
điệp” làm quan cho nhà Nguyễn như Jean Baptiste, Chaigneau, Vannier…
và thực tế những người này tuy làm quan nhưng họ chưa bao giờ quên đi “
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
8
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
mẫu quốc”(chỉ nước Pháp ĐVN), trái lại họ luôn rắp tâm tìm cơ hội phục
vụ quyền lợi. Tuy nhiên trong giai đoạn này do cuộc chiến tranh cách mạng
chống lại liên minh phong kiến châu Âu can thiệp và bọn lưu vong đã
không cho nước Pháp có thể hành động trực tiếp, tuy vậy nước Pháp vẫn
không ngừng dòm ngó Việt Nam.
Sang thời Bonaparte sau khi dựa vào giai cấp tư sản và quân đội để
làm cuộc đảo chính thắng lợi và thiết lập nền chuyên chính quân chủ của

giai cấp tư sản . Mặc dù rất bận chiến tranh với các nước Anh, Áo, Nga…
nhưng nước Pháp chưa bao giờ quên đi Việt Nam, biểu hiện:
Ngày 25/11/1801, viên toàn quyền Pondichery là Charpentier de
Conssigny đã gửi báo cáo về nước đề nghị chính phủ Pháp cử gấp sứ thần
vào tàu chiến sang Việt Nam để “ ký một hiệp ước liên minh hữu nghị và
thương mại” với Gia Long. Song lúc đó , Bonapate đang phải đối đầu với
việc cấp bách cả về đối nội lẫn đối ngoại nên đành bỏ rơi ý đồ đó và phải
đến sau khi hoà ước Amiens ( 27/3/1802), chiến tranh Anh – Pháp tạm thời
chấm dứt, thì mới tìm cách “ hợp pháp hoá” việc bành trướng của nước
Pháp và trong nhiệm vụ đó tướng Decaen được giao trọng trách cầm đầu
một đội quân viễn chinh trong vùng Ấn Độ Dương, đã gặp Dayot báo cáo
tình hình cụ thể tại Việt Nam, cùng lúc giao cho Decaen một số bản đồ chi
tiết về giao thông đường biển và xung phong nhận phái viên tại Việt Nam,
vì Dayot cho rằng: “ Tôi ( Dayot) biết rất kỷ xứ nằy , nhà vua ở đó lại luôn
có lòng yêu mến tôi”[5;6]. Hơn nữa sau khi lên ngôi ( 1804) Bonapate còn
cho rằng : “ sự thiết lập một căn cứ quân sự của Pháp tại vùng biển Trung
Hoa về mặt quân sự là một điều kiện có lợi, trong trường hợp Pháp đánh
nhau với Anh” [5;6.] và trong việc thực hiện nhiệm vụ đó ông ta đã đặt
nhiều tin tưởng vào vai trò của giáo hội và các giáo sĩ giúp ích có lợi cho
chúng tôi (nước Pháp) ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ. “Tấm áo của họ sẽ
dùng để che dấu những mưu đồ chính trị và thương mại”[5;6]).
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
9
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
Tới đó năm 1811, Napoleon I lại giao cho triều đình xem xét lại đề
nghị của Dayot . Sang đầu 1812 lại bắt thượng thư bộ hải quân báo cáo tỉ
Mỹ về phái đoàn Bá Đa Lộc măm 1787, với việc không nằm ngoài ý định
đưa vào một văn kiện vốn đã từng bị bỏ rơi suốt trong 17 năm qua ( 1787-
1804)- Hoà ước Versaile 28/11/1787. Song tất cả những ý đồ này của
Napoleon I đều không có điều kiện thực hiện vì : Ngay sau khi hoà ước

Amiens bị xé (1803) tình hình châu Âu lại có những chuyển biến bất lợi
cho Pháp, để cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của Napoleo I ( 1815-
sau trận đánh lịch sử Warteclo) . Tuy vậy, ngay trong 100 ngày “phục hồi”
của đế chế thứ nhất, mặc dù đang còn rất nguy khốn trước sự liên minh tấn
công của phe đồng minh, song nước Pháp vẫn không chịu rời bỏ âm mưu
nhòm ngó Việt Nam bằng việc các thương gia và giáo sĩ vẫn tiếp tục gửi
những báo cáo “ mật” về cho chính phủ Pháp.
Nối tiếp sau Napoleon I, sang thời louis XVIII (1815), ông lại tiếp
tục sự nghiệp còn “ dang dở” của các vị hoàng đế “tiền nhiệm” trước đó.
Với việc liên tiếp cử các đoàn tàu thương mại, những phái bộ sang Việt
Nam ( nhất là trong khoảng thời gian từ 1815 – 1817) chủ yếu là đến các
cảng biển lớn như: Sài gòn, Đà Nẵng, qua đó đánh dấu sự trở lại của nước
Pháp trên mảnh đất Việt Nam, và cũng trong khoảng thời gian này lợi dụng
sự tiếp đãi “nồng hậu, dễ dãi” ( nhấn mạnh) của triều đình Gia Long, nhiều
thương gia, giáo sĩ và các quan chức Pháp đã “ trà trộn” một cách nhanh
chóng cho những âm mưu của mình, điển hình là vụ Boret- một tay mại
biển ngay sau khi vừa đến Huế, đã tìm ngay đến nhà của Chaigneau và
Vannier , cũng tại đây chính Boret đã đánh giá cao lòng “ sốt sắng” và
nhiệt tình của hai người này “ Họ thật xứng đáng với lòng biết ơn của
hoàng đế nước Pháp và mọi người dân Pháp luôn luôn tha thiết với bất cứ
một việc nào có thể góp phần vào nền thịnh vượng chung của Tổ quốc nước
Pháp[5;7].
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
10
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
Mặt khác, cũng chính trong thời gian này hầu tước và thủ tưởng
Richelieu cũng đã có ý định khuyếch trương thế lực của nước Pháp tại
Việt Nam với việc tự mình hoặc cử các phái viên như ; Kerganou… tìm
mọi cách liên lạc với các quan cấp người Pháp đang làm việc trong triều
đình Huế như: Chaigneau, Vannier. Đi liền với đó là các công ty thương

mại ở các thành phố lớn của Pháp như Nantes, Lorient, Bordeaux… với sự
khuyến khích và nâng đỡ của chính phủ Pháp cũng đã tăng cường khuyếch
trương hoạt động tại Việt Nam. Tuy vậy, một lần nữa dưới thời trị vì của
Louis XVIII, công cuộc để tiến hành một cuộc can thiệp vũ tranh vào Việt
Nam, cũng vẫn chưa có thể thực hiện đựoc vì : Tình hình nước Pháp lúc đó
rất không thuận lợi cho một cuộc vũ trang xâm lược nơi xa xôi như Việt
Nam, bởi dưới quyền thống trị của vua Louis XVIII, bọn đại tư sản và chủ
nhà băng nước Pháp ngày càng lún sâu vào con đường thối nát một cách
đáng sợ, sự công phẫn của quần chúng đã lên đế điểm tột cùng,kết quả là
một sự lật đổ và ra đi của nhà vua đã xảy ra, thay vào đó là sự thiết lập nền
đệ nhị cộng hoà.
Như vậy, với sự sụp đỗ của triều vua Lousi XVIII (hay còn gọi là
nền quân chủ tháng bảy), thì nước Pháp về cơ bản vẫn chưa thực hiện được
“ước nguyện” của mình.
Cuối cùng bằng việc dựa trên sự ủng hộ của bọn đại tư sản, của giáo
hội và sức mạnh của lưỡi lê. Ngày 2/12/1852 Louis Napoleon đã leo lên vị
trí hoàng đế, lập ra nền đế chế thứ hai. Đây thực sự là một nền chuyên
chính tối phản động của bọn chủ nhà băng, bọn đầu cơ, quân phiệt với việc
trong thì đàn áp, bóc lột nhân dân, ngoài thì ráo riết đẩy mạnh việc xâm
chiếm thuộc địa. Song cũng trong buổi ban đầu, phần thì lo việc cũng cố
ngôi vị, phần thì e ngại tư bản Anh nên Lousi Napoleon cũng chư dám
hành động. Mà phải đợi đến 12/1856 khi mâu thuẫn Anh – Pháp tạm thời
được hoà hoãn, để cùng nhau tiến hành cuộc chiến tranh can thiệp Trung
Quốc, kết hợp với đó là các báo cáo của các giáo sĩ và sự ngày càng suy
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
11
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
đốn của triều đình Huế, những cuộc “ phiến loạn” tại miền Bắc , cùng các
nơi khác ở Việt Nam, những thuận lợi ở bên kia chiến trường Trung Quốc,
thì một quyết định về một cuộc can thiệp vũ tranh mới chính thức được

thông qua(7/1857).
Ngược lại về phần các giáo sĩ và thương nhân thì ngay từ buổi đầu
khi mới dòm ngó Việt Nam, các giáo sĩ và thương nhân Pháp đã hợp tác
một cách chặt chẽ với nhau: giáo sĩ mở đường đi trước, thương nhân theo
sau rồi cùng nhau đẩy mạnh hoạt động. Dưới triều Nguyễn, đặc biệt là dưới
triều Minh Mạng đến Tự Đức, những hoạt động của các giáo sĩ đã ngày
càng lộ rõ sự nguy hiểm đối với việc bảo toàn chủ quyền quốc gia, bảo toàn
nền văn hoá dân tộc…Khi mà họ đã lợi dụng danh nghĩa truyền đạo để đi
sâu vào các địa phương điều tra, dò xét tình hình các mặt rồi báo cáo về
nước, mặt khác họ còn lợi dụng các thế lực tôn giáo để mua chuộc, dụ dỗ
dân chúng Việt Nam, gây mâu thuẫn giữa đồng bào lương và giáo, xúi bẩy
giáo dân chống lại triều đình “ đào hào, đắp luỹ” để ngày đêm giảng đạo,
tham gia các cuộc nổi dậy của quần chúng trong số đó tiêu biểu là ở cuộc
khởi nghĩa của Lê Văn Khôi bùng nổ tại Nam Kỳ (7/1833) đã có sự tham
gia của các giáo sĩ Pháp như Marchand… Tất cả những hành động ấy đã
làm cho triều đình vô cùng công phẫn, các đạo dụ cấm đạo, giết đạo đã liên
tiếp được tung ra, và ngày càng trở nên nặng nề, thô bạo nhất là dưới thời
Tự Đức ( 1847-1883).
Tóm lại, sau khoảng một thời gian dài tìm kiếm(ít nhất là từ thời
Louis XVI đến vua Louis Napoleon), lật lại quá khứ và xúc tiến những âm
mưu từ những bậc giáo sĩ, thương nhân cho đến các chính giới Pháp. Cuối
cùng thực dân Pháp cũng đã có được sự ổn định về mặt chính trị cũng như
tìm được “duyên cớ” trước những hành động được xem là : “nóng vội,
thiếu cân nhắc, nông nổi” của triều đình Huế - trực tiếp là triều Tự Đức qua
việc sát hại những thương nhân, giáo sĩ. Bằng việc phê chuẩn một kế hoạch
can thiệp quân sự trực tiếp vào 7/1857. Cuối cùng sau khi đánh xong
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
12
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
Quảng Châu- Trung Quốc 5/1/1858 và sau khi cùng với Anh làm áp lực

buộc Trung Quốc phải ký hiệp ước Thiên Tân (27/6/1858), quân đội viễn
chinh Pháp đã hợp lực cùng với quân Tây Ban Nha kéo thẳng xuống vùng
biển phía Nam. Đến sáng sớm ngày 1/8/1858, thì đã dàn trận trước cửa biển
Đà Nẵng, mở đầu cho một cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, mà bọn thực
dân Pháp đã từng “ôm ấp” bấy lâu.. Đồng thời cũng là mốc chấm dứt sự
kết thúc, mở ra một chương mới cho lịch sử nước ta - Nước Việt Nam thời
cận đại.
II. Bối cảnh trong nước:
1.Vài nét về tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược:
Là một “ngoại lệ duy nhất” trong số các triều đại của lịch sử nước ta
được xác lập dựa vào sự hậu thuẫn của các thế lực bên ngoài. Triều Nguyễn
(1802-1945), mặc dù trong buổi đầu đã có nhiều cố gắng trong việc xây
dựng lại vương triều, trị an đất nước, cũng như là thái độ tương đối “ điềm
tĩnh”, “ khôn khéo” trước các thế lực phương Tây- Những con người đã
từng giúp đỡ mình trong cuộc chiến tranh đoạt lại vương quyền(nhất là
dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng). Song đây cũng chỉ là những giải
pháp mang tính “sách lược” trong buổi đầu củng cố lại vương quyền. Còn
trên thực tế, thì sự thiết lập của vương quyền triều Nguyễn ( 1/6/1802) có
thể khẳng định rằng: “ Đây chỉ là sự thắng thế của một tập đoàn phong kiến
tối phản động nhất trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ, đối với triều
đại Tây Sơn tương đối tiến bộ hơn về nhiều mặt”[3; 11-12].Cũng do đó mà
càng về sau, triều Nguyễn ngày càng đi sâu vào con đường phản động bằng
việc vừa ra sức phục hồi, củng cố quan hệ sản xuất cũ, vừa cố tình bóp
nghẹt lực lượng sản xuất mới trên cơ sở mọi chính sách về chính trị, kinh
tế, văn hoá, tư tưởng đều phải được đặt trên sự bảo vệ một cách cao nhất
những đặc quyền của tầng lớp thống trị biểu hiện: Vua được xem là “con
trời”,“thay trời hành đạo”, tập trung trong tay mọi quyền hành, quyền
hành nhà vua được coi là thần khí “thiêng liêng” vô hạn. Nhà vua thực sự
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
13

Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
là một đại địa chủ lớn nhất nước, có toàn quyền phung phí mọi tài sản quốc
gia, trên xương máu của nhân dân. Còn quan lại triều đình và ở các địa
phương thì hầu hết là bọn hủ bại, về chính trị thì bảo thủ cầu an, về kinh tế
thì tham lam, cuồng bạo, còn về tư tưởng thì luôn tự cao, tự đại với những
mớ học thuyết Khổng Mạnh, lỗi thời, luôn xem trật tự phong kiến là “bất
di bất địch” cao hơn hết mọi thời đại.
Ngược lại trong khi lúc đó thì đời sống của nhân dân vô cùng cơ cực,
thêm vào đó lại còn bị sự o ép, bóc lột bằng sưu thuế, tạp dịch của nhà
nước và bọn cường hào, địa chủ … thể hiện:
Với nông nghiệp: Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm
nghiêm trọng, ruộng đất thì phần nhiều đều tập trung trong tay bọn địa chủ,
còn người nông dân nếu có chăng đi nữa thì cũng chỉ toàn là những chỗ
“xương xẩu”. Do đó, mà hiên tượng người nông dân đi lưu tán, tha phương
cầu thực được xem là một nét rất phổ bíến dưới triều Nguyễn. Cụ thể “ tính
từ năm 1802 đến năm1806 đã có 370 thôn thuộc mấy trấn lớn ngoài bắc đi
xiêu tán đi nơi khác, đến năm1826 lại có 108 xã thôn thuộc 13 huyện của
trấn Hải dương xiêu tán” [3;12].
Về công thương nghiệp : thì nhà Nguyễn đã thực thi những chính
sách vô cùng phản động. Trước hết về công nghiệp thì mọi ngành kinh
doanh lớn đều nằm trong tay nhà nước, giữ độc quyền hoặc đánh thuế rất
nặng vào các ngành kinh doanh mỏ do tư nhân Hoa kiều hay người Việt
đứng ra khai thác, bắt những người thợ thủ công giỏi từ các địa phương
khác về cung làm việc nhằm xây dựng các công trình phục vụ cho việc ăn
chơi, xa xỉ của bọn vua quan .. dưới hình những hình cưỡng ép, hoặc là
dưới những mức thù lao rất thấp. Còn với thương nghiệp thì nhà Nguyễn đã
cho thi hành chính sách “trọng nông ức thương” biểu hiện: về nội thương
thì nắm độc quyền buôn bán các loại nguyên liệu công nghiệp như ( đồng,
chì, kẽm..>) vì sợ nhân dân chế vũ khí chống lại, đánh thuế nặng vào các
mặt hàng quan trọng ảnh hưởng đến đời sống nhân dân như: lúa gạo, muối,

Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
14
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
cấm việc trao đổi, họp chợ giữa các vùng trong cả nước, gây cản trở cho sự
hình thành một thị trường dân tộc thống nhất. Ngoại thương thì nắm độc
quyền, thực hiện chính sách bế quan toả cảng, cho mở cửa “nhỏ giọt” các
cửa biển trong quan hệ với các nước, nhất là với phương Tây.
Đối nội: thì nhà Nguyễn đã ra sức đàn áp, khủng bố các phong trào
quần chúng trong biển máu, cho ban bố bộ luật Gia Long (1815) với những
chế phạt vô cùng khắc nghiệt, gắn liền với đó là việc lợi dụng các sách, vở
như văn học… để tuyên truyền cho những chính sách thống trị của
mình.Như Minh Mạng cho ra “10 điều huấn dụ”, Tự Đức “diễm âm thập
điều diễn ca” để truyền bá rộng rãi học thuyết Nho giáo trên cơ sở đó củng
cố ý thức hệ phong kiến đang ngày càng rạn nứt.
Đối ngoại: ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng
giềng như : Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia
và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước phương Tây thì
phong kiến nhà Nguyễn thi hành chính sách ngày càng thêm gắt gao( chính
sách bế quan toả cảng, cấm đạo, giết đạo…), bằng việc ban hành liên tiếp
các đạo dụ cấm đạo theo mức độ tăng dần từ Minh Mạng đến Tự Đức với
những hình thức vô cùng dã man như: thích chữ vào mặt, phanh thây, buộc
đá vào cổ rồi ném xuống biển cho cá ăn…khi cho rằng: “ Đạo của người
Tây đã làm mê hoặc lòng người, lâu nay Tàu Tây đến buôn bán đã đưa các
giáo sĩ Giatô vào nước ta, chính họ đã làm tà vạy nhân tâm, phá hoại mỹ tục
thiệt là một mối hại lớn cho nước nhà. Bởi vậy trẫm phải lo trừ tuyệt những
sự tình lệ đó hầu gìn giữ dân ta không lầm lạc chính đạo”[5;8].
Như vậy, rõ ràng với bản chất và những chính sách vừa nêu trên,
nước Việt Nam gần như đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi
ngon đối với sự bành trướng thuộc địa đang ngày một mãnh liệt trước các
thế lực của thực dân Âu Mỹ. Nhất là với tư bản Pháp vốn từ lâu đã có cơ sở

bên trong nước ta, qua việc nhờ những hoạt động ngấm ngầm và liên tục
của bọn gián điệp đội lốt con buôn và giáo sĩ. Còn về phía triều đình Huế
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
15
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
do khoác lên cho mình tấm áo choàng của học thuyết Khổng Mạnh vốn đã
trở nên quá lỗi thời so với sự tiến bộ của thời đại, nên vô cùng bảo thủ, cố
chấp với việc các vua nhà Nguyễn tưởng làm như vậy là có thể tránh được
nạn lớn, mà không thấy được muốn bảo vệ độc lập dân tộc, muốn giữ gìn
đất nước trong điều kiện quốc gia và quốc tế vốn đang rất phức tạp lúc bấy
giờ, biện pháp thích hợp nhất là mở rộng các cửa biển để giao thương qua
đó dần từng bước duy tân xứ sở, đẩy mạnh phát triển nông công, thương
nghiệp trong nước trên cơ sở đó nhanh chóng bồi dưỡng sức dân, sức nước
để có thể đối phó kịp thời và hiệu quả với những âm mưu xâm lược ngày
càng đẩy mạnh của tư bản nước ngoài- trực tiếp đó là Pháp.Trái lại càng
đóng cửa, càng cấm đạo, giết đạo bao nhiêu lại càng tạo thêm nhiều duyên
cớ cho nước Pháp nổ súng tấn công xâm lược sớm hơn mà thôi, và thực tế
đã diễn ra đúng như vậy. Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp– Tây Ban Nha đã
chính thức nổ súng xâm lược nước ta mở đầu cho gót đô hộ suốt gần một
trăm năm của đế quốc thực dân Pháp tại Việt Nam (1858-1945) tính từ khi
Pháp bắt đầu đặt dấu chân xâm lược chính thức lên nước ta.
2.Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của triều đình phong kiến
Huế và nhân dân Việt Nam( 1/9/1858 đến 24/6/1867):
a.Công cuộc kháng chiến của triều đình phong kiến.
Sau khoảng hơn 3 thế kỷ ấp ủ và nuôi niềm hy vọng, cuối cùng nước
Pháp cũng đã đạt được “toại nguyện” bằng một cuộc chiến tranh hoàn toàn
phi nghĩa trên cơ sở “ rêu rao” những châm ngôn vô cùng lý tưởng “cứu
mộ chúa”, “ khai hoá văn minh” cho các dân tộc ở Á Đông. Bằng việc
không chần chừ từ ngay sau khi vừa đánh xong Trung Quốc (5/1/2858) và
sau khi cùng với Anh gây áp lực buộc phong kiến Trung Hoa phải ký điều

ước Thiên Tân (27/6/1858). Quân Pháp đã hợp lực cùng với quân Tây Ban
Nha kéo thẳng xuống vùng biển phía Nam. Đến chiều ngày 31/8/1858, thì
dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng, sang mờ sáng hôm sau (1/9/1858) không
cần đợi trả lời tối hậu thư của ta, chúng đã ra lệnh cho tàu chiến bắn đại bác
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
16
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
lên các đồn Điền Hải, An Hải, đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, rồi tiến sâu vào
nội địa đánh tan phòng tuyến của quân triều đình ở xã Mỹ Thị Lan, sang
xâm chiếm xã Cẩm Lệ.
Trước thế địch ào ạt, phối hợp cùng nhân dân hai tỉnh Quảng Nam-
Đà Nẵng triều đình Tự Đức đã cử Nguyễn Tri Phương làm tổng chỉ huy
mặt trận này để lo việc chống giặc. Về phần mình sau khi nhậm chức tổng
lãnh binh và đặt chân đến mảnh đất Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương đã huy
động nhân dân trong vùng cho đắp một thành luỹ dài chạy từ Hải châu đến
tận Phúc Ninh, Thanh Giãn nhằm không cho quân địch tiến sâu vào nội địa.
Còn đối với nhân dân trong vùng thì ông ra lệnh cho thực hiện kế “vườn
không nhà trống”, tản cư vào bên trong để khỏi bị bắt đi lính, nộp lương
thực hay cung cấp thông tin . Kết quả là chiến thuật này đã phát huy tác
dụng khi mà nhiều lần quân Pháp định đi sâu vào nội địa, đều bị quân triều
đình đánh bật ra và làm thiệt hại khá nặng, đến nỗi một sĩ quan viễn chinh
Pháp tham gia mặt trận này đã phải thốt lên rằng: “ cánh đồng mọc lên
nhiều công sự các loại, những người Việt đã đạt được tiến bộ lớn trong
nghệ thuật chiến tranh. Hôm nay chúng tôi chiếm đóng mảnh đất mà chúng
tôi đã chinh phục trong trận đánh mới nhất, nhưng chúng tôi chỉ đuổi quân
địch được vài trăm thước vì họ đã ẩn mình trong một phòng tuyến mới
trước mặt chúng tôi, mà họ đã củng cố mau chóng một cách kinh
khủng”[9;58] cùng bởi thế mà sau năm xâm chiếm chúng vẫn chỉ dậm
chân tại chỗ, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh và dự định giáng cho Huế
một đòn quyết định coi như đã bị thất bại.Ngược lại trong lúc đó thì những

khó khăn của chúng tại đây lại mỗi ngày một tăng thêm do không hợp thời
tiết, ốm đau, dịch bệnh, thiếu thuốc men, đạn dược và lương thực tiếp tế…
Tất cả những điều đó đòi hỏi giới quân sự Pháp cần phải có sự toan tính,
thay đổi kế hoạch và tướng giặc là Genouilly cuối cùng đã phải quyết định
chỉ để lại một lực lượng nhỏ tại Đà Nẵng nhằm cầm chân quân triều đình .
Còn đại quân kéo vào đánh Gia Định (2/1859) vì cho rằng:“ Sài Gòn có
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
17
Tìm hiểu nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn
triển vọng trở thành một trung tâm của nền thương mại rộng lớn, là xứ giàu
sản vật, lại cách xa kinh đô Huế, nên có thể chiếm được một cách nhanh
chóng nhất, cũng như hạn chế được một cách tối đa nhất về mặt thời gian
tiếp viện của triều đình Huế”.
Quả vậy, giống như đã nhận định ngay sau khi cho chuyển quân vào
Nam thì ngày 17/2/1859 chúng đã nhanh chóng chiếm được Gia Định, Tuy
nhiên cũng ngay sau khi chiếm được nơi đây, một mặt do không đủ lực
lượng để giữ thành, mặt khác sợ những đòn tập kích của quân dân ta nên
ngày 8/3/1859 chúng đã phải cho phá thành rút quân xuống đóng dưới tàu,
đậu giữa sông nhằm tránh sự mất mát to lớn về mặt con người trước phía
ta. Tiếp đó lại chỉ để lại một số ít quân ở Gia Định, còn đại quân một lần
nữa lại kéo ra Đà Nẵng để vừa tiếp viện cho số quân Pháp đang đóng tại
đây, có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt, vừa là để củng cố tinh thần, rồi sau đó
tiếp tục mở một đòn thọc sâu vào nội địa, vượt đèo Hải Vân tiến vào kinh
đô Huế để ép triều đình Nguyễn phải ký hiệp ước đầu hàng Pháp như ý
định ban đầu. Song ý định đó của Gunouilly rồi Page tiếp tục lại không
thành vì sự kháng cự mãnh liệt của quân dân ta ở đây. Tình hình đó làm
cho quân Pháp ở Việt Nam vô cùng khốn đốn, hơn thế nữa xét về phần
nước Pháp, thì từ khoảng 4/1859 do bị vướng vào cuộc chiến tranh với Áo
trên đất Ý và mối mâu thuẫn với Anh – Pháp lúc này đang hết sức căng
thẳng, nên Pháp cũng không thể dồn toàn bộ lực lượng cho một chiến

trường xa như Việt Nam được. Vì vậy, trong hoàn cảnh đó một chủ trương
nghị hoà với triều đình Huế được xem là một giải pháp tối ưu, là sự sống
còn đối với tương lai xa của nước Pháp tại mảnh đất Việt Nam. Công việc
đó lại được tiếp tục bởi Genouilly rồi Page nhưng cũng không thành vì thái
độ do dự, không dứt khoát, đánh không dám đánh, mà hoà cũng không ra
hoà của triều đình Huế.
Ngược lại về phía triều đình Huế, sau khi đã mất thành Gia Định, vua
Tự Đức một lần nữa lại cử Nguyễn Tri Phương vào thay Tôn Thất Hiệp, ở
Đinh Văn Nam_Lớp Lịch Sử K31B
18

×