Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nghiên cứu nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.29 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
I, Các kiểu, hình thức nhà nước
I.1, Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị thuộc về giai
cấp nào,tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế-xã
hội nào. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng chỉ cách thức tổ chức và phương
thức thực hiện quyền lực của nhà nước.
I.2, Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử.
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là
hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế-xã hội phong kiến và
hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm
hữu nô lệ,nhà nước phong kiến, và nhà nước tư sản. Tuỳ theo tình hình kinh tế-
xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước được tổ chức theo những
hình thức nhất định.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ:chỉ khác về cách tổ chức bộ máy nhà
nước,nhưng noi chung chúng đều là bộ máy của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện
chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến: là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến,cũng
được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau,nhưng dù tồn tại dưới bất cứ hình
thức nhà nước nào thì nhà nước phong kiến cũng là chính quyền của giai cấp địa
chủ, quý tộc.
Nhà nước tư sản:là nhà nước của giai cấp tư sản,thích ứng với hình thái
kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa.Cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau nhưng nói chung chỉ có hai hình thức cơ bản hình thức cộng hoà và hình
thức quân chủ lập hiến.
Hình thức của nhà nước tư sản rất phong phú, nhưng không làm thay đổi
bản chất: là công cụ của giai cấp tư sản dùng áp bức bốc lột vô sản, quần chúng
lao động.
I.3 Khái niệm về Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thể hiện thông qua 4 tiêu chí:
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy Nhà nước phải do
pháp luât quy định
Nhà nước và công đan phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật
Quyền lực của Nhà nước bao gồm: lập pháp, hành pháp, và tư pháp
Có hệ thống pháp luật rõ ràng, rành mạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật trong xã hội.
II>Một số lí luận về nhà nước pháp quyền
Những lí luận của một số nhà triết học trước Mác về nhà nước pháp
quyền.
Như chúng ta đã biết, trong thời kì cổ đại đã tồn tại quan niệm ấu trĩ,ngụy
biện cho rằng sức mạnh đẻ ra pháp luật, lẽ phải bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh.
Những người nắm giữ công quền thả sức hoành hàn.Với vua chúa thì quyền lực
của họ dường như không bị hạn chế.Khấp nơi thịnh hành học thuyết “đặc miễn
quốc gia”, theo đó Nhà nước làm ra pháp luật thì phải đứng trên pháp luật.
Tư tưởng về nhà nước pháp quền ra đời nhằm chống lại sự chuyên quyền,
độc đoán,vô chính phủ, vô pháp luật đó, tức là gắn liền với việc xác lập và phát
triển nền dân chủ.
Salon, nhhà thông thái Hy Lạp (thế kỷ XI TCN) đã nêu ra tư tưởng tổ
chức Nhà nước theo các nguyên tắc dân chủ. Ông ta cho rằng cần kết hợp sức
mạnh với pháp luật trong viềc tổ chức Nhà nước Ai Cập cổ đại.
Nhà triết học ở Hy Lạp Platon (427-347 TCN ) đã viết :tôi
nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào mà
pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền cuả một ai
đó.Còn ở nơi nào mà pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và
các nhà cầm quyền chỉ là các nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi
thấy có sự cứu thoát của Nhà nước.
Ariston (384-322 TCN )khẳng định :pháp luật cần thống trị trên tất cả.
Xixeron (104-44 TCN ) thể hiện tư tưởng về sự thống trị của pháp luật
trong đời sống Nhà nước bằng cách đặt câu hỏi :Nhà nước là gì nếu không phải

2
Platon
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là trật tự chung.Theo ông, pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước. Ông
cho rằng :Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải do Nhà nước tuân thủ
pháp luật của mình mà là vì cội nguồn,về bản chất, Nhà nước chính là pháp luật,
pháp luật tự nhiên của nhân dân.
Các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ chú trọng tới tính tối cao của pháp luật,
mà còn chú ý đến sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực Nhà nước, tổ chức
các cơ quan Nhà nước phân định rõ ràng thẩm quyền của từng cơ quan đó.
Những nhà tưởng vĩ đại đó tiếp tục được các nhà tư tưởng chính trị-pháp
lý tư sản sau này phát triển như một thế giới mới. Đó là thế giới quan chống lại
một cách kịch liệt sự chuyên quền phong kiến và tình trạng vô pháp luật, chống
lại các chế độ chuyên chế độc tài và cảnh sát, khẳng định mạnh mẽ những tư
tưởng nhân đạo,các nguyên tắc tự do và bình đẳng cá nhân, thừa nhận những
quyền của con người không thể bị tước đoạt, tìm tòi những cơ
cấu,hình thức và công cụ chống lại một cách không khoan
nhượng tình trạng vô trách nhiệm của quyền lực đó đối với cá
nhân và xã hội.Và chính đây là nội dung cốt lõi của một học
thuyết mới -học thuyết Nhà nước pháp quyền tư sản. Học
thuyết này ra đời phát triển ngày càng hoàn thiện qua các nhà
tư tưởng vĩ đại thời kì này như Loccơ, Monterquieu, Cantơ,
Heghen, Mohn, Kali…Cần phải thấy rằng, trong sự phát triển về mặt lịch sử và
lý luận của học thuyết Nhà nước pháp quyền chịu ảnh hưởng của hai dòng tư
tưởng: Một là, sự ngày càng khẳng định những quan niệm mới về tự do của con
người thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật-pháp luật tự nhiên. Hai
là, vấn đề xác lập mối tương quan quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản
đang lên về chế độ phong kiến đã lỗi thời. Hơn nữa, cần phải loại trừ tình trạng
độc quyền, bán quyền lực trong một người hay một cơ quan. Học thuyết Nhà
nước pháp quyền, vì lẽ đó, gắn liền với chủ nghĩa lập hiến tư sản.

*Những lí luận của chủ nghĩa Mac-Lenin về vấn đề nhà nước pháp quyền
1-Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước.
3
Marxist
Website: Email : Tel : 0918.775.368
a-Nguồn gốc của nhà nước
Xét sự phát triển của xã hội cộng sản nguyên thuỷ: ta thấy rằng ở xã hội
cộng sản nguyên thuỷ thì các công cụ sản xuât đang còn thô sơ ,năng suất lao
động đang còn thấp kém, vì thế người lao động chỉ đủ ăn chư chưa có sản phẩm
dư thừa, quan hệ sản xuất của con người là làm chung và của cải làm ra đươc
phân phát đều cho mọi người. Nhưng khi mà công cụ sản xuẩt đã được cải tiên
thì làm xuất hiện sản phẩm dư thừa, khi đó một số người nắm giữ vai trò lãnh
đạo sẽ chiếm làm của riêng và nó dẫn đến chỗ là quan hệ sản xuất cũ lạc sẽ bị
phá bỏ và thay vào đó là một quan hế sản xuât mới và cũng dẫn đến việc ra đời
của nhà nước chiếm hữu nô lệ.
Nguyên nhân sau xa sự ra đời của nhà nước là do sự ra đời của quan hệ
sản xuẩt chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuẩt.
Còn nguyên nhân trực tiếp của sự ra đời của nhà nươc là sự đấu tranh giai
cấp.
Khi hai giai cấp đấu tranh quyết liệt thì sẽ xảy ra hai trường hợp là:
Hai giai cấp đấu tranh trong thời gian dài sẽ dẫn đến xã hội không thể
phát triển được.
Hai giai cấp đấu tranh quyết liệt sẽ dẫn đến sự tiêu vong làm cho xã hội
rối loạn không thể phát triển.
Vì thế cần có một tổ chức đứng ra làm trung gian hoà giải,tổ chức đó
chính là nhà nước.Nhưng chỉ có giai cấp nắm quyền bá chủ về kinh tế mới đủ
sức thành lập nên nhà nước,vì thế nhà nước lại là công cụ của giai cấp nắm
quyền về kinh tế để áp đặt lên các giai cấp khác, điều này càng làm cho mâu
thuẫn thêm gay gẳt.Vì thế nhà nước vẫn luôn tồn tại và phát triển,thây đổi từ
hình thức này sang hình thức.

b-Bản chất nhà nước
Nhà nước do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra
Nhà nước là một kiểu tổ chức xã hội có giai cấp.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhà nước thực hiện sự chuyên chính về mặt giai cấp của giai cấp thống trị
với các giai cấp khác.
c-Đặc trưng của nhà nước.
Quản lý dâu cư trên một vùng lãnh thổ.
Có bộ máy quyền lực chuyên chính mang tính cưỡng chế với mọi thành viên.
Hình thành hệ thống thuế để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
d-Chức năng của nhà nước
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị là chức năng mà Nhà nước làm công cụ chuyên chính của
một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó với toàn xã hội.
Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu càu chung
của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng này thì hai chức năng thống trị chính trị là chức năng cơ
bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phải phục vụ cho chức năng thống
trị chính trị.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước đều xuất phát từ lợi
ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một nền thống nhất. Tính chất
của chức năng đối nội quyết định đến tính chất của chức năng đối ngoại của nhà
nước; ngước lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động
mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
2-Nhà nước chuyên chính vô sản
Nhà nước chuyên chính vô sản là một nhà nước kiều mới
Nhà nước chuyên chính vô sản là một nhà nước của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên chính vô sản đống vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân lao động đưa xã hội theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai cấp công nhân do cách mạng
XHCN sản sinh và có sứ mạnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử chưa từng có giai cấp nào bị áp bức bốc lột nào đạt được địa vị
thống trị mà không phải trải qua chuyên chính.
Chủ nghĩa Mac-Lênin chỉ ra rằng nhà nước vô sản là nhà nước đặc biệt ,nhà
nước không còn nguyên nghĩa là nhà nước nửa nhà nước.
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Viêt Nam là một cột trụ trong hệ thống
chính trị,là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện yền
làm chủ của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
Nhà nươc quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật, quản lý bằng kế hoạch,
chính sách, đòn bảy kinh tế.
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới, được
xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
là một Nhà nước đoàn kết toàn dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản. Đó là một Nhà nước khác về chất so với Nhà nước tư sản, và các kiểu Nhà
nước trước đây chứa đựng thuộc tính áp bức bất bình đẳng và bất công
Nhà nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp
quyền của dân,do dân, vì dân,liên minh giai cấp công nhân và nhân dân,các từng
lớp trí thức làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhà nước được thành lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân,dưới sự kiểm
soát của nhân dân.
Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nươc trong việc lập pháp,hành

pháp,tư pháp.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
III-Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
1-Sự ra đời của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Hồ Chí Minh-người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà,trực tiếp đứng đầu Nhà nước đó trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân
dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử:giải phóng dân tộc,thống
nhất đất nước và đưa đất nước tiến lên con đường chủ ấm no hạnh
phúc,sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước,Hồ Chí Minh sống trong cảnh nước
mất nhà tan từng chứng kiến cảnh nhân dân ta bị áp bức bốc lột nặng nề dưới
chế độ hà khắc,bất chấp luật pháp của bọn thực dân Pháp trong và phong kiến
Nam triều.Khi bôn ba hải ngoại,nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm nhiều nước
trên thế giới, ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ Chí Minh.Bởi
vậy khi có điều kiện thể hiện ý tưởng của mình,người đã chớp thời cơ, đấu tranh
để có được trước hết những quyền của người dân ghi trong pháp luật.
Sau khi dành được chính quyền,trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ ,Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách,trong đó nhiệm vụ thứ 3 là:Phải có
một hiến pháp dân chủ,và đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây dựng một nhà nước pháp quyền,một
nhà nước dân chủ ,hợp pháp,một nhà nước thực sự đại diện cho dân,do dân,do
toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật.Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên
trong cả nước được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra Quốc hội
đầu tiên của cả nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hiến pháp và
pháp luật,khẳng định pháp luật của nhà nước ta là ý chí chung của nhân dân,của
dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tư tưởng của chính trị của Người có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa pháp trị và đức trị.Người nói:không xử
phạt là không đúng,song chút gì cũng trừng phạt là không

đúng.Nhà nước là phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp luật
để cải tạo họ,giúp họ trở nên lương thiện.Xây dựng nhà nước
7
Hồ Chí Minh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
pháp quyền,yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ theo pháp luật là nội
dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.Hồ Chí Minh nói:Nhà
nước ta là nhà nước của dân,bao nhiêu quyền hạn là của dân,vận mệnh quốc gia
trong tay nhân dân.
2-Những nội dung chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Tư tưởng của Người về Nhà nước của nhân dân.Dân bầu ra chính quyền Nhà
nước ở Trung ương và chính quyền các cấp.
Ngay sau ngày thành lập nước,Người yêu cầu tổ chức
“càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu”.Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước.Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì
đều có quyền bầu cử.Lần đầu tiên toàn thể nhân dân Việt Nam lao động có
quyền ứng cử và bầu cử. Đây là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động
Việt Nam.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể
quốc dân lựa chọn những người có tài,có đức để gánh vác công việc của nước
nhà.Có như thế dân mới thực hiện được nguyện vọng và ý chí của mình. Đồng
thời cũnn xuất phát từ tình hinh cấp bách phải chuyển từ chính phủ lâm thời
sang chính thức để đối phó với nước ta lúc bấy giờ”. Đó là một ý tưởng tuyệt
vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân.
Nhận thức được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng
nhà nước do. Điều đó có nghĩa là dân không chỉ lập ra nhà nước mà còn phải

tham gia vào công việc quả lý nhà nước.Tất cả nhiệm vụ, quyền hạn đều của
dân.Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc,
thông qua các mối quan hệ xã hội,qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước
bao cấp,lo thay cho dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi.Chính vì vậy Nhà
8
2/9/1945
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân
dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở
nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành.Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo
của nhà nước thì việc gì cũng làm được.
Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc
hội nước ta tuy vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung tất cả quyền
lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ
được đưa ra nhân dân giải quyết, nếu ba phần tư tổng số đại biểu của quốc hội
đồng ý (điều 22 Hiến pháp 1946).
Hội đồng nhân dân được xem như là một cơ quan tự quản của dân, do dân địa
phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm
của quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn
thể trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề
của đất nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở
dân hết”, “công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do
vậy, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định
phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân,
của dân làm lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.”
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông
qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước
bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng:

“Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở
nên dễ dàng và làm được tốt...
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
9

×