Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Phát triển kinh tế trong các dân tộc ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.23 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông
và Lâm Đồng) có 46 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó có 13 dân tộc
thiểu số (DTTS) tại chỗ. Thực hiện đường lối Đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng (12 - 1986), hơn hai mươi năm qua, đồng bào các dân
tộc ở Tây Nguyên đã bước đầu phát huy được những tiềm năng, thế mạnh của
mình, tích cực sản xuất làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế - xã hội toàn
vùng. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế trong các dân tộc ở Tây Nguyên hiện
nay đang gặp những khó khăn, thách thức lớn, đó là: khoảng cách chênh lệch
giàu nghèo giữa các dân tộc và sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân
cư có xu hướng gia tăng; sự hủy hoại môi trường sinh thái, tình trạng suy
giảm diện tích rừng tự nhiên; sự khai thác quá mức tài nguyên đất, rừng cho
phát triển kinh tế; các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi dụng khó khăn
về đời sống, tín ngưỡng của đồng bào DTTS để phục vụ âm mưu chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc,… Do đó, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
đồng bào các DTTS ở Tây Nguyên là yếu tố quyết định để giải quyết những
vấn đề bức xúc trong đời sống kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên hiện nay.
Để tiếp tục giải quyết tốt những vấn đề trong phát triển kinh tế ở Tây
Nguyên hiện nay, Đảng và Nhà nước ta cần phải có những chủ trương, chính
sách đúng đắn dựa trên nền tảng lý luận khoa học và cách mạng. Một trong
những nền tảng đó là tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh. Nét nổi bật, chủ đạo trong
tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là nâng cao đời sống của nhân dân, là kinh tế
gắn liền với chính trị, kinh tế gắn với con người, với xã hội. Trong đó Hồ Chí
Minh rất quan tâm đến phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền
núi, và đặt nó là một bộ phận hữu cơ của chính sách dân tộc nhằm làm cho các
dân tộc đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những
tư tưởng này đang là kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay,
đồng thời là cơ sở để Đảng, Nhà nước ta đề ra chính sách phát triển kinh tế
trong các dân tộc ở Tây Nguyên.
1


Thực hiện chính sách đó, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể, nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém như đã nêu ở
trên, cần được phân tích, đánh giá, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp nhằm
tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt hơn chính sách phát triển kinh tế trong các
dân tộc ở Tây Nguyên những năm tới theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
chính là lý do tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế trong các dân tộc ở Tây
Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng
kinh tế Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Hồ Chí
Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế:
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành tư tưởng Hồ
Chí Minh, vì vậy nội dung này đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm
hiểu. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu như: Trần Xuân Châu: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế hợp tác và ý nghĩa của nó trong đổi mới hợp
tác xã nông nghiệp hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 7 - 1977; Trần
Thành: “Tìm hiểu những quan điểm cơ bản trong tư tưởng kinh tế của Chủ
tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 2 - 1989; Viện Hồ Chí Minh và Bảo
tàng Hồ Chí Minh (1990): Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý kinh tế, Nhà
xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội; TS. Vũ Phạm Quyết Thắng (chủ nhiệm,
1991 - 1995), đề tài cấp nhà nước KX.02.04: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Bộ Công nghiệp và Viện Hồ Chí Minh
(2000): Hồ Chí Minh với công nghiệp và công nghiệp hóa, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã - những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về tư tưởng
kinh tế Hồ Chí Minh là “Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh
tế”do TS Phạm Ngọc Anh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003. Công trình đã phân tích quá trình hình thành, phát triển, đặc điểm bản
chất của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh; phân tích những nội dung chủ yếu

2
của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh và nêu lên những nguyên tắc, phương pháp
quán triệt, vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. TS Nguyễn Huy Oánh
trong công trình “Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004, đã đúc kết những quan điểm kinh tế của Hồ Chí
Minh thành bẩy nội dung lớn: phương pháp tiếp cận và nghiên cứu kinh tế
của Hồ Chí Minh; quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất kinh tế của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; quan điểm về
phát triển nông nghiệp và xây dựng kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở Việt
Nam; quan điểm về phát triển công nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
quan điểm về kinh tế đối ngoại; về thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, phát triển
sản xuất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Liên quan trực tiếp đến nội dung phát triển các dân tộc thiểu số và miền
núi, năm 1996, ủy ban Dân tộc và Miền núi kết hợp với Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc ở Việt Nam”. Trong 46 bài tham luận, có một số bài viết về chủ
đề Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và
miền núi, đề cập đến vai trò, vị trí chiến lược của vùng dân tộc và miền núi, vai
trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện sự đoàn kết, bình
đẳng, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong sự nghiệp phát triển
miền núi. Luận văn thạc sĩ của Trần Phú Quý: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc thiểu số và vận dụng vào giải quyết vấn đề dân tộc trên địa bàn tỉnh
Gia Lai, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008, đã đề
cập đến việc phát triển kinh tế trong các dân tộc thiểu số để giải quyết vấn đề
dân tộc trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên:
Đáng chú ý là ba công trình nghiên cứu: Một số vấn đề kinh tế - xã hội

Tây Nguyên (1986); Tây Nguyên trên đường phát triển (1990); Vấn đề phát
triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk (1990) do ủy ban Khoa
3
học xã hội (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) thực hiện. Các công trình
này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế - xã hội của các DTTS ở Tây
Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học để xác định các hình thức, bước đi trong quá
trình đưa các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên lên chủ nghĩa xã hội.
Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như: Các hình thức kinh tế ở Tây
Nguyên và xu hướng vận động trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hóa, do
TS. Trương Minh Dục làm chủ nhiệm (1994 - 1995); Phát triển kinh tế trang
trại ở Tây Nguyên, do TS. Phạm Thanh Khiết làm chủ nhiệm (1999 - 2000), đã
nghiên cứu các hình thức kinh tế cổ truyền trong lịch sử, các hình thức kinh tế
mới xuất hiện và sự vận động của chúng trong quá trình chuyển sang kinh tế
hàng hóa.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: Các dân tộc thiểu số trong sự
phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, do GS. Bế Viết Đẳng chủ nhiệm (1996); đề
tài cấp bộ: Một số chính sách kinh tế - xã hội đối với các dân tộc ít người ở Tây
Nguyên, do PGS, TS. Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm (1997 - 1998), đã đánh
giá các chính sách của Đảng và Nhà nước ta được thực thi trong thực tiễn với
những thành công và hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách
dân tộc của Đảng.
Như vậy, đứng trên góc độ tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh để nghiên cứu
sự phát triển kinh tế trong các dân tộc ở Tây Nguyên thì chưa có một công trình
nghiên cứu độc lập nào, do đó, đây là một công trình nghiên cứu mới có thể
đóng góp những cơ sở lý luận và thực tiễn cho phát triển kinh tế trong các dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận để phân
tích, đánh giá quá trình phát triển kinh tế trong các dân tộc thiểu số ở Tây

Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tìm ra
phương hướng, giải pháp tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế trong các DTTS
ở Tây Nguyên giai đoạn 2009 - 2020.
4
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Khái quát một số nội dung cơ bản của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trong các DTTS ở Tây Nguyên
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp phát triển kinh tế trong
các DTTS ở Tây Nguyên từ nay đến 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về kinh tế.
- Quá trình phát triển kinh tế, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và
Nhà nước trong các DTTS ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam.
- Luận văn không nghiên cứu sự phát triển kinh tế trong tất cả các dân
tộc ở Tây Nguyên, mà chỉ nhằm vào nhóm đối tượng người DTTS tại chỗ,
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế, về
dân tộc và chính sách dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp lịch sử,
phương pháp lôgic, phương pháp văn bản học, phương pháp so sánh, phương

pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
5
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Hệ thống một số nội dung cơ bản tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu làm rõ một số quan điểm của Người về phát triển kinh tế trong
các dân tộc thiểu số và miền núi.
Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế các DTTS ở Tây Nguyên thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đề xuất phương hướng và
một số giải pháp phát triển kinh tế trong các DTTS ở Tây Nguyên từ nay đến
2020 theo tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số nội dung tư tưởng kinh tế
Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm của Người về phát triển kinh tế
trong các dân tộc thiểu số và miền núi.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần tuyên truyền, phổ biến tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.
- Phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế mà luận văn nêu ra có thể
giúp Đảng, Nhà nước ta tiếp tục đề ra những chính sách đúng đắn, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế trong các DTTS ở Tây Nguyên từ nay đến năm 2020, góp
phần ổn định chính trị - xã hội, xây dựng Tây Nguyên giàu đẹp, văn minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
6
Chương 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
TƯ TƯỞNG KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành tư tưởng Hồ

Chí Minh, bao gồm hệ thống luận điểm được rút ra từ thực tiễn cách mạng
Việt Nam, kế thừa và phát triển những tinh hoa của dân tộc và trí tuệ của thời
đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm giải quyết những vấn đề kinh
tế cơ bản của xã hội Việt Nam trong quá trình phát triển từ một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu tiến dần lên chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nội dung tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh rất phong phú, bao gồm một hệ thống
các luận điểm có quan hệ chặt chẽ với nhau: mục tiêu, cơ cấu, phương hướng,
biện pháp, nhịp độ, bước đi của nền kinh tế nước ta… trong toàn bộ quá trình
vận động từ chế độ dân chủ mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau đây là một số nội dung cơ bản tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh mà
theo tác giả là có thể và cần được vận dụng vào việc phát triển kinh tế trong
các DTTS ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế
1.1.1.1. Mục tiêu
Điểm cốt lõi của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân. Do đó, theo Người, mục tiêu hàng đầu và quan
trọng nhất của phát triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động, làm cho đời sống của nhân dân ngày càng đầy đủ và
sung sướng hơn. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế
hoạch kiến quốc ngày 10 tháng 1 năm 1946, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do,
của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
7
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1- Làm cho dân có ăn.
2- Làm cho dân có mặc.
3- Làm cho dân có chỗ ở.

4- Làm cho dân có học hành [38, tr.152].
Khái niệm “dân” mà Hồ Chí Minh nêu ra ở đây là toàn thể người dân
Việt Nam, gồm các giai tầng như sĩ, nông, công, thương nhưng trước hết là
nhân dân lao động. Nâng cao đời sống nhân dân bao gồm cả đời sống vật chất
và đời sống tinh thần. Người nói: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói
một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” [44, tr.271].
Đời sống vật chất là đảm bảo cho mọi người dân được ăn no, mặc ấm,
có nhà ở, có thuốc chữa bệnh khi ốm đau. Người giải thích từ “dân sinh”
nghĩa là cái ăn, cái mặc, cái ở và cho rằng cả ba cái đó đều quan trọng, đều là
cái thiết yếu, không thể thiếu đối với con người. Cái ăn cho nhân dân là vấn
đề Người trăn trở nhiều nhất. Là một nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu,
nạn đói luôn rình rập. Vì vậy trong vấn đề ăn, Người lo trước hết là lương
thực. Người nói:
Việt Nam ta có câu tục ngữ “Có thực mới vực được đạo”. Trung
Quốc có câu tục ngữ “Dân dĩ thực vi thiên”. Hai câu ấy tuy đơn giản
nhưng rất đúng lẽ. Muốn nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết
phải giải quyết tốt vấn đề ăn (rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác).
Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương
thực [44, tr.543-544].
Ngoài lương thực, vấn đề ăn còn bao gồm nhiều loại thực phẩm khác
như thịt, cá, rau quả, mắm muối Trong Hội nghị tổng kết phong trào sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp năm 1959, Người đã nhắc nhở phải đẩy mạnh
phong trào chăn nuôi càng nhiều càng tốt. Người còn nhắc nhở chính quyền
và nhân dân nhiều vùng như với hợp tác xã Đại Nghĩa (Hà Đông) phải đẩy
8
mạnh chăn nuôi trâu, bò, dê, thỏ, gà, vịt, , phải đẩy mạnh thả cá, cũng như
đẩy mạnh trồng các thứ rau và cây ăn quả. Sự quan tâm của Người về vấn đề
ăn cho dân còn chi tiết đến mức khi về nông trường Đông Hiếu, Nghệ An,
Người nhắc công nhân nhớ trồng ớt để ăn. Đến thăm các nhà máy, xí nghiệp,

Người luôn nhắc nhở các cấp công đoàn chú ý đến bếp ăn tập thể, làm sao
phải nấu ăn thật tốt để đảm bảo sức khỏe cho công nhân.
Tiếp sau vấn đề ăn, Người quan tâm đến vấn đề mặc. Ngay sau khi
tuyên bố độc lập (2 - 9 - 1945), Người khẳng định chính quyền cách mạng
phải “làm cho dân có mặc”. Thăm nhân dân hợp tác xã Đại Nghĩa (Hà Đông),
Người nhắc nhở trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Về Nghệ An, Người lại đặt
vấn đề: “Đây một năm sản xuất bao nhiêu bông? 2.000 mẫu tây được bao
nhiêu tấn? 1.000 tấn bông tuy là ít, nhưng nếu chú trọng lương thực mà không
có bông thì tức là có ăn chứ chưa có mặc” [44, tr.446]. Nước ta, do điều kiện
thiên nhiên, nên việc trồng bông ở miền Bắc không thuận lợi. Nhưng bù lại,
lại có nhiều vùng đất bãi phù xa ven sông có thể trồng dâu nuôi tằm, tạo nên
loại sợi tơ quý giá, có thể dệt vải cao cấp hoặc có thể đổi được nhiều loại vải
sợi, giải quyết vấn đề mặc cho nhân dân. Do đó, sự quan tâm của Người đến
vấn đề mặc cho nhân dân còn thể hiện ở việc Người chỉ ra cách làm thế nào
để tạo ra cái mặc.
Vấn đề ở của nhân dân được Hồ Chí Minh xác định là một vấn đề quan
trọng, là một mặt của vấn đề dân sinh. Người còn gắn vấn đề nhà ở với vấn đề
xây dựng nông thôn mới. Người nhận xét:
Nông thôn của ta, nhà ở của đồng bào phần nhiều đang ọp ẹp, tối
tăm, chẳng ra sao, chẳng có hàng lối gì Khi trước nhà nào lo làm nhà
nấy, làm thế nào cũng được. Nhưng bây giờ không phải như thế. Bây
giờ mình phải đổi mới nông thôn. Nông thôn mình phải quang đãng,
sạch sẽ [44, tr.446].
Để giải quyết nhà ở cho người dân, Hồ Chí Minh kiên trì vận động nhân
dân trồng cây lấy gỗ với sự tính toán rất chi li. Với nhân dân xã Đại Nghĩa, Hà
Đông, Người nói: “Nếu mỗi năm, mỗi người trồng 4 cây, trong 5 năm sẽ có đủ
9
gỗ làm nhà, đóng giường, bàn, ghế, làm nông cụ ” [44, tr.407]. Với Đảng bộ
tỉnh Nghệ An, Người lại nói: “Đồng bào muốn ăn ở tươm tất thì phải có gỗ.
Muốn có gỗ thì phải trồng cây” [44, tr.446]. Khi nói chuyện với cán bộ Đoàn

thanh niên Người cũng nhắc: “Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội để nhân
dân được ăn no, mặc ấm, học tập, có nhà ở tốt. Thanh niên nam nữ khi lấy vợ,
lấy chồng phải có nhà ở. Trồng cây sẽ có gỗ để làm nhà” [44, tr.621-622].
Đời sống tinh thần, theo Hồ Chí Minh, trước hết là đảm bảo việc học
hành cho mọi người. Mong muốn của Người là làm sao cho dân ta ai cũng
được học hành. Đời sống tinh thần còn bao hàm nội dung tự do tín ngưỡng,
mọi người trong xã hội được hưởng thụ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân
tộc và nhân loại, những phong tục, tập quán lạc hậu bị xóa bỏ, xây dựng đời
sống mới văn minh, tiến bộ. Người nhắc nhở từ việc lo cho công nhân ở
những xí nghiệp, nông trường nơi xa xôi được xem phim, được đọc báo, đến
việc lo xóa nạn mù chữ, giữ gìn vệ sinh để chống bệnh sốt rét của đồng bào
các dân tộc vùng cao.
Mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh khái quát lại là: làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt
dần dần được xóa bỏ Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt [44, tr.591].
1.1.1.2. Phương hướng
Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại Quốc hội nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, khóa I, kỳ họp thứ 11, ngày 18 - 12 - 1959, Hồ Chí Minh khẳng
định phương hướng phát triển kinh tế của nước ta là:
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ
nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh
tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,
khoa học và kỹ thuật tiên tiến [43, tr.597].
10
Trong bài “Ba mươi năm hoạt động của Đảng”, đăng trên báo Nhân
dân, ngày 6 tháng 1 năm 1960, Người viết:

Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài [44, tr.13].
Như vậy, phương hướng phát triển nền kinh tế nước ta được Hồ Chí
Minh chỉ ra rất rõ ràng là cải tạo và xây dựng nền kinh tế quốc dân theo chủ
nghĩa xã hội. Chỉ có đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì mới thực sự đem
lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Để xây dựng nền kinh tế quốc
dân theo chủ nghĩa xã hội thì phải thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa. Đây là vấn đề tất yếu. Tuy nhiên, bước đi cụ thể của quá trình công
nghiệp hoá thì phải căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước từng giai đoạn.
1.1.2. Giải pháp phát triển kinh tế
Khi xác định mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh
cũng đồng thời vạch ra nhiều giải pháp để thực hiện mục tiêu và phương
hướng đó. Trong đó, đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí và quan liêu là một hệ giải pháp để nâng cao toàn diện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế nước
ta ngày càng vững mạnh theo hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Hồ Chí Minh
cũng chú trọng phát huy các động lực trong xây dựng và phát triển kinh tế.
1.1.2.1. Đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm
Để cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, theo Hồ Chí Minh, phải huy động sức lực của toàn dân, mọi cấp, mọi
ngành thi đua đẩy mạnh sản xuất. Người nêu rõ:
Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển
sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn
11
có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng
của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta

hiện nay ở miền Bắc khẩu hiệu của chúng ta là: Tất cả phục vụ sản
xuất! Tất cả chúng ta, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào đều phải góp sức
làm cho sản xuất phát triển. Chúng ta phải phấn đấu cho nông nghiệp
phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc Chúng ta phấn đấu cho
nền công nghiệp mau lớn mạnh, cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
thành công Mỗi người công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, viên
chức, đều phải hiểu rõ nghĩa vụ vẻ vang của mình là phục vụ sản xuất
[44, tr.312].
Trong nhiều bài nói chuyện với cán bộ và nhân dân các địa phương, Hồ
Chí Minh tiếp tục khẳng định tính tất yếu của việc đẩy mạnh sản xuất. Người
coi đẩy mạnh sản xuất là vấn đề trọng tâm, gốc rễ của mọi vấn đề kinh tế. Tất
cả đường lối, phương châm, chính sách kinh tế của Đảng ta là không ngừng
đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm để nâng cao đời sống vật chất, văn hóa
của nhân dân. Vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu sau khi
nước nhà mới giành được độc lập là vận động nhân dân tăng gia sản xuất để
đẩy lùi nạn đói và ổn định đời sống. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ, ngày 3 - 9 - 1945, Người đã quyết định phát động một chiến dịch
tăng gia sản xuất và cứu đói. Trong thư Gửi nông gia Việt Nam, Người kêu gọi
nông dân: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất
nữa!”. Thực hiện cuộc vận động lớn đó của Chính phủ, nhân dân cả nước đã
đoàn kết, tích cực thi đua sản xuất với khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”. Phong
trào thi đua tăng gia sản xuất diễn ra sôi nổi, rộng khắp và thu được kết quả to
lớn. Sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát triển, nhờ đó mà nạn đói bị
đẩy lùi, đời sống của nhân dân được nâng lên một bước.
Bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, tư tưởng
của Người là kháng chiến toàn dân, toàn diện. Để đáp ứng yêu cầu của cuộc
kháng chiến và công cuộc kiến thiết trên nhiều lĩnh vực, về kinh tế, Người đề
nghị phải đẩy mạnh “Tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc, đủ
ăn” [39, tr.30]. Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng gia sản xuất có hiệu quả phải
12

huy động toàn bộ sức lực của dân, trí tuệ của dân, của cải của dân nhằm đem
lại lợi ích thiết thực cho dân.
Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm là nét nổi bật trong tư
duy kinh tế của Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Người, sản xuất và tiết
kiệm luôn gắn liền với nhau như một phương châm thực hành lao động cho
nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu. Đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm
là trách nhiệm, là một nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người công dân đối với
Tổ quốc. Với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở toàn dân cần hiểu
rằng tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm tức là yêu nước, là ích nước, lợi
nhà. Do đó, đòi hỏi ở mỗi người ý thức tự nguyện, tự giác, lòng say mê, nhiệt
tình tham gia lao động, góp phần xây dựng kinh tế cho mình và cho nước nhà.
Về vấn đề tiết kiệm, Người chỉ rõ: “Khi không nên tiêu xài thì một
đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng
bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng.
Như thế mới đúng là kiệm” [39, tr.637]. Tiết kiệm với mục đích giúp sản xuất
phát triển, là để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phục vụ
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh phê phán cách thức tiết kiệm
cứng nhắc, nặng nề như: “ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc”.
Như vậy, quan điểm về tiết kiệm của Người mang nội dung khoa học - đó là
tích lũy, được coi như một nguyên tắc cơ bản để tái xản xuất mở rộng xã hội
chủ nghĩa. Tiết kiệm là để có nhiều sản phẩm và để được tiêu dùng nhiều hơn.
Tiết kiệm để sử dụng thời gian, nhân lực, tài lực, trí tuệ của con người đạt
hiệu quả cao hơn. Tiết kiệm là hình thức giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách
mạng và huy động nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Do đó,
tiết kiệm mang ý nghĩa hết sức tích cực.
Nội dung tiết kiệm được Người đề ra là: tiết kiệm sức lao động, tiết
kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của. Ngoài ra, trong sản xuất, để thực hành tiết
kiệm, nâng cao năng suất lao động, Hồ Chí Minh cho rằng phải áp dụng thành
tựu khoa học, coi khoa học, kỹ thuật là cơ sở để phát triển sản xuất nhằm
phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng.

13
Tóm lại, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, tăng gia sản xuất phải đi
đôi với thực hành tiết kiệm, đó là một giải pháp căn bản, thiết yếu của nền
kinh tế. Kết quả của tăng gia sản xuất cộng với kết quả của thực hành tiết
kiệm sẽ tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế nước nhà, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
1.1.2.2. Chống tham ô, lãng phí và quan liêu
Để khôi phục, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ chú trọng đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm mà
Người rất quan tâm chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí và quan
liêu. Trong nhiều bài nói, bài viết, Người luôn khẳng định mối quan hệ không
thể tách rời giữa đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng
phí và quan liêu. Trong bài Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí,
chống bệnh quan liêu, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: muốn lúa tốt thì phải nhổ
cỏ cho sạch nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu.
Người còn căn dặn: Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiết kiệm là
một chính sách lớn, một nếp làm việc và nếp sống không bao giờ được lơ là.
Kẻ thù chính của nó là: tệ tham ô, lãng phí, bệnh phô trương hình thức và lối
làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm. Tệ nạn tham ô, lãng phí và quan liêu là
một trong những nguy cơ đe dọa sự sống còn của sự nghiệp cách mạng, là
một lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, tham ô không chỉ biểu hiện ở những cán bộ, những
người có chức, có quyền, mà ngay cả quần chúng nhân dân đều có thể phạm tội
tham ô. Trước hết, đối với cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô là: “Ăn cắp
của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai
nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương
mình, đơn vị mình” [40, tr.488]. Đối với nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, tham
ô là: “Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” [40, tr.488]. Hay nói cách khác:
tham ô về thực chất là bóc lột nhân dân lao động, bóc lột của cải của tập thể, của
xã hội. Do đó, tham ô là một tội ác lớn.

14
Lãng phí khác tham ô ở chỗ không ăn cắp, ăn trộm của công làm của
tư. Nhưng đứng về mặt tổn thất tài sản của Nhà nước và của nhân dân, thì tác
hại của lãng phí thật là to lớn. Lãng phí biểu hiện trên nhiều mặt: lãng phí sức
lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên
của nhân dân, của đất nước. Người nêu cụ thể tệ nạn lãng phí ở các nhà máy,
xí nghiệp:
Bình quân mỗi người thật sự làm việc chỉ độ sáu giờ rưỡi, máy
móc chỉ dùng hết độ 65% công suất, lại vì chăm sóc kém mà thường hư
hỏng. Các chú thử tính xem, vì lãng phí thời giờ, lãng phí máy móc,
lãng phí nguyên liệu, cộng lại nó đã làm tổn hại bao nhiêu tài sản của
Nhà nước, của nhân dân ? [45, tr.355].
Hồ Chí Minh cho rằng, lãng phí không chỉ xảy ra ở cán bộ, các cơ quan
mà còn biểu hiện phổ biến trong nhân dân. Việc bỏ đất hoang, bán trâu, cầm
ruộng để làm đám cưới, đám ma, đốt vàng mã,.v.v là sự lãng phí lớn.
Lãng phí có nhiều nguyên nhân: cán bộ lãnh đạo, cá nhân lập kế hoạch
không chu đáo. Trong khi thực hiện kế hoạch tính toán không cẩn thận. Hoặc
vì bệnh hình thức, phô trương. Hoặc vì thiếu tinh thần bảo vệ của công. Tóm
lại là vì thiếu ý thức trách nhiệm, thiếu ý thức quý trọng sức của, sức người
của Nhà nước, của nhân dân, còn mang nặng tư tưởng chủ nghĩa cá nhân.
Về quan liêu, Hồ Chí Minh gọi quan liêu là một loại bệnh. Bệnh quan
liêu có nhiều biểu hiện, mà phổ biến nhất là bộ máy hành chính nhà nước cồng
kềnh, bày ra nhiều cấp bậc, làm việc bằng giấy tờ, chuộng phô trương, hình
thức. Quan liêu là những người, những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên xuống cấp
dưới xa rời thực tế, không điều tra xem xét đến nơi, đến chốn công việc phải
làm, việc gì cũng không sâu, không nắm vững, chỉ đạo một cách đại khái,
chung chung. Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra tệ tham ô, lãng phí. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: có tham ô, lãng phí là vì bệnh quan liêu, “bệnh quan
liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí” [40, tr.490].
Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội,

của Chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy hiểm, không mang gươm, súng, nhưng
15
nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta, phá hoại đạo
đức cách mạng. Nó gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng không
tốt đến phong trào đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm của nhân dân. Nó
là một thứ giặc trong lòng, “giặc nội xâm”. Vì những tác hại và nguy cơ đó
nên đấu tranh chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và
cần kíp như đánh giặc trên mặt trận.
Để từng bước giành thắng lợi ở mặt trận này, các ban ngành, các cơ
quan, xí nghiệp, chính quyền các cấp và các tầng lớp nhân dân phải chuẩn bị
kế hoạch, tổ chức, phải có lãnh đạo và trung kiên. Phải tạo nên sự thống nhất
trong tư tưởng và hành động. Phải dựa vào quần chúng nhân dân mới có thể
giành thắng lợi. Người chỉ rõ: “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu
ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công” [40, tr.495]. Phải
làm tốt công tác vận động tuyên truyền trong quần chúng, phát động tư tưởng
của quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu. Muốn nhân dân hăng hái tham gia ngày một nhiều hơn vào phong
trào chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, theo Hồ Chí Minh Đảng phải
thật sự mở rộng dân chủ. Tính chất dân chủ rộng rãi của cuộc đấu tranh là
nhân tố tạo nên sự thắng lợi, là động lực căn bản sâu xa nhất thúc đẩy sự phát
triển kinh tế và đi tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Việc đấu tranh chống
các tệ nạn này đòi hỏi phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ,
mở rộng mọi quyền dân chủ cho quần chúng nhân dân, lôi cuốn rộng rãi mọi
người vào các phong trào hành động cách mạng, tự phê bình và phê bình.
Thực hành dân chủ là giải pháp căn bản nhất để nhanh chóng phát hiện và xử
trí đúng mức căn bệnh nguy hiểm đó.
Mở rộng phong trào tự phê bình và phê bình để tìm ra gốc rễ tham ô,
lãng phí và bệnh quan liêu. Giáo dục, giúp đỡ để làm cho những người phạm
lỗi, phạm khuyết điểm thật thà tự phê bình; chủ động, tích cực khen ngợi, nêu
gương những người tốt, việc tốt, những người trung thực, thật thà, liêm khiết.

Lấy gương người tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách
tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng con người mới và
cuộc sống mới, là tiền đề quan trọng để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh.
16
Coi trọng phương pháp nêu gương, Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở, phải kỷ luật
thích đáng, phải nghiêm trị những cá nhân ngoan cố, không chịu ăn năn, sửa
chữa hoặc ngăn cản, đe dọa người khác phê bình, tố cáo mình.
Việc chống tham ô, lãng phí, quan liêu được Hồ Chí Minh coi là “rất cần
thiết và phải làm thường xuyên” [44, tr.575]. Phải đấu tranh bằng sức mạnh của
dân chủ, kỷ luật, pháp luật và cả đạo đức, văn hóa nói chung của toàn xã hội,
với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là quần chúng công
nông. Đây là con đường thực thi bảo đảm cho nền kinh tế phát triển. Đồng thời,
nó củng cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, thúc đẩy mọi người phát huy
hết năng lực, trí tuệ, công sức để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
bản thân và làm giàu cho đất nước.
1.1.2.3. Phát huy các động lực trong xây dựng và phát triển kinh tế
Động lực hiểu một cách tóm tắt là tất cả những gì góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động của con người. Xây dựng và
phát triển kinh tế, muốn đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao phải tạo ra và
thường xuyên điều chỉnh các cơ chế, chính sách, biện pháp nhằm tích cực hóa
nhân tố con người, làm cho con người trở nên phấn khởi, năng động, sáng tạo,
đem hết trí tuệ và sức lực lao động sản xuất, phát triển kinh tế.
Hệ thống động lực phát triển kinh tế - xã hội trong tư tưởng Hồ Chí
Minh gồm các động lực chính trị - tinh thần, các động lực lợi ích. Trong hệ
thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến
việc khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý
thức trách nhiệm đối với Tổ quốc. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một giá trị
tinh thần cao quý, kết tinh những tư tưởng, tình cảm thiêng liêng nhất của dân
tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã phát huy sức mạnh vô địch
của nó trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, làm nên những chiến thắng vang

dội trong lịch sử dân tộc. Ngày nay đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, biến nó thành một động lực to
lớn để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh việc khơi dậy chủ
nghĩa yêu nước, Người còn sử dụng vai trò tác động của các nhân tố tinh thần
17
khác như: chính trị, văn hoá, đạo đức, pháp luật Trước hết là nâng cao giác
ngộ xã hội chủ nghĩa cho người lao động. Theo Người, giác ngộ xã hội chủ
nghĩa không phải là cái gì cao xa mà cụ thể là ý thức lao động tập thể, ý thức
kỷ luật, ý thức cần kiệm, tinh thần thi đua yêu nước, tinh thần đoàn kết, tương
trợ, tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, không sợ khó khăn, gian khổ. Thực
hành dân chủ rộng rãi, phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người
lao động. Thực hành dân chủ, theo Hồ Chí Minh, là nhân tố hàng đầu để tích
cực hoá nhân tố con người trong sản xuất và phát triển kinh tế. “Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên” [43, tr.602]. Hồ Chí Minh đã chỉ ra các nội dung cụ thể
trong quyền dân chủ của người dân về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, tư
tưởng và những cơ chế, biện pháp để thực hành dân chủ. Người nhắc nhở:
phải làm cho người nông dân xã viên thấy “mình là người chủ tập thể của hợp
tác xã, có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của hợp tác xã. Có
như thế thì xã viên sẽ đoàn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và hợp tác xã sẽ
tiến bộ không ngừng” [46, tr.198]. Người nói, nếu quần chúng thật sự có quyền
dân chủ, cán bộ thật sự mở rộng dân chủ thì mọi kế hoạch sản xuất và công tác
sẽ được thực hiện thắng lợi. Vì vậy, thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Đi đôi với phát huy dân chủ, Hồ Chí
Minh nhắc nhở phải quan tâm đến bồi dưỡng ý thức làm chủ, tâm lý làm chủ
cho người lao động.
Về các động lực lợi ích, Hồ Chí Minh chú ý đồng bộ các động lực lợi ích
tinh thần và lợi ích vật chất. Người nói về chính sách của Chính phủ ta như sau:
Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm
khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi

chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, v.v Có như thế, dân chúng
mới đoàn kết chung quanh chính phủ, mới vì quyền lợi thiết thân của
mình mà hy sinh sống chết giết giặc [38, tr.227].
Người luôn luôn tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng
của người lao động trên cơ sở kết hợp hài hoà ba lợi ích: cá nhân, tập thể, xã
18
hội. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, thực hiện
công bằng xã hội trong phân phối lợi ích.
Bên cạch việc phát huy động lực thì cần phải xoá bỏ các trở lực nằm
trong mỗi con người, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, đó chính là thói
quen và truyền thống lạc hậu, là chủ nghĩa cá nhân. Người đã viết một loạt bài
về đời sống mới, về đạo đức cần, kiệm, liêm, chính để giáo dục cán bộ và
nhân dân. Trước hết, theo Người, cán bộ phải tẩy sạch các khuyết điểm: địa
phương chủ nghĩa, óc bè phái; óc quân phiệt, quan liêu; óc hẹp hòi; ham
chuộng hình thức; làm việc lối bàn giấy; vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm;
ích kỷ, hủ hoá. Phải sửa thói: ghen ghét, đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình.
Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị. Người nhấn mạnh: lười biếng cũng là một kẻ địch
của dân tộc. Về phía nhân dân, Người nhắc nhở: phải tẩy rửa những tư tưởng,
tập quán lạc hậu như trọng nam khinh nữ, đánh chửi vợ, những hủ tục trong
ma chay, cưới hỏi, hội hè, mừng thọ, gây lãng phí tiền bạc, thời giờ. Người
nghiêm khắc phê phán chủ nghĩa cá nhân. Kiên quyết chống chia rẽ, bè phái,
mất đoàn kết, vô tổ chức, vô kỷ luật. Chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười
biếng, không chịu học tập cái mới.
Tất cả những căn bệnh trên là lực cản lớn trên con đường phát triển
kinh tế - xã hội, vì vậy, cùng với việc phát huy các động lực phải tích cực đấu
tranh xoá bỏ các lực cản đó, nghĩa là vừa xây, vừa chống. Chỉ có như vậy mới
có thể thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao toàn diện đời sống
của nhân dân.
1.2. QUAN ĐIỂM VỀ LỰA CHỌN CƠ CẤU KINH TẾ, CÔNG NGHIỆP
HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ QUẢN LÝ KINH TẾ

1.2.1. Quan điểm về lựa chọn cơ cấu kinh tế
Quan điểm lựa chọn cơ cấu kinh tế của Hồ Chí Minh trong chiến lược
phát triển kinh tế ở Việt Nam được thể hiện rõ nhất trong hai loại hình cơ cấu
cơ bản: cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
1.2.1.1. Cơ cấu kinh tế ngành
19
Trong thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo công cuộc phát triển
kinh tế đất nước (1945 - 1969) cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam lúc đó gồm
bốn ngành kinh tế lớn là nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và giao
thông vận tải. Các ngành kinh tế khác như dịch vụ, du lịch, v.v còn chiếm
một vị trí nhỏ bé trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Do đó, Hồ Chí Minh
thường quan tâm nhiều hơn đến cơ cấu kinh tế công - nông - thương nghiệp.
Ba bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động nhau và chi
phối lẫn nhau. Năm 1956, trong tạp chí Sinh hoạt thương nghiệp, số đặc biệt,
Bác đã viết: “Về nhiệm vụ thì phải hiểu rõ trong nền kinh tế quốc dân có ba
mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác
quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và
công nghiệp” [42, tr.174]. Cả ba lĩnh vực này đều quan trọng và không thể
thiếu. Nhưng trong điều kiện Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám thì nông
nghiệp luôn luôn là lĩnh vực quan trọng nhất.
Theo Hồ Chí Minh, nông nghiệp có một vị trí đặc biệt quan trọng đối
với xã hội. Phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn của mọi
vấn đề xã hội. Vị trí của nông nghiệp được đề cao do vấn đề lương thực, thực
phẩm, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu là vấn đề cực kỳ
quan trọng đối với mỗi quốc gia. Lương thực, thực phẩm là tư liệu thoả mãn
nhu cầu cơ bản hàng đầu của con người đó là vấn đề ăn, mặc. Trong Thư gửi
điền chủ nông gia Việt Nam, ngày 1 - 1 - 1946, Bác viết:
Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta
lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính
phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần

lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh [38, tr.215].
Ngay khi cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu nổ ra, Hồ Chí Minh đã
nhận định để kháng chiến chóng thành công thì phải tích cực phát triển nông
nghiệp làm cơ sở, làm hậu phương cho tiền tuyến lớn. Từ năm 1949 Người đã
chỉ rõ: “Mặt trận kinh tế gồm có công nghệ, buôn bán, nông nghiệp. Ngành
20
nào cũng quan trọng. Nhưng lúc này, quan trọng nhất là nông nghiệp, vì “có
thực mới vực được đạo”. Có đủ cơm ăn áo mặc cho bộ đội và nhân dân, thì
kháng chiến mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập mau thành công” [39,
tr.687]. Năm 1967, Người viết: “Quân và dân ta phải ăn no để đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược. Vì vậy sản xuất lương thực và thực phẩm là rất quan
trọng” [46, tr.221]. Khi có dịp tiếp xúc với cán bộ, quần chúng ở nông thôn,
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đến việc phải đặc biệt coi trọng sản xuất nông
nghiệp, phải tận dụng nguồn lực cho phát triển nông nghiệp. Theo Người, sản
xuất nông nghiệp phát triển, lương thực, thực phẩm dồi dào chính là cơ sở
chắc chắn để kháng chiến nhanh chóng đi đến thắng lợi.
Khi miền Bắc bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, Hồ Chí Minh vẫn
đặt sản xuất nông nghiệp là nội dung trọng tâm của kế hoạch kinh tế và yêu cầu
sản xuất nông nghiệp là bước đầu giải quyết vấn đề lương thực, cung cấp
nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, công
nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài.
Ở đây nông nghiệp được coi là nền tảng của toàn bộ cơ cấu kinh tế quốc dân.
Nền nông nghiệp phát triển thì trước hết có lương thực, thực phẩm nuôi sống
cả xã hội. Nông nghiệp phát triển, nông dân sẽ có nhiều sản phẩm hàng hoá để
đưa ra thị trường, ở đây vai trò của thương nghiệp sẽ được phát huy. Theo Hồ
Chí Minh, thương nghiệp chính là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Khi nông nghiệp phát triển và có nhiều sản phẩm dôi ra thì thương nghiệp sẽ
phát triển. Trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp tăng lên. Công
nghiệp được cung cấp nguyên liệu để sản xuất. Khi công nghiệp phát triển thì

trao đổi giữa công nghiệp và nông nghiệp tăng lên và như vậy thương nghiệp
lại được đưa lên một bước cao hơn. Vì vậy, thương nghiệp là cái cầu nối giữa
nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn.
Trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, Hồ Chí Minh luôn coi công nghiệp
và nông nghiệp là hai ngành kinh tế quan trọng nhất và có tác động qua lại mật
thiết với nhau. Nông nghiệp sẽ cung cấp lương thực, thực phẩm cho công nhân
trong các ngành công nghiệp, công nghiệp cung cấp tư liệu sản xuất hiện đại và
các tư liệu tiêu dùng khác cho nông nghiệp. Nông nghiệp đi trước một bước tạo
21
tiền đề cho công nghiệp phát triển, đến lượt mình công nghiệp lại tạo ra các
phương tiện hiện đại để tăng sức sản xuất cho nông nghiệp. Mối quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp còn thể hiện ở sự liên minh của giai cấp công nhân
và nông dân tạo ra động lực cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta phải lấy phát triển nông nghiệp và công nghiệp làm hai nhiệm vụ
trung tâm. Hai lĩnh vực này có tác động tương hỗ cho nhau, ngành này làm
tiền đề, phương tiện cho ngành kia phát triển. Người nhấn mạnh đến vị trí của
nông nghiệp, coi nông nghiệp là lĩnh vực chủ yếu, là cơ sở, nền tảng của nền
kinh tế, nhưng quan niệm đó không bao giờ bị đẩy tới mức cực đoan. Người
khẳng định về lâu dài chúng ta phải phấn đấu thực hiện công nghiệp hóa để
trở thành nước công nghiệp.
Yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ đời sống là tương lai
phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nhưng để thực hiện được quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì trước hết phải phát triển nông nghiệp, lấy nông
nghiệp làm cơ sở, làm nền tảng và điều kiện cho quá trình công nghiệp hoá.
Năm 1960, trong bài viết Con đường phía trước, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng
máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong
công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người,
làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm

những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp
làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu Đó là con đường phải đi của
chúng ta, con đường công nghiệp hoá nước nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn
mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là
con đường no ấm thật sự của nhân dân ta [44, tr.40-41].
22
Qua bài viết trên, chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã vạch ra một chiến lược
phát triển kinh tế của nước ta không chỉ trong một vài năm mà trong cả quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, là nền tảng,
là cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành khác như thương nghiệp, giao
thông vận tải, dịch vụ. Nhưng khi nông nghiệp đã ổn định, đã giải quyết
những vấn đề cơ bản về lương thực, thực phẩm, về nguyên liệu, vật liệu thì
nhiệm vụ công nghiệp hoá được đặt lên hàng đầu. Và chỉ khi nền kinh tế đã
được CNH, HĐH mới có thể bảo đảm cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội được thực hiện. Nông nghiệp là cơ sở, là tiền đề, là điều kiện để từ đó
chúng ta công nghiệp hoá đất nước. Như vậy, vị trí của các ngành kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân không phải là nhất thành bất biến mà do những
điều kiện cụ thể của nền kinh tế quy định.
1.2.1.2. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Hồ Chí Minh đã sớm nói về sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu, và do đó,
tồn tại nhiều thành phần kinh tế (TPKT) trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Ngay từ năm 1926, Người đã xác định, cách mạng Việt Nam
thành công sẽ áp dụng “Tân kinh tế chính sách” của Lênin. Đến năm 1953,
trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người đã cụ thể hóa tư tưởng về nền
kinh tế nhiều thành phần như sau:
Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:

A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của
chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ
nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến
dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản tư nhân.
23
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư
nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau
hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội
chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản [41, tr.247-248].
Năm 1959, trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ
11 Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Người đã trình bày
đường lối chung tiến lên CNXH. Đáng chú ý trong đường lối chung đó Người
đã nêu rõ các hình thức sở hữu và các TPKT ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và chính sách đối với các loại hình đó. Người chỉ rõ, trong
nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất là: sở
hữu của Nhà nước (tức là của toàn dân), sở hữu của hợp tác xã (tức là sở hữu
tập thể của nhân dân lao động), sở hữu của người lao động riêng lẻ, sở hữu
của nhà tư bản.
Cũng trong Báo cáo này, Hồ Chí Minh còn nêu rõ các TPKT trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, vai trò và xu thế vận động của chúng:
- Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo
nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải ưu tiên cho nó phát triển.
- Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động;
Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển.
- Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ

họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo
nguyên tắc tự nguyện.
- Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt
động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của
Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo
CNXH bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
24
Trong các TPKT đó, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của kinh
tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Người viết: “Chúng ta phải phát triển
thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội
và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hợp tác hoá nông nghiệp là khâu
chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” [43, tr.598].
Vấn đề hợp tác xã đã được Người nhắc đến trong tác phẩm Đường
Kách mệnh viết năm 1927. Sau này trong nhiều tác phẩm và chỉ dẫn, Người
rất quan tâm đến sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã. Người quan
niệm là nếu như mỗi hộ làm ăn kinh tế riêng lẻ thì có nhiều việc không có
hiệu quả. Nếu như nhiều hộ biết hợp tác với nhau thì sẽ có hiệu quả cao hơn.
Vì vậy, hợp tác hoá trong nông nghiệp là một biện pháp quan trọng để đưa
nông nghiệp phát triển. Năm 1958, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Gốc của thắng lợi là
tổ chức, trước hết là tổ đổi công cho tốt rồi tiến dần lên hợp tác xã nông
nghiệp” [43, tr.190]. Người cho rằng cần tổ chức nông dân từng bước dần dần
từ tổ đổi công lên các hợp tác xã. Tuy vậy, khi cảm nhận được phong trào hợp
tác hoá đang có những biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí thì từ năm
1959, Người đã có những nhắc nhở cảnh báo:
Hiện nay, các tỉnh đang mở rộng phong trào hợp tác hoá. Việc
xây dựng hợp tác xã cần chú trọng đến chất lượng, không nên chạy
theo số lượng. Xây dựng hợp tác xã nào cần làm cho tốt hợp tác xã đó.
Nếu xã, huyện nào cũng xây dựng được một hoặc vài ba hợp tác xã thật
tốt, sản xuất tăng, thu nhập tăng, nội bộ đoàn kết vui vẻ và các mặt

khác cũng đều vượt hơn hẳn các tổ đổi công và các gia đình làm ăn
riêng lẻ, thì các hợp tác xã đó sẽ có tác dụng lôi cuốn đông đảo đồng
bào nông dân vào hợp tác xã. Ngược lại, nếu xã, huyện nào cũng có
hợp tác xã mà hợp tác xã không hơn gì hay hơn rất ít các tổ đổi công và
gia đình làm ăn riêng lẻ thì có tốn công tuyên truyền bao nhiêu cũng ít
người muốn vào hợp tác xã.
Phong trào hợp tác hoá phải đi từ thấp đến cao mới phát triển
được thuận lợi. Muốn tổ chức hợp tác xã được tốt, phải phát triển và
củng cố các tổ đổi công [43, tr.546-547].
25

×