Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Quản lý hoạt động kinh doanh du lịch tại tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.17 KB, 91 trang )

PHẦN MỞ ĐÂU
1. Tính cấp thiết đề tài nghiên cứu
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, cửa ngõ phía
Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, một trong những địa phương có nhiều tiềm năng
và lợi thế để phát triển du lịch.
Nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng núi Đông Bắc, đồng bằng sông
Hồng và vùng núi Tây Bắc, vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng
Tây-Đông-Bắc đem lại lợi thế trong mối liên kết vùng phát triển du lịch.
Các điều kiện tự nhiên của Phú Thọ, đặc biệt là địa hình trung du đa
dạng đã tạo cho Phú Thọ có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên khá phong phú
và hấp dẫn để khai thác các loại hình du lịch tham quan, vui chơi giải trí, nghỉ
dưỡng chữa bệnh, thể thao, sinh thái
Phú Thọ có nền văn hoá rực rỡ từ lâu đời để lại hệ thống di sản văn hoá
có giá trị phục vụ du lịch cao trong đó nổi bật là quần thể di tích lịch sử đền
Hùng được công nhận là di tích lịch sử văn hoá đặc biệt cấp Quốc gia gắn với
lễ hội Gỗ Tổ Hùng Vương, hàng năm thu hút đông đảo khách du lịch người
Việt Nam từ khắp mọi miền đất nước. Bên cạnh đó, năm 2011 hát Xoan được
UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới và trở thành tài nguyên du
lịch có ý nghĩa đặc biệt.
Với hệ thống giao thông phát triển gồm đường bộ, đường sắt, đường
thủy Phú Thọ đã và đang trở thành cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế
giữa Việt Nam với Trung Quốc, giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh
miền núi phía Bắc.
Trên cơ sở tụi chọn đề tài: “ Quản lý hoạt động kinh doanh du lịch tại
tỉnh Phỳ Thọ” làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
1
Trong thời gian qua, cùng với tiến trình phát triển của du lịch cả nước,
du lịch tỉnh Phú Thọ đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Ngành du
lịch Phú Thọ đã có đóng góp nhất định vào tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, bảo vệ
môi trường và giữ vững quốc phòng, an ninh.


Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, đánh giá qua hơn 6
năm thực hiện quy hoạch cho thấy du lịch Phú Thọ phát triển còn nhiều hạn
chế, bất cập; nhiều khó khăn, trở ngại; chưa có bước phát triển đột phá để
khẳng định thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn; kết quả chưa tương xứng với
tiềm năng, lợi thế của tỉnh; phát triển nhưng vẫn ẩn chứa nhiều nguy cơ, yếu
tố thiếu bền vững.
Những năm gần đây, xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu,
giao lưu mở rộng và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong nền kinh
tế tri thức trên thế giới đang tạo ra những cơ hội to lớn đồng thời cũng là
thách thức đối với phát triển du lịch cả nước trong đó có du lịch Phú Thọ.
Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Việt Nam với việc gia
nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới đã, đang và sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch phát triển.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất phương hướng và giải pháp để hoàn thiện quản lý nhà nước về
hoạt động kinh doanh du lịch ở tỉnh Phú Thọ.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết
nhiệm vụ cụ thể của các chương như sau:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn cấp tỉnh giai đoạn hiện nay.
2
Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh du lịch ở tỉnh Phú Thọ những năm qua, chỉ ra những mặt tích cực, hạn
chế và nguyên nhân.
Đề xuất được phương hướng và các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm
hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch ở Phú Thọ
thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý của địa phương đối với hoạt
động kinh doanh du lịch.

Phạm vi nghiên cứu
Không gian: nghiên cứu tại tỉnh Phú Thọ.
Nội dung: nghiên cứu công tác quản lý của chính quyền địa phương đối
với hoạt động kinh doanh du lịch tại tỉnh Phú Thọ bao gồm công tác hoạch
định, triển khai và ban hành các văn bản qui phạm pháp luật; tổ chức thanh
tra, kiểm tra các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Thời gian: Thời gian khảo sát thực trạng từ năm 2010 đến nay, các đề
xuất giải pháp từ nay đến 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu đề ra, đề tài sử dụng chủ yếu các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp;
Phương pháp điều tra; Phương pháp phỏng vấn; Phương pháp nghiên cứu tài
liệu.
5. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề có liên quan tới đề tài
Vấn đề QLNN đối với hoạt động kinh doanh du lịch phạm vi cả nước
nói chung và của từng địa phương nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học, các nhà lãnh đạo và quản lý kinh tế. Một số công trình
khoa học tiêu biểu như sau:
3
-Trịnh Đăng Thanh (2004) “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay” Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
-Nguyễn Minh Đức (2007), “Quản lý Nhà nước đổi với hoạt động
thương mại, du lịch ở tỉnh Sơn La trong quá trình CNH, HĐH ", Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Xuân Ảnh (2007) “Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về
thị trường du lịch” Tạp trí quản lý Nhà nước số 132.
-Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và
bền vững sau khi ra nhập WTO ”, Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
- Ngô Quang Đông (2011), “”

6. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
-Về mặt xã hội: phân tích đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước
hoạt động kinh doanh du lịch tại tỉnh Phú Thọ những năm vừa qua.
-Về mặt kinh tế, quản lý: đề xuất được phương hướng và các giải pháp
thiết thực, khả thi nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh du lịch tại tỉnh Phú Thọ. Góp phần thúc đẩy hoạt động này phát triển
nhanh và bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
chung của tỉnh.
-Về mặt đào tạo: đề tài đóng góp vào việc nghiên cứu về vấn đề quản lý
hoạt động kinh doanh du lịch tại một địa phương dựa trên các cơ chế chính
sách của Nhà nước và của chính quyền địa phương.
4
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH TẠI ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Một số vấn đề cơ bản về kinh doanh du lịch và quản lý nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh du lịch.
1.1.1. Khái niệm về du lịch và kinh doanh du lịch
- Khái niệm du lịch:
Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Pháp: “Tour” nghĩa là đi vòng
quanh, cuộc dạo chơi, còn “touriste” là người đi dạo chơi. Trong tiếng Anh
“to tour” có nghĩa là đi dã ngoại đến một nơi nào đó. Mặt khác, “du lịch” là từ
Hán-Việt, có thể coi là từ ghép giữa “du” là đi chơi với “lịch” là sự lịch lãm,
hiểu biết.
Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch, đầu tiên du lịch được hiểu là
việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình
trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí
hay chữa bệnh. Ngày nay, khi du lịch phát triển mạnh trở thành lĩnh vực
không thể thiếu trong đời sống con người (từ giữa thế kỷ XX đến nay), người
ta đưa ra những khái niệm cụ thể hơn về du lịch.

Có quan niệm cho rằng:
Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan
với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm
nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận
thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên,
kinh tế và văn hóa
Tại Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa - Canada (6/1991)
đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi
5
ngoài môi trường thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất
định, mụcđích của chuyến đi không phải là đế tiến hành các hoạt động kiếm
tiền trong phạm vỉ vùng tới thăm ”
Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên Hợp Ọuổc
(UNWTO):
Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành, tạm
trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong
mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những
mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài
môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là
kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường
sống khác hẳn nơi định cư .
Theo luật Du lịch năm 2005 thì: "Du lịch là các hoạt động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu thăm quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định ” .
Trên cơ sở các yếu tố hợp lý của các định nghĩa về du lịch nêu trên,
khái niệm du lịch sử dụng trong luận văn được hiểu là: Du lịch là bao gồm tất
cả các mối quan hệ, các hoạt động liên quan đến chuyến đi và lưu trú của con
người ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng nhu cầu tìm
hiểu, khám phá, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, giải trí, phát triển thể chất và tinh

thần kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa trong
một khoảng thời gian nhất định.
Như vậy, một mặt, du lịch mang ý nghĩa thông thường của từ: việc đi
lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí Mặt khác, du lịch được
nhìn nhận dưới góc độ một hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế (sản
xuất, tiêu thụ) do chính nó tạo ra.
6
Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt động không thể
thiếu được trong cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Ở các chuyến du
lịch trong và ngoài nước, con người không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi, giải
trí, mà còn thỏa mãn cả những nhu cầu to lớn về mặt tinh thần. Mặt khác du
lịch là một hiện tượng KT-XH thu hút hàng tỷ người trên thế giới. Bản chất
kinh tế của nó là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa phục vụ việc thỏa mãn
nhu cầu vật chất, tinh thần của khách du lịch.
- Khái niệm hoạt động kinh doanh du lịch: hoạt động kinh doanh du
lịch là tổng hòa mối quan hệ giữa các hiện tượng kinh tế với kinh tế của hoạt
động du lịch, hình thành trên cơ sở phát triển đầy đủ sản phẩm hàng hóa du
lịch và quá trình trao đổi mua và bán hàng hóa du lịch trên thị trường.
Sự vận hành kinh doanh du lịch là lấy tiền tệ làm môi giới, tiến hành trao đổi
sản phẩm du lịch giữa người mua (du khách) và người bán (nhà kinh doanh
du lịch), sự vận hành này lấy vận động mâu thuẫn giữa hai mặt cung cấp và
nhu cầu du lịch làm đặc trưng chủ yếu.
Trong điều kiện thị trường , việc thực hiện thông suốt hoạt động kinh doanh
du lịch được quyết định bởi sự điều hòa nhịp nhàng giữa hai đại lượng cung
và cầu du lịch.
Khác với các loại hàng hóa thông thường sản phẩm hàng hóa trao đổi giữa hai
bên cung cầu trong du lịch không phải là vật cụ thể, cái mà du khách có được
là sự cảm giác, thể nghiệm hoặc hưởng thụ, vì thế trong quá trình trao đổi sản
phẩm du lịch, giao lưu hàng hóa và giao lưu vật là tách rời nhau. Sự trao đổi
sản phẩm du lịch và tiền tệ do hai bên cung cầu du lịch tiến hành không làm

thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch, trong quá trình chuyển đổi cũng
không xảy ra sự chuyển dịch sản phẩm, du khách chỉ có quyền chiếm hữu tạm
thời sản phẩm du lịch tại nơi du lịch. Cùng một sản phẩm du lịch vẫn bán
được nhiều lần cho nhiều du khách khác nhau sử dụng, sản phẩm du lịch chỉ
7
tạm thời chuyển dịch quyền sử dụng, còn quyền sở hữu vẫn nằm trong tay
người kinh doanh, đây chính là đặc điểm cơ bản của kinh doanh du lịch.
Căn cứ theo Luật Du lịch năm 2005 đưa ra khái niệm hoạt động du lịch
như sau: "Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến du lịch".
Với cách tiếp cận này, hoạt động du lịch được nhìn nhận ở ba khía
cạnh:
Thứ nhất, “hoạt động của khách du lịch” nghĩa là việc di chuyển và
lưu trú tạm thời của người đi du lịch đến một nơi ngoài nơi cư trú thường
xuyên của họ để tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa,
nghệ thuật
Thứ hai, “tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch”, tức là những người
hoạt động tổ chức lưu trú, phục vụ ăn uống, hướng dẫn tham quan, vận
chuyển đưa đón du khách, kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ khác nhằm
mục tiêu lợi nhuận.
Thứ ba, “cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”,
tức là cơ quan nhà nước và các tổ chức có liên quan tại địa phương du lịch tổ
chức quản lý, điều phối, phục vụ hoạt động của “khách du lịch” và “tổ chức,
cá nhân hoạt động kinh doanh du lịch” nhằm đảm bảo cho các đối tượng này
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động du lịch theo
đúng luật định.
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động kinh doanh du lịch
1.1.2.1 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh du lịch
Do đặc điểm của sản phẩm du lịch đa số là các dịch vụ, bởi vậy đặc

điểm chủ yếu của các dịch vụ du lịch như sau:
8
Thứ nhất: Dịch vụ du lịch mang đầy đủ tính chất của một ngành dịch
vụ. Ngày nay, nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật và công nghệ
phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động
xã hội, làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như cuộc sống văn minh
của con người. Từ đó, hoạt động du lịch trở thành một ngành kinh tế độc lập.
Ở các nước phát triển và đang phát triển, tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc
dân ngày càng tăng lên. Du lịch là một ngành dịch vụ. Sản phẩm và quá trình
sản xuất của nó vừa mang những đặc điểm chungcủa dịch vụ vừa mang
những đặc điểm riêng của dịch vụ du lịch.
Thứ hai: Du lịch là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất
và tinh thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch.
Dịch vụ du lịch khác với các ngành dịch vụ khác ở chỗ: dịch vụ du lịch
chỉ thỏa mãn nhu cầu cho khách du lịch chứ không thỏa mãn nhu cầu cho tất
cả mọi người dân. Dịch vụ du lịch là nhằm thỏa mãn những nhu cầu hàng hóa
đặc thù của du khách trong thời gian lưu trú bên ngoài nơi ở thường xuvên
của họ về ăn, ở, nghỉ ngơi, đi lại, tham quan, vui chơi giải trí, thông tin về văn
hóa, lịch sử, tập quán và các nhu cầu khác. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại
hình dịch vụ đời sống nhằm thỏa mãn các nhu cầu cao cấp của con người, làm
cho con người sống ngày càng phong phú hơn. Thực tế hiện nay cho thấy, ở
nhiều nước trên thế giới, khi thu nhập của người dân tăng lên, đủ ăn, đủ mặc
thì du lịch trở thành không thể thiếu, bởi vì ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tình
cảm và lý trí, du lịch còn là một hình thức nghỉ dưỡng tích cực, nhằm tái tạo
lại sức lao động của con người.
Thứ ba: Việc tiêu dùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trong cùng
một thời gian và không gian.
Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (thức ăn, đồ uống chế
biến tại chỗ ) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản
9

xuất ra chúng. Trong du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ
và hàng hóa đến cho khách hàng, mà ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến
nơi có dịch vụ, hàng hóa. Chính vì vậy, vai trò của việc thông tin, xúc tiến
quảng bá du lịch là hết sức quan trọng, đồng thời việc quản lý thị trường du
lịch cũng cần có những đặc thù riêng.
Thứ tư: Du lịch mang lại lợi ích thiết thực về chính trị, kinh tế, xã hội
cho nước làm du lịch và người làm du lịch.
Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch không những đem lại lợi
ích thiết thực về kinh tế mà còn mang lại cả lợi ích về chính trị, văn hóa, xã
hội Tuy nhiên, sự chi phối mạnh nhất đối với ngành du lịch vẫn là lợi ích
kinh tế. Vì vậy, ở nhiều nước đã đưa ngành du lịch phát triển với tốc độ cao
và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, mang lại
nguồn thu nhập lớn trong tổng sản phẩm xã hội. Do đó, dịch vụ du lịch ngoài
việc thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch còn phải đảm bảo
mang lại lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho quốc gia làm du lịch và
cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động du lịch.
Thứ năm: Du lịch chỉ phát triển trong môi trường hòa bình và ổn định.
Du lịch là lĩnh vực rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị và xã hội.
Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ
hữu nghị giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh ngăn cản các hoạt động du
lịch, tạo nên tình trạng mất an ninh, đi lại khó khăn, phá hoại các công trình
du lịch, làm tổn hại đến cả môi trường tự nhiên. Hòa bình là đòn bẩy đẩy
mạnh hoạt động du lịch. Ngược lại, du lịch có tác dụng trở lại đến việc cùng
tồn tại hòa bình. Thông qua du lịch quốc tế con người thể hiện nguyện vọng
nóng bỏng của mình là được sống, lao động trong hòa bình và hữu nghị. Và
hơn thế nữa, không cần phải có chiến tranh mà chỉ cần có những biến động
chính trị, xã hội ở một khu vực, một vùng, một quốc gia, một địa phương với
10
mức độ nhất định cũng làm cho du lịch bị giảm sút một cách đột ngột và
muốn khôi phục phải có thời gian. Ví dụ, vụ khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ,

khủng bố tại đảo Bali - Indonêxia, sự kiện “đảo chính” ở Thái Lan đã làm
cho ngành du lịch các nước này lao đao có thể nhiều năm mới phục hồi. Mặt
khác, tình trạng dịch bệnh ô nhiễm môi trường cũng là những nhân tố rất
quan trọng tác động đến khách du lịch.
1.1.2.2 Ý nghĩa của hoạt động kinh doanh du lịch
Du lịch là một thành phần kinh tế, văn hoá, xã hội quan trọng ở Việt
Nam và là một nhân tố chiến lược của chương trình xoá đói giảm nghèo, tăng
trưởng kinh tế của quốc gia. Số lượng người nước ngoài đến Việt nam đã tăng
từ 2,2 triệu năm 2000 lên 3,5 triệu trong năm 2005 trong đó 60% là khách du
lịch. Con số này sẽ đạt tới 7 triệu khách trong năm 2010.
Thông thường, khách du lịch thường lưu lại hình ảnh về những nơi họ
đã đến thăm bằng các tấm ảnh chụp và quà lưu niệm, tuy nhiên một xu hướng
mới đang rất phát triển trên thế giới đó là làm sao để khoảng thời gian đi du
lịch của bạn-thường là ở các nước đang phát triển- để lại ấn tượng tốt cho nơi
mà bạn đã đi qua. Ngoài ra ý thức cộng đồng cũng như ý thức về bảo vệ môi
trường cũng được xem là một khái niệm đang ngày càng thịnh hành trong một
thế giới hội nhập như hiện nay.
Ngành công nghiệp du lịch của Việt Nam có một lợi thế đó là một lĩnh
vực vẫn còn mới và non trẻ. Mặc dù có tốc độ phát triển khá đều sau khi được
biết đến như là một điểm đến mới của du lịch thế giới, nhưng hiện nay Việt
Nam vẫn chỉ nhận được lượng khách du lịch còn khiêm tốn, vì vậy đây cũng
là thời điểm thích hợp để chúng ta giới thiệu mô hình du lịch theo tình thần
mới này, đặc biệt là cho thanh niên. Ngay cả với những dự án nhỏ chúng ta
vẫn hoàn toàn có thể hy vọng nó có tác động lâu dài đến sự phát triển của
ngành du lịch.
11
Sự chuyển đổi của nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung sang
kinh tế thị trường có tác động không nhỏ đến sự phát triển của khu vực kinh
tế du lịch. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực này
cũng đang được nhanh chóng cải thiện, các khách sạn, khu nghỉ mát, các công

ty du lịch và các hoạt động du lịch đang phát triển ở khắp nơi trên đất nước.
Tuy nhiên mối quan hệ cá nhân giữa khách du lịch và cộng đồng địa phương
chưa được chú ý một cách xứng đáng trong lĩnh vực kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ này.
Thêm vào đó, cộng đồng địa phương là một nhân tố thu hút khách du
lịch đồng thời là điểm nhấn của các chiến dịch du lịch không phải lúc nào
cũng được hưởng lợi từ các đoàn khách du lịch. Những công ty tổ chức tour
du lịch lớn có trụ sở ở các thành phố lớn hay ở nước ngoài lại thường được
hưởng hầu hết lợi nhuận về kinh tế, trong khi người dân địa phương phải chịu
những tác động có ảnh hưởng lớn từ sự biến chuyển do du lịch mang lại cho
xã hội mà có thể dẫn đến nhiều nhược điểm cho cộng đồng.
1. Ý nghĩa về kinh tế
Du lịch phát triển sẽ tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương có
hoạt động du lịch từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực
thuộc quản lý trực tiếp của các địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của
các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn.
Du lịch thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Trước hết
hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ngành, yêu cầu về sự
hỗ trợ liên ngành, là cơ sở cho các ngành khác (giao thông vận tải, tài chính,
bưu điện, công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ) phát triển. Đối
với nền sản xuất xã hội, du lịch còn mở ra thị trường tiêu thụ hàng hóa. Mặt
khác, sự phát triển của du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu
12
thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các
cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác.
2. Ý nghĩa về chính trị
Ý nghĩa chính trị của du lịch được thể hiện ở vai trò to lớn của nó như
một nhân tố hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu
biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực
khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Mỗi năm, hoạt động du lịch có

những chủ đề khác nhau, các chủ đề này đã kêu gọi hàng triệu người quý
trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến
khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết
và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
3. Ý nghĩa về văn hóa, xã hội
Du lịch góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế vùng có hoạt động du lịch và
giảm quá trình đô thị hóa. Thông thường tài nguyên du lịch tự nhiên có ở các
vùng hẻo lánh, xa xôi, vùng ven biển Việc khai thác đưa những tài nguyên
này vào sử dụng đòi hỏi phải đầu tư về mọi mặt giao thông, bưu điện, kinh tế,
văn hóa - xã hội Do vậy mà việc phát triển du lịch sẽ làm thay đổi bộ mặt
kinh tế - xã hội ở những vùng đó, giảm đi sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội giữa các vùng trong cả nước, đồng thời cũng góp phần làm
giảm đi sự tập trung dân cư ở những trung tâm dân cư.
Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả cho đất
nước chủ nhà mà không phải mất tiền.
Về phương diện kinh tế: là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu
hiệu cho hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua du khách. Khách hàng
được làm quen tại chỗ với các mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Một số sản phẩm làm cho du khách hài lòng, về nước, du khách tuyên truyền
cho bạn bè, người thân và nhiều khi bắt đầu tìm kiếm các mặt hàng đó ở
13
nước mình và nếu không thấy, khách có thể yêu cầu các cơ quan ngoại
thương nhập các mặt hàng đó.
Về phương diện xã hội: là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu
hiệu về các thành tựu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giới thiệu về con
người, phong tục, tập quán nơi họ đã đến.
Thông qua du lịch con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và
cảm xúc mới, thỏa mãn được trí tò mò, đồng thời mở mang kiến thức, đáp
ứng lòng ham hiểu biết, do đó góp phần hình thành phương hướng đúng đắn
trong mơ ước sáng tạo, trong kế hoạch cho tương lai của con người - khách du

lịch.
Trong thời gian đi du lịch, khách thường sử dụng các dịch vụ, hàng hóa
và thường tiếp xúc với dân cư địa phương. Thông qua các cuộc tiếp xúc đó,
văn hóa của cả khách và người bản xứ được trao đổi và nâng cao. Du lịch còn
làm phong phú thêm khả năng thẩm mỹ của con người khi họ được tham quan
các kho tàng mỹ thuật của một đất nước.
Du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao
truyền thống của dân tộc. Thông qua các chuyến đi tham quan, nghỉ mát, vãn
cảnh người dân có điều kiện làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử và văn hóa
dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước mình.
Ngoài ra, việc phát triển du lịch còn có ý nghĩa lớn đối với việc khai
thác và bảo tồn các di sản văn hóa của dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của các
ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường
thiên nhiên, môi trường xã hội.
4. Ý nghĩa về môi trường sinh thái
Tạo môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là
nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi
14
trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khoẻ và hoạt động của con người.
Việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào
những vùng nhất định đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với
mục đích du lịch. Lúc này đòi hỏi con người phải tìm kiếm các hình thức bảo
vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt
chẽ. Một mặt xã hội đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác
lại phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của các dòng
khách du lịch và việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch. Như
vậy, giữa du lịch và bảo vệ môi trường có mối liên quan gần gũi với nhau.
1.1.3. Khái niệm về quản lý nhà nước và của quản lý nhà nước đối với hoạt

động kinh doanh du lịch
1.1.3.1 Khái niệm về quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước được hiểu theo 2 nghĩa:
+ Theo nghĩa rộng: Quản lý là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ
máy Nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực Nhà
nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu
này, quản lý Nhà nước được đặt trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân lao động làm chủ ".
+ Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều
hành của hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục
tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan Nhà nước
nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính
chất hành chính Nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ
công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia tách, sát
15
nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thưởng, kỷ luật
cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ Quản lý Nhà nước
theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính Nhà
nước.
Quản lý hành chính nhà nước.
Trong quản lý nhà nước nói chung, hoạt động quản lý hành chính là
hoạt động có vị trí trung tâm, chủ yếu. Đây là hoạt động tổ chức và điều hành
để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của nhà nước trong quản lý
xã hội.
Có thể hiểu quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền
hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con
người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà
nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức

năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Định nghĩa trên có ba nội dung cơ bản:
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp:
hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực của nhà nước: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
- Quản lý hành chính là sự tác động có tổ chức và có định hướng:
Trong quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức rất quan trọng,vì
không có tổ chức thì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức cả triệu
người và mỗi người đều có vị trí tích cực đối với xã hội, đóng góp phần của
mình để tạo ra lợi ích cho xã hội. Quản lý hành chính nhà nước có tính định
hướng vì thông qua tác động quản lý của mình các chủ thể quản lý hành chính
nhà nước định hướng hành vi con người và các quá trình xã hội theo những
quỹ đạo, mục tiêu nhất định.
16
- Quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo
nguyên tắc pháp chế: Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi
quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước nhưng phải
trong khuôn khổ của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản
của nhà nước pháp quyền
1.1.3.2 Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch
Hoạt động kinh doanh du lịch (HĐKDDL) rất đa dạng và luôn đòi hỏi
sự quản lý của Nhà nước để duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại
của ngành du lịch phụ thuộc rất lớn vào khung khổ pháp lý và nhìn chính sách
thích hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước. Do vậy, vấn đề
quản lý nhà nước đối với HĐKDDL là một vấn đề cần thiết được đặt lên hàng
đầu. Hơn nữa du lịch ở Việt Nam mới trong giai đoạn đầu phát triển, còn gặp
nhiều khó khăn và thách thức lớn do vậy rất cần có sự định hướng của Nhà
nước để du lịch phát triển. Có thể kết luận rằng HĐKDDL trong nền kinh tế
thị trường cần phải có sự quản lý của Nhà nước bởi vì:
- Một mặt, do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây

nên. Mặt khác, do Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện ở
việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cũng như đối với ngành
kinh tế du lịch nói riêng trong từng thời kỳ. Nhà nước còn điều tiết, can thiệp
vào các quan hệ du lịch nhàm đảm bảo sự ổn định thị trường, giá cả và sự
phát triên bên vững của ngành.
- Quản lý nhà nước về HĐKDDL tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và
phối hợp các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về HĐKDDL. Đồng
thời chỉ có sự quản lý thống nhất của Nhà nước về hoạt động du lịch mới giúp
cho việc khai thác các thế mạnh của từng vùng, từng địa phương đạt kết quả,
hơn nữa lại phát huy lợi thế so sánh của quốc gia trong phát triển du lịch quốc
tế.
17
- Ngoài ra, du lịch còn là một ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Nó liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác. Do vậy, cần thiết phải có sự quản
lý của nhà nước để điều hòa mối quan hệ giữa du lịch với các ngành, các lĩnh vực
có liên quan.
Với tư cách là đổi tượng quản lý, HĐKDDL phải được tổ chức và vận
động trên cở sở các quy định của pháp luật và chịu sự kiểm tra, giám sát của
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Với tư cách là cơ sở và là công cụ để Nhà nước thực hiện sự quản lý,
pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, phải được xâv dựng trên cơ sở
chính xác, đầy đu, thống nhất là những chuẩn mực để đổi tượng quan lý dựa
vào đó vận động, phát triển và để chủ thể quản lý thực hiện sự kiêm tra, giám
sát đối tượng quản lý.
QLNN đối với HĐKDDL là tạo môi trường thông thoáng, ổn định,
định hướng, hỗ trợ, thúc đẩy các HĐKDDL phát triển nhưng có trật tự nhằm
giải quyết hài hòa các lợi ích. Thực hiện kiểm tra, giám sát HĐKDDL nhằm
đảm bảo trật tự, kỷ cương, uốn nắn những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp
luật.
QLNN đối với HĐKDDL là hiện tượng phổ biến đối với tất cả các

nước trên thế giới, chứ không phải chỉ riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ
và yêu cầu quản lý ở mỗi quốc gia có khác nhau và phụ thuộc vào sự phát
triển của từng nước, trước hết là sự phát triển của các điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội cũng như trình độ QLNN và trình độ dân trí của từng quốc
gia.
1.1.4. Vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch
Vai trò QLNN đối với HĐDL không nằm ngoài mục đích hỗ trợ và tạo
điều kiện cho du lịch phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, Nhà nước sử
dụng tất cả các biện pháp có thể để can thiệp vào HĐDL nhằm tạo ra môi
18
trường du lịch lành mạnh, phân bổ nguồn lực một cách tối ưu và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hòa, phù hợp với giá trị
truyền thống và văn hóa của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Mặt
khác, với tính chất là một ngành KT-XH mang lại những hiệu quả tổng hợp,
cũng như các ngành kinh tế khác, du lịch muốn phát triển bền vững không thể
đặt ngoài sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vai trò ỌLNN đối với HĐDL được
thể hiện ở những khía cạnh sau:
1.1.4.1 Vai trò định hướng
- Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động
du lịch, bao gồm các nội dung cơ bản là hoạch định chiến lược, kế hoạch phát
triển du lịch, phân tích và xây dựng các chính sách du lịch, quy hoạch và định
hướng chiến lược phát triển thị trường, xây dựng hệ thống luật pháp có liên
quan tới du lịch. Xác lập các chương trình, dự án cụ thể hóa chiến lược, đặc
biệt là các lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý
cho hoạt động du lịch.
Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phương
hướng hình thành phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúp
tạo lập môi trường kinh doanh, vừa cho phép Nhà nước có thể kiểm soát hoạt

động của các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh du lịch trên thị trường.
1.1.4.2 Vai trò tổ chức và phối hợp
Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về
du lịch, sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, chính
sách, các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ
máy tổ chức để thực hiện những vấn đề thuộc về quản lý nhà nước, nhằm đưa
19
chính sách phù hợp về du lịch vào thực tiễn, biến quy hoạch, kế hoạch thành
hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan quản lý nhà nước về
du lịch với các cấp trong hệ thống tổ chức, quản lý du lịch của trung ương,
tỉnh (thành phố) và quận (huyện, thị xã).
Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng này được thể hiện ở sự phối
hợp giữa các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối
kinh tế, thương mại du lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hóa đa phương thức
quan hệ hợp tác quốc tế trong du lịch, đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực
hiện các cam kết đã ký kết.
Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn
nhân lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, bảo vệ tài
nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong
mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch.
1.1.4.3 Vai trò điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường
Nhà nước là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thuê kinh
doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng, khuyến khích và đảm bảo
bằng pháp luật cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền. Để thực hiện chức
năng này, một mặt, Nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch
hoạt động theo định hướng đã vạch ra, mặt khác, Nhà nước phải can thiệp,
điều tiết thị trường khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Trong hoạt
động kinh doanh du lịch ở nước ta hiện nay, cạnh tranh chưa bình đẳng,
không lành mạnh là một trong những vấn đề gây trở ngại lớn cho quá trình

phát triển ngành. Do vậy, Nhà nước phải có vai trò điều tiết mạnh.
Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều
tiết hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ.
20
1.1.4.4 Vai trò giảm sát
Nhà nước giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng
như chế độ quản lý của các chủ thể đó (về các mặt đăng ký kinh doanh,
phương án sản phẩm, chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, môi trường ô
nhiễm, cơ chế quản lý kinh doanh, nghĩa vụ nộp thuế ), cấp và thu hồi giấy
phép, giấy hoạt động trong hoạt động du lịch.
Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật
và các quy định của Nhà nước, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích
hợp nhằm tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước về hoạt động du lịch.
Nhà nước cũng phải kiểm tra, đánh giá hệ thống tổ chức quản lý du lịch
của Nhà nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà
nước về hoạt động du lịch.
Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn
nhân lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, việc bảo vệ tài
nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong
mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch.
1.2. Phân định nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
du lịch
1.2.1. Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật chung của nhà nước
liên quan đến hoạt động kinh doanh du lịch
Hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật đã khó, nhưng cái khó hơn
là làm thế nào để đưa nó đi vào đời sống thực tế. Bản thân chính sách, pháp
luật đối với nền kinh tế của một đất nước nói chung và trong lĩnh vực du lịch
nói riêng mới chỉ là những quy định của Nhà nước, là ý chí của Nhà nước bắt
mọi chủ thể khác (trong đó có chính bản thân nhà nước) phải thực hiện. Vì
vậy, để chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống các cơ quan nhà nước nói

chung, chính quyền cấp tỉnh nói riêng phải tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh.
21
Chính quyền cấp tỉnh phải tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp
luật về du lịch cho cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân trên địa bàn giúp
họ nhận thức đúng đắn, từ đó có hành động đúng trong hoạt động thực tiễn;
đảm bảo sự tuân thủ, thi hành chính sách, pháp luật về du lịch một cách
nghiêm túc. Mặt khác, chính quyền cấp tỉnh phải tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật du lịch trên địa bàn tỉnh, xử
lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật. Không tùy tiện thay đổi các chính
sách của mình, nhanh chóng xóa bỏ các văn ban cũ trái với các văn bản mới
ban hành, giảm tối đa sự trùng lặp, gây khó khăn cho hoạt động du lịch.
Bên cạnh đó, để phát triển du lịch trên cơ sở khai thác tiềm năng và lợi
thế so sánh của địa phương, chính quyền cấp tỉnh phải tích cực cải thiệncác
chính sách xã hội ở địa phương. Để thực hiện điều này, chính quyền cấp tỉnh
phải sử dụng linh hoạt các công cụ quản lý nhằm hạn chế tình trạng; nâng giá,
độc quyền trong hoạt động kinh doanh du lịch ở địa phương. Du lịch là khâu
đột phá kích thích sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực và cũng là lĩnh vực
tạo ra lợi nhuận cao. Vì vậy, phải có chính sách hợp lý để hướng các doanh
nghiệp sử dụng nguồn lợi nhuận thu được tiếp tục đầu tư cho sự phát triển lâu
dài và bền vững, khai thác hợp lý tiềm năng du lịch sẵn có của địa phương,
nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa có tiềm năng phát triển du lịch để góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân sở tại.
1.2.2. Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển du lịch
Xây dựng và công khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
du lịch là một trong những nội dung quản lý nhà nước có tính quyết định đối
với sự phát triển du lịch trên địa bàn của chính quyền cấp tỉnh. Nó giúp cho
các cá nhân, tổ chức (nhà đầu tư) an tâm khi quyết định đầu tư kinh doanh
vào lĩnh vực du lịch.
22
Trong hoạt động kinh doanh du lịch, mục tiêu cuối cùng của các đơn vị

kinh doanh là lợi nhuận. Do đó, nếu không được định hướng phát triến đúng
sẽ gây ra lãng phí, kém hiệu quả do không phù hợp với nhu cầu thị trường và
thực tế phát triển của địa phương, nhất là các hoạt động đầu tư xây dựng phát
triển kết cấu hạ tầng các khu, điểm du lịch, hoặc đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật như các nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ Vì thế, chính quyền
cấp tỉnh phải hết sức quan tâm đến việc xây dựng và công khai kịp thời các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch của địa phương. Các mục
tiêu, chỉ tiêu trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch phải phù
hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển chung của cả nước. Đáp ứng những
yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới
gắn với tiến trình đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có như vậy, mỗi đơn vị hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch mới có
thể xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển riêng phù hợp với chiến lược và
kế hoạch phát triển chung của địa phương.
1.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh du lịch
và quản lý các doanh nghiệp nhà nước, địa phương hoạt động kinh doanh
du lịch.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
vai trò của kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng
trong việc chi phối hoạt động của thị trường, dẫn dắt các thành phần kinh tế
khác đã được thực tế khẳng định và nó càng trở nên quan trọng. Cùng với
việc sử dụng và phát huy khả năng điều tiết, chi phối của kinh tế nhà nước,
chính quyền cấp tỉnh cần phải quan tâm đến chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn. Trước hết phải hoàn thành lộ
trình đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực
du lịch do địa phương quản lý, theo hướng từng bước trở thành các doanh
23
nghiệp kinh doanh hiện đại, có sự liên kết với mạng lưới các hộ kinh doanh cá
thể, có khả năng mở rộng các hoạt động du lịch liên vùng, khu vực và kinh
doanh lữ hành quốc tế. Mặt khác, cần có chương trình hỗ trợ cho các doanh

nghiệp du lịch nhà nước với nhiều hình thức như đầu tư vốn thông qua góp
vốn cổ phần của các công ty nhà nước, tăng cường cán bộ có năng lực, hỗ trợ
một phần kinh phí quảng bá thương hiệu, xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch và
đào tạo cán bộ quản lý
1.2.4. Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nhân lực cho hoạt động kinh doanh
du lịch
Cũng như trong các lĩnh vực, ngành nghề khác, chất lượng nguồn nhân
lực trong hoạt động du lịch cũng ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của
lĩnh vực này. Bởi vì, từ cạnh tranh toàn cầu, cạnh - tranh giữa các quốc gia,
các ngành, các doanh nghiệp cho đến cạnh tranh từng sản phẩm suy cho cùng
là cạnh tranh bằng trí tuệ của nhà quản lý và chất lượng của nguồn nhân lực.
Để hoạt động du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương phát triển,
việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực
cho hoạt động du lịch cần được quan tâm thực hiện thường xuyên. Đặc biệt,
những địa phương có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch cần phải có chiến
lược, kế hoạch phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có như vậy
mới khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch góp phần thúc đẩy nhanh sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
1.2.5. Thanh tra và xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh du lịch
Sự phát triển nhanh của du lịch sẽ làm phát sinh các hành vi tiêu cực
như khai thác quá mức các công trình, khu, điểm du lịch, làm ô nhiễm môi
trường sinh thái, những hoạt động kinh doanh du lịch trái với bản sắc văn hóa
của đất nước, của địa phương Do đó, chính quyền cấp tỉnh phải chỉ đạo thực
hiện thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với hoạt động
24
du lịch để phòng ngừa hoặc ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực có thể
xảy ra. Để thực hiện tốt nội dung này, chính quyền cấp tỉnh cần làm tốt công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và những quy định của tỉnh về
đầu tư khai thác các khu, điểm du lịch trên địa bàn; thực hiện việc đăng ký và
hoạt động theo đăng ký kinh doanh, nhất là những hoạt động kinh doanh có

điều kiện như: kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành, …; đồng thời cần xử
lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về du lịch trên địa bàn.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh du lịch
1.3.1 Các yếu tố môi trường bên ngoài
1.3.1.1. Các đối thủ cạnh tranh
Đây là một áp lực thường xuyên và đe dọa trực tiếp các công ty,
khi áp lực cạnh tranh giữa các công ty ngày càng tăng lên thì càng đe dọa
về vị trí và sự tồn tại của các công ty. Mức độ cạnh tranh càng cao, giá
cạnh tranh ngày càng giảm kéo theo lợi nhuận giảm.
Tính chất và cường độ của cuộc cạnh tranh giữa các công ty phụ
thuộc vào các yếu tố: các đối thủ cạnh tranh đông đảo hoặc có qui mô
gần như tương đương nhau, tốc độ tăng trưởng của ngành, chi phí cố
định và chi phí lưu kho cao, sự thiếu vắng tính khác biệt của sản phẩm
và về chi phí biến đổi, các rào cản rút lui, mối quan hệ giữa các rào cản
xâm nhập và rút lui …
1.3.1.2. Chính sách của nhà nước
Các yếu tố chính phủ có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động
của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tuân theo các qui định về thuê
mướn, cho vay, an toàn, vật giá, quảng cáo, nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi
trường.
Đồng thời hoạt động của chính phủ cũng có thể tạo ra cơ hội hoặc
25

×