Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

thừa kế theo di chúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.93 KB, 19 trang )

Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Danh sách nhóm 1
1. Vũ Đại Hải.
2. Phạm Thị Cẩm Châu.
3. Vũ Thị Lý.
4. Nguyễn Sao Mai.
5. Triệu Thanh Phượng.
6. La Thị Hằng.
7. Trần Phan Kiều Loan.
8. Đào Thị Quỳnh Nga.
9. Hà Thị Thùy.
10. Lê Thị Khánh Ly
1
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
BỐ CỤC
I.Khái quát chung.
1. Khái quát thừa kế.
2. Quyền thừa kế.
3. Các nguyên tắc.
4.Chủ thể.
5. Các hình thức thừa kế.
II. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc.
1. Khái niệm di chúc.
2. Thừa kế theo di chúc.
III.Chủ thể của quan hệ thừa kế theo di chúc.
1.Người để lại di sản.
2. Người thừa kế.
3. Người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
4. Di sản không co người thừa kế thuộc nhà nước.
IV. Di sản thừa kế.
1. Tài sản riêng của người chết


2. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
3. Di sản dành cho việc thờ cúng
4. Di tặng.
V. Di chúc chung của vợ chồng.
VI. Điều kiện có hiệu lực của di chúc.
1. Điều kiện về chủ thể.
2. Điều kiện về nội dung của di chúc.
3. Điều kiện về hình thức của di chúc.
VII. Thời điểm có hiệu lực của di chúc, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
1. Thời điểm có hiệu lực của di chúc.
2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
VIII. Công bố và giải thịch di chúc.
1.Công bố di chúc.
2.Giải thích di chúc.
I.KHÁI QUÁT CHUNG.
2
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
1. Khái niệm thừa kế.
Ta có thể xét thừa ké dưới các góc độ sau:
Dưới khía cạnh xã hội: việc người chết để lại tài sản cho người còn sống lo cuộc
sống và nối tiếp thế hệ sau là một quy luật tồn tại từ bao đời này, vì vậy việc pháp luật cụ thể
hóa thừa kế thành một chương trong BLDS là phù hợp với đời sống xã hội.
Dưới khía cạnh kinh tế: Thừa kế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ
khai của xã hội, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu vì thế thừa kế là một phạm trù kinh tế
tồn tại ở bất kỳ xã hội nào kể cả khi xã hội chưa có nhà nước và pháp luật.
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự: trong đó các chủ thể có những
quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền
định đoạt tài sản của mình cho người khác. Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận
hoặc không nhận di sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác).
Thừa kế dưới góc độ là một chế định pháp luật dân sự: là tổng hợp các quy phạm

pháp luật, điều chỉnh về việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc
hoặc theo một trình tự nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức
bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
2. Quyền thừa kế.
Quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định
trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống.
3. Các nguyên tắc.
Nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người có tài sản, người hưởng di sản.
Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của cá nhân.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế.
Củng cố, giữ vững tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình.
4. Chủ thể.
Bao gồm: người để lại di sản và người thừa kế.
5. Các hình thức thừa kế.
Có hai hình thức thừa kế đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
II. KHÁI NIỆM DI CHÚC VÀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC.
3
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
1. Khái niệm di chúc.
Theo Điều 646 BLDS 2005 quy định: “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết ”.
Đặc điểm của di chúc:
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là bất kỳ chủ thể nào khác.
Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm chuyển dịch tài
sản cho người khác sau khi người lập di chúc chết.
Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc
chết.
Di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó phải tuân
thủ các điều kiện của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện của di chúc nói riêng.
2. Thừa kế theo di chúc.

Được hiểu là việc chuyển giao tài sản theo ý chí của người để lại di sản thừa kế. Nội
dung cơ bản của hành vi này là xác định rõ người thừa kế, các điều kiện và phân chia di
sản.
III. CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ THỪA KẾ THEO DI CHÚC.
1. Người lập di chúc.
a, Khái niệm
Là người mà theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định đoạt khối tài
sản của mình cho người khác sau khi chết với ý chí hoàn toàn tự nguyện
b, Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc là cá nhân có các quyền sau đây:
Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế (khoản 1
điều 648).
Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức, cơ quan
Nhà nước nào.
Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có thể
truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật (cha, mẹ, vợ, chồng, con cái )
mà không nhất thiết phải nêu lí do. Người lập di chúc có thể truất quyền hưởng di sản
thừa kể của mình đối với một hay nhiều người.
4
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Phân định phần di sản cho từng người thừa kế (khoản 2 điều 648).
Trong trường hợp có nhiều người cùng được thừa kế, người lập di chúc có quyền
phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết là phải ngang nhau và cũng không phải
nêu lí do. Nếu không phân định di sản trong di chúc thì di sản được chia đều cho những
người được chỉ định trong di chúc.
Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng (khoản 3 điều
648).
Giao nghĩa vụ cho người thừa kế (khoản 4 điều 648).
Đây là điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995. Quyền của người lập di chúc
không bị bó hẹp trong quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản nữa,

mà người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ như chăm sóc ông bà, bố mẹ…hoặc có thể
thanh toán nghĩa vụ về tài sản cho mình vượt quá phần tài sản có của người lập di chúc để
lại và được người thừa kế đồng ý.
Trong trường hợp người lập di chúc giao nghĩa vụ cho một người mà không cho họ
hưởng di sản thì không bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người phân chia di sản (khoản
5 điều 648).
Người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người
phân chia di sản. Việc chỉ định hoàn toàn theo ý chí tự nguyện của người lập di chúc. Tuy
nhiên việc thực hiện hay không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của người được chỉ định.
Đây không phải là nghĩa vụ pháp lí mà nó là biểu hiện tinh thần tự nguyện, giúp đỡ người
khác.
Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc (điều 662).
+ Sửa đổi di chúc : là việc người lập di chúc thay thế một phần quyết định cũ của
mình đối với các phần trong bản di chúc đã lập trước đó.
+ Bổ sung di chúc: Người lập di chúc có quyền bổ sung vào nội dung của di chúc
những quyết định mới của mình như việc thêm người thừa kế, người giữ di chúc, người
quản lí di sản…
5
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
+ Thay thế di chúc: Là việc người để lại di sản lập di chúc khác thay thế cho di chúc
cũ vì họ cho rằng những quyết định trong di chúc cũ không còn phù hợp với ý chí của họ
nữa.
+ Hủy bỏ di chúc: Là việc người để lại thừa kế từ bỏ di chúc của mình bằng cách
không công nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trong trường hợp này được coi là
không có di chúc.
Việc hủy bỏ di chúc có thể được thực hiện dưới các hình thức sau:
Người lập di chúc tự tiêu hủy tất cả di chúc đã lập.
Người lập di chúc lập một di chúc khác tuyên bố hủy di chúc đã lập.
2. Người thừa kế .

Theo quy định tại điều 635 – BLDS 2005 cho thấy người thừa kế theo di chúc có thể
là cá nhân hay tổ chức , cơ quan , nhà nước .
Người nhận di sản thừa kế là những người có quyền nhận di sản do người chết để lại
theo sự định đoạt trong di chúc, phải đảm bảo những điều kiện sau đây :
Đối với cá nhân :
Thứ nhất, cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Thứ hai, nếu là thai nhi sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế thì phải thành
thai trước khi người để lại di sản chết.
Thứ ba, người thừa kế không thuộc trường hợp “ không được hưởng quyền di sản”
theo khoản 1 điều 643 BLDS 2005.
Đối với “ người ’’ thừa kế là cơ quan , tổ chức :
Điều kiện bắt buộc là cơ quan , tổ chức đó phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế .
Trong trường hợp cơ quan , tổ chức được người để lại di sản chỉ định trong di chúc
là người thừa kế mà không tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì sẽ không được hưởng di
sản .
Từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ sau đây :
Quyền của người thừa kế ( điều 642 BLDS 2005 ) :
Có quyền nhận di sản thừa kế.
Có quyền từ chối nhận di sản , trừ trường hợp việc từ chối này nhằm để trốn tránh
nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác .
6
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản , người từ chối phải báo cho
những người thừa kế khác , người được giao nhiệm vụ phân chia tài sản . Công chứng nhà
nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường , thị trấn nơi mở thừa kế về việc từ chối nhận di
sản . Người thừa kế có nghĩa vụ liên quan đến di sản thừa kế ( bảo quản , sửa chữa ) và
các nghĩa vụ khác , cho nên pháp luật quy định thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể
từ ngày mở thừa kế . Sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế , nếu không từ chối nhận di sản
thì được coi là đồng ý nhận thừa kế .
Nghĩa vụ của người thừa kế ( điều 637 BLDS 2005 ) :

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại , trừ trường hợp có thỏa thuận khác
Việc thực hiện những nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại được tiến hành như
sau :
Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế .
Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận ,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác .
Trong trường hợp Nhà nước , cơ quan , tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân .
3. Người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Điều 669 BLDS 2005 quy định: “ Những người sau đây vẫn được hưởng phần di
sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo
pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ
cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận
di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản
theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng.
Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Nội dung của quy định này được hiểu là: Xét về nguyên tắc thì người hưởng di sản
không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ không được hưởng một phần di sản nào. Nhưng
7
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
pháp luật cho phép họ hưởng hai phần ba của một suất mà đáng lẽ ra họ được hưởng trong
điều kiện bình thường. Một suất thừa kế ở đây được tính bằng tổng di sản chia cho số
người ở hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ vào đó để xác định hai phần ba của một suất thừa
kế theo pháp luật.
Quy định này bảo vệ quyền được hưởng thừa kế của một số đối tượng trước những
quyết định bất lợi của người để lại di sản đối với họ. Tuy nhiên nó lại nằm ngoài dự định

của người để lại di sản và ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế khác
4. Di sản không có người thừa kế thuộc Nhà nước.
Có hai trường hợp để Nhà nước đứng ra nhận di sản thừa kế của một cá nhân:
TH1: Người có tài sản lập di chúc để lại di sản cho Nhà nước.
Trong trường hợp này, Nhà nước chính là người thừa kế theo di chúc
TH2: Di sản không có người nhận thừa kế.
Điều 644 BLDS 2005: Tài sản không có người nhận thuộc Nhà nước “Trong trường
hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về
tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước”
Theo quy định này thì di sản đó sẽ thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước là đại diện chủ
sở hữu đối với phần di sản đó. Điều luật cũng xác định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan
Nhà nước khi nhận di sản không người thừa kế: phải thực hiện nghĩa vụ do người chết để
lại.
IV. DI SẢN THỪA KẾ.
Dưới góc độ của khoa học luật Dân sự có thể hiểu di sản thừa kế là toàn bộ tài sản
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người chết để lại, là đối tượng của quan hệ pháp luật
liên quan đến việc dịch chuyển tài sản của người đó sang cho những người hưởng thừa kế
được nhà nước thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Theo Điều 634 BLDS 2005: “ Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong phần tài sản chung với người khác”.
Các quyền về tài sản mà người chết để lại: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền. Các quyền này thường phát sinh từ các giao dịch dân sự mà khi còn sống người để
lại di sản tham gia. Ví dụ: quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm hợp
8
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
đồng, quyền đòi bồi thường thiệt hại do gây thiệt hại, quyền được hưởng các lợi ích phát
sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng đất cũng được xác định
là di sản thừa kế.
Tuy nhiên những quyền tài sản trong tương lai nhưng lại gắn liền với nhân thân

người chết không phải là di sản. Ví dụ: tiền lương hưu, tiền trợ cấp thương tật, tiền cấp
dưỡng…
1. Tài sản riêng của người chết.
Tài sản riêng của người chết được hiểu là tài sản thuộc quyền sở hữu của riêng
người để lại di sản, người để lại di sản có toàn quyền trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt những tài sản đó mà không chịu sự chi phối hay sự ràng buộc nào với chủ thể khác.
Trong quan hệ vợ chồng, tài sản riêng của vợ , chồng bao gồm: tài sản mà mỗi người
có trước thời kì kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn
nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong thời kì hôn nhân, đồ dùng, tư trang cá
nhân.
2. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
a) Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung hợp nhất.
Tại Khoản 1 Điều 217 BLDS 2005: “Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà
trong đó phần sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung.”
Theo Điều 27 Luật Hồn nhân và Gia đình 2000, tài sản chung của vợ chồng là tài
sản chung hợp nhất, bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản
khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Trong trường hợp gia đình có con trưởng thành có thu nhập theo nghề nghiệp, được
tặng cho hoặc được thừa kế và có đóng góp công sức, tiền của vào việc duy trì, phát triển
khối tài san chung của gia đình thì họ cũng có quyền sở hữu đối với tài sản chung của gia
đình. Khi người này chết đi, phần tài sản của họ trong khối tài sản chung với gia đình là di
sản thừa kế của họ.
b) Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung theo phần.
9
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Khoản 1 Điều 216 BLDS 2005: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong
đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”.
Khi một trong các đồng chủ sở hữu chết thì phần tài sản thuộc sở hữu của người đó

trong khối tài sản chung (cộng với hoa lợi, lợi tức nếu có) sẽ là di sản thừa kế của người
này.
3. Di sản dành vào việc thờ cúng.
Điều này được quy định taị điều 670 BLDS 2005, chúng ta thấy trong trường hợp
người lập di chúc có để lại phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không
được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để
thực hiện việc thờ cúng
Nếu người được giao quản lý di sản thờ cúng không thực hiện đúng di chúc hoặc
không theo thỏa thuận của người thừa kế thì được giao một phần di sản thờ cúng cho
người khác.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lí di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử một người quản lí di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lí hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Di sản thờ cúng chỉ được đem ra thanh toán nợ của người chết trong trường hợp toàn
bộ di sản của người chết không đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản của người đó.
Di sản thờ cúng có thể bị cắt giảm do sự có mặt của người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc. Vì những người này theo quy định tại điều 699 BLDS 2005 họ
được bảo đảm hưởng kỷ phần 2/3 suất của người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp
toàn bộ di sản được chia theo pháp luật chứ không phải chia trên phần còn lại sau khi đã
trừ đi một phần di sản dành cho thờ cúng. Di sản thờ cúng cũng có thể bị cắt giảm nếu
người lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản thừa kế dành cho thờ cúng. Vì người lập di
chúc chỉ được quyền trích một phần di sản vào thờ cúng.
4. Di tặng.
Theo điều 674 BLDS 2005 quy định:
10
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc
di tặng phải ghi rõ trong di chúc

Người được tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng,
trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người di tặng,
thì phần di tặng cũng đưuọc sử dụng để thực hiện nghĩa vụ còn lại của người này.
Di tặng và hợp đồng tặng cho giống nhau đều là sự chuyển quyền sở hữu tài sản của
mình cho bên kia mà không cần đền bù. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt giữa di tặng và
hợp đồng tặng cho. Nếu hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của của cả
người tặng và người nhận, các chủ thể của hợp đồng phải còn sống và thể hiện ý chí của
mình trong hợp đồng. Còn trong di tặng lại khác, di tặng chỉ là hành vi pháp lý đơn
phương của người lập di chúc nhằm định đoạt tài sản của mình cho người khác. Di tặng
chỉ có hiệu lực khi di chúc có hiệu lực tức khi người lập di chúc chết và tại thời điểm đó
người được nhận di tặng còn sống. Và lúc nạy người được di tặng mới được thể hiện ý chí
của mình là nhận hay từ chối không nhận di sản.
Tài sản dùng để di tặng thì đó là một phần di sản hay một hiện vật hoặc một số hiện
vật trong khối tài sản người chết để lại. Đặc điểm quan trọng của di tặng là không phải
chụi bất cứ nghĩa vụ nào của người để lại di sản. Đây cũng là điểm phân biệt cơ bản của di
tặng với người thừa kế. Người di tặng có thể di tặng toàn bộ hay một phần tài sản của
mình.
Người được di tặng có thể là bất kỳ ai, có thể là cá nhân, tổ chức hay pháp nhân.cá
nhân có thể thuộc diện thừa kế hoặc là một người bất kỳ. họ tên của người được di tặng và
vật tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
V. DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG.
Quyền lập di chúc chung của vợ, chồng
Di chúc chung của vợ, chồng là loại di chúc đặc biệt xác lập do hai người có tài sản
chung hợp nhất, cùng định đoạt chung. Điều này được quy định trong BLDS 2005 tại điều
663: “ vợ. chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”
Và được quy định tại điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Trên cơ sở xác
định tài sản chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất thì việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung thông thường dựa trên sự nhất trí của vợ, chồng. Do đó, vợ chồng có thể
11
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc

lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên việc lập di chúc cũng phải dựa trên
cơ sở tự nguyện, thống nhất ý chí của cả vợ và chồng nếu vợ chồng không thống nhất được ý
chí chung thì họ vẫn có thể lập di chúc riêng. Mỗi người được lập di chúc để định đoạt một
nửa khối tài sản chung và những tài sản thuộc sở hữu riêng của người đó.
Việc pháp luật thừa nhận vợ, chồng có quyền lập di chúc đã phần nào củng cố tình
yêu và đoàn kết trong gia đình.
Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ,chồng( điều 664
BLDS 2005)
Vợ chồng khi đã thống nhất ý chí lập di chúc chung thì họ cũng có thể sửa đổi, bổ
sung,thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. Điều này đưuọc quy định tại điều 664
BLDS 2005.
Nếu vợ chồng muốn thay thế, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc thì phải được sự đồng
ý của người kia và nếu chồng hoặc vợ chết trước thì người còn sống chỉ được sửa đổi, bổ
sung di chúc liên quan tới phần di sản của mình. Quy định này tạo ra sự thống nhất cao
cho việc lập di chúc chung, cũng như việc sửa đổi bổ sung di chúc chung. Nếu một bên
muốn sửa đổi mà bên kia không đồng ý thì cũng không được quyền thay đổi. điều này làm
ảnh hưởng tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình. Mặt khác bản thân quy định này cũng chứa đựng sự mâu thuẫn. Quy định này
không cho phép một bên có quyền sửa đổi, bổ sung, di chúc chung khi chưa được bên kia
đồng ý, nhưng lại cho phép họ có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi một bên đã
chết. Người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần di sản của mình.
VI. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC.
1. Điều kiện về chủ thể.
Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự: Là người đã thành niên ( tròn
18 tuổi trở lên) và hoàn toàn có khả năng nhận thức vào thời điểm lập di chúc. Tuy
nhiên,BLDS cũng quy định người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, người lập di chúc có
thể lập di chúc nhưng với điều kiện phải được cha mẹ hoặc người dám hộ đồng ý.
Ý chí của người lập di chúc: Đây là một trong những điều kiện nhằm đảm bảo di
chúc thể hiện đúng ý nguyện, sự định đoạt, quyết định của người lập di chúc về việc dịch
chuyển tài sản của họ sau khi chết.

12
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Theo đó, người lập di chúc phải tự nguyện lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa
hoặc cưỡng ép.
2. Điều kiện về nội dung của di chúc.
Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo
đức xã hội, tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại Điều 8, Điều 10, Điều 11 BLDS về
tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đep tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích của người khác và nguyên tắc tuân thủ pháp luật.
Theo Điều 653 BLDS 2005:
1.Di chúc phải ghi rõ:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc
- Họ, tên, nơi cư trú của người lập di chúc;
- Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá
nhân, tổ chức được hưởng di sản;
- Di sản để lại và nơi có di sản;
- Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ;
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì
mỗi trang phải đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
3. Điều kiện về hình thức của di chúc.
Theo qui định tại Điều 649 BLDS: “Di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không
thể lập thành văn bản thì có thể di chúc miệng”.
Về ngôn ngữ của di chúc, thông thường được lập bằng tiếng phổ thông ( tiếng kinh)
tuy nhiên “người thuộc dân tộc thiểu số ở nước ta có quyền lập di chúc bằng tiếng nói và
chữ viết của dân tộc mình” ( Điều 649 BLDS) . Ngoài ra, cá nhân mang quốc tịch Việt
Nam không nói và viết được Tiếng Việt thì có thể lập di chúc bằng tiếng nước ngoài.
Người lập di chúc có thể sử dụng tiếng nói và chữ viết mà mình biết do đó trong trường
hợp này di chúc vẫn được công nhận.
Như vậy về hình thức, di chúc có thể tồn tại ở hình thức di chúc miệng hoặc di chúc
bằng văn bản. Cụ thể:

Di chúc bằng văn bản:
Điều 650 quy định di chúc bằng văn bản gồm 4 loại:
13
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (điều 655): cũng có giá
trị pháp lý nếu nội dung của di chúc tuân theo quy định tại điều 653 BLDS. Di chúc này
phải do chính người lập di chúc tự tay viết và kí.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 656): là trường hợp người
lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết và có ít nhất
hai người làm chứng. Người làm chứng phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự,
từ đủ 18 tuổi trở lên. Người thừa kế theo di chúc, người thừa kế theo pháp luật của người
lập di chúc cũng không được làm người làm chứng. Ngoài ra, người làm chứng không
phải là những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tới nội dung của di chúc như con
nợ, chủ nợ
Di chúc có công chứng và chứng thực (điều 657): là việc người lập di chúc
có thể yêu cầu công chứng viên, Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực vào bản di chúc do
mình lập ra. Người lập di chúc phải tự mình mang bản di chúc đến cơ quan có thẩm quyền
công chứng, chứng thực. mà không được ủy quyền cho người khác đi công chứng. Trong
trường hợp di chúc được lập tại cơ quan công chứng hoặc UBND cấp xã thủ tục đã được
quy định tại điều 658 BLDS. Trong một số trường hợp, Công chứng viên và người có
thẩm quyền của UBND cấp xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực di
chúc theo qui định tại điều 659 BLDS.
Ngoài ra, một số trường hợp đặc biệt di chúc không thể đem công chứng, chứng
thực (điều 660) thì không cần công chứng viên hoặc người có thẩm quyền của UBND cấp
xã công chứng, chứng thực, di chúc vẫn có giá trị (quân nhân tại ngũ; người đang đi trên
máy bay, tàu biển…)Những di chúc này chỉ cần có chữ kí của người phụ trách cơ sở nơi
người đó đang có mặt.
Di chúc miệng
Di chúc miệng là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn
sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người khác sau khi chết.

Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên
nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai
người làm chứng (người làm chứng phải thoả mãn quy định tại điều 654 BLDS) và ngay
14
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
sau đó người làm chứng ghi chép lại một cách trung thực, sau đó đọc cho người lập di
chúc nghe và kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc thể
hiện ý chí cuối cùng thì bản di chúc phải được đem công chứng hoặc chứng thực theo
trình tự thủ tục.
Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn,
sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ. (khoản 2 Điều 651). Vấn đề đặt ra ở đây
là theo quy định tại khoản 2 điều 651 BLDS ở trên, pháp luật chỉ quy định trường hợp quá
thời hạn ba tháng nếu người còn sống minh mẫn mà không qui định trường hợp người đó
sống quá ba tháng và không còn minh mẫn, sáng suốt. Tuy nhiên có thể hiểu rằng quá thời
hạn ba tháng mà người đó không còn minh mẫn, sang suốt thì di chúc vẫn có hiệu lực
pháp luật. Điều này nhằm đảm bảo sự thể hiện ý chí của người lập di chúc.
VII. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC, THỜI HIỆU KHỞI
KIỆN VỀ QUYỀN THỪA KẾ
.
1.Thời điểm có hiệu lực của di chúc.
Theo điều 667 BLDS 2005 quy định:
“ Di chúc có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm mở thừa kế ”.
Theo quy định tại khoản 1 Điểu 633 BLDS thì thời điểm mở thưà kế là thời điểm người
có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở
thừa kế là ngày được xác định theo quy định tại khoản 2 điều 81 BLDS.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế là rất quan trọng. Kể từ thời điềm đó, xác định
được chính xác tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế.
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác
định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di

sản (khoản 2 Điều 633 BLDS). Địa điểm mở thừa kế được xác định theo đơn vị hành
chính cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn)
Theo Điều 668 BLDS 2005 quy định: Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ
chồng. “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc
tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.”
Quy định như vậy nhằm bảo vệ quyền lợi của người chồng hoặc vợ còn sống, đảm bảo
cho họ sử dụng tài sản chung có hiệu quả.
15
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Điều 667 BLDS 2005 di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần
trong các trường hợp sau:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm
mở thừa kế.
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định
hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có
liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.
Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn
vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần
di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các
phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với 1 tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng
có hiệu lực Pháp luật.”
2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
Theo Điều 645 BLDS quy định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia
di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là
mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Có hai trường hợp không tính thời hiệu:
Thứ nhất là trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các
đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng
thừa kế thì tài sản thành di sản chung. Khi xảy ra tranh chấp thì không tính thời hiệu và
tòa sẽ tiến hành chia tài sản theo di chúc hoặc chia theo thỏa thuận của các đồng thừa kế.
16
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Thứ hai là di sản người chết để lại nhưng do người ngoài quản lý, còn các
thừa kế không quản lý, không biết gì về di sản. Thực tế có những trường hợp do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà sau một thời gian dài đương sự mới phát hiện đó là tài sản của
cha mẹ và chưa chia, nay họ muốn đòi lại thì không tính thời hiệu khởi kiện.
Mốc để tính thời hiệu khởi kiện về thừa kế còn hay hết là vào lúc đương sự có đơn khởi
kiện tại tòa án chứ không phải từ thời điểm thụ lý như một số tòa vẫn áp dụng. Khi giải
quyết, tòa chỉ phân chia theo yêu cầu của các bên đương sự đối với phần di sản còn thời
hiệu khởi kiện, phần di sản hết thời hiệu thì không “đụng” tới.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế có yếu tố nước ngoài: Theo điều 777 Bộ luật dân sự
2005: "Thời hiệu khởi kiện đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước mà pháp luật nước đó được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài tương ứng". Vậy nên ta cần xác định thẩm quyền xét xử với vụ án
thừa kế đó mới có thể biết thời hiệu.
VIII. CÔNG BỐ VÀ GIẢI THÍCH DI CHÚC.
1. Công bố di chúc
Theo quy định tại điều 665 và điều 672 BLDS 2005 thì người lập di chúc có thể yêu cầu
cơ quan công chứng lưu giữ di chúc hoặc nhờ người khác giữ bản di chúc. Thông thường
người giữ di chúc là người được chỉ định công bố di chúc. Nếu di chúc bằng văn bản được
lưu giữ tại cơ quan công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc. Trong trường
hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố
di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định

từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận người công bố di chúc.
Trong trường hợp người để lại di chúc mất đã lâu mà không có người công bố di chúc
hoặc không tìm thấy di chúc, không biết di chúc do ai lưu giữ thì giải quyết theo điều 666
BLDS. Theo điều luật này, “ kể từ thời điểm thừa kê, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư
hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng
chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có
di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp di sản chưa
chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được thừa kế theo di chúc.”
17
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những
người có liên quan đến nội dung di chúc.Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu
đối chiếu với bản gốc của di chúc.
Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được
dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng.
2. Giải thích nội dung di chúc ( quy định tại điều 673 BLDS)
Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì
nguời công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung của di
chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của
người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu
nội dung di chúc thì coi như không có di trúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định
về thừa kế theo pháp luật.
Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh
hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ những phần không giải thích được không có
hiệu lực.
18
Nhóm 1_ Thừa kế theo di chúc
19

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×