Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Quản trị và nâng cao hiệu quản sử dụng vốn lưu động tại Công ty Hoá sinh và phát triển công nghệ mới VIHITESCO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 89 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh đó là lợi
nhuận. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau quyết định và chi phối mục tiêu đó.
Vốn kinh doanh và cách thức quản lý, sử dụng vốn kinh doanh cũng chính là một
trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công đối với bất kỳ tập đoàn,
hãng, doanh nghiệp nào khi tham gia thương trường.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh luôn diễn ra quyết liệt giữa các doanh
nghiệp, nó đặt các doanh nghiệp luôn phải đứng trước các yêu cầu như cải tiến
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao uy tín trên thị trường Vì
vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh
được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp.
Việc sử dụng vốn lưu động hợp lý sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng, tăng khả năng cạnh tranh và lợi nhuận của Công ty. Do vậy, nhiệm vụ đặt
ra đối với mỗi doanh nghiệp là:
• Làm thế nào để huy động được đầy đủ nguồn vốn phục vụ kinh doanh
một cách nhanh chóng nhất?
• Vốn kinh doanh được sử dụng như thế nào cho hiệu quả nhất?
Không chỉ nhận thức được tầm quan trọng của vốn kinh doanh đối với
doanh nghiệp, mà với niềm yêu thích muốn khám phá tìm hiểu về lĩnh vực này
em đã lùa chọn đề tài “Quản trị và nâng cao hiệu quản sử dụng vốn lưu động
tại Công ty Hoá sinh và phát triển công nghệ mới VIHITESCO ” với mục đích
tăng thêm sự hiểu biết về hoạt động quản trị tài chính của một doanh nghiệp,
nắm bắt được các vấn đề thực tiễn và tìm kiếm các giải pháp có tính tham khảo
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty.
Phương pháp luận mà em sử dụng trong quá trình xây dựng khoá luận là
vận dụng kiến thức đã học kết hợp với tài liệu sách báo để tìm hiều thực tiễn về
vấn đề sử dụng vốn lưu động của Công ty VIHITESCO, từ đó phân tích, luận
giải vấn đề nhằm tìm kiếm giải pháp thích hợp.
Trong phạm vi luận văn tốt nghiệp này em xin được trình bày các nội dung
sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vốn lưu động và việc nâng


cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về quản lý sử dụng vốn lưu động tại Công ty
Hoá sinh và phát triển công nghệ mới VIHITESCO.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty Hoá sinh và phát triển công nghệ
mới VIHITESCO.
Mặc dù đã hết sức cố gắng song do trình độ lý luận và nhận thức thực tế có
hạn nên bài viết của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế.
Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ
phòng tài chính kế toán của Công ty VIHITESCO và các bạn để bài viết của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Th.s Đặng Hải Lý- Trường Đại học Công Đoàn,
ban lãnh đạo và các anh chị phòng tài chính kế toán của Công ty VIHITESCO đã
giúp đỡ, tạo điều kiện giúp em hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp này.
CHƯƠNG1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ VIỆC NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG.
1.1.1 Khái niệm, nội dung vật chất vốn lưu động.
Trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp là một tổ chức được thành
lập nhằm mục đích chủ yếu là hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tiến hành bất
kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần có một lượng vốn nhất định,
trong đó vốn lưu động chiếm một vị trí khá quan trọng.Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, vốn lưu động là điều kiện cần thiết có ý nghĩa quyết định đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Với vai trò và tầm quan trọng
như vậy, việc nghiên cứu phải bắt đầu từ việc làm rõ khái niệm cơ bản của vốn
lưu động.
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động các doanh nghiệp
cần có các đối tượng lao động. Khác với tư liệu lao động, các đối tương lao động
như : Nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm chỉ tham gia vào một chu kỳ sản

xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển
dịch toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm.
Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là
tài sản lưu động, còn nếu xét về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của
doanh nghiệp.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm của vốn lưu động
luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động.Trong các doanh
nghiệp người ta thường chia tài sản lưu động của doanh nghiệp thành hai loại:Tài
sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông.Tài sản lưu động sản xuất
bao gồm: Các nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản
phẩm dở dang đang trong quá trình dự trữ xuất hoặc chờ tiêu thụ, các loại vốn
bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi
phí trả trước Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động sản xuất
và tài sản lưu động lưu thông vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm
bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Trong điều kiện nền kinh tế hạng hoá- tiền tệ, để hình thành các tài sản lưu
động sản xuất và tài sản lưu thông các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu
tư ban đầu nhất định. Vì vậy cũng có thể nói vốn lưu động của doanh nghiệp là
số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm các tài sản lưu động của doanh
nghiệp. Vốn lưu động thuần của doanh nghiệp được xác định bằng tổng giá trị tài
sản lưu động của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ ngắn hạn.
Phù hợp với các đặc điểm trên của tài sản lưu động, vốn lưu động của
doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh
doanh:Dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông.Quá trình này được diễn ra liên tục
và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu
chuyển của cốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của quá trình kinh doanh vốn lưu
động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển
sang vốn vật tư hàng hoádự trữ và vốn sản xuất, và cuối cùng lại trở về hình thái
vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu
chuyển.

Từ những tổng quan chung về vốn lưu động ta đi đến khái niệm về vốn lưu
động như sau: Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền giá trị của toàn bộ tài sản
lưu động trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn kinh doanh được
dùng để đầu tư mua sắm hàng hoá khác, nguyên vật liệu nhằm phục vụ cho mục
đích kinh doanh kiếm lời của doanh nghiệp. Hàng hoá, nguyên vật liệu mang về
được dự trữ tại doanh nghiệp để phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu thụ ngay.Do
vậy, tốc độ hay vòng quay của vốn lưu động gắn liền với tốc độ, sự vận động của
đơn vị hàng hoá.
Tóm lại, vốn lưu động là một bộ phận của vốn kinh doanh, là số tiền ứng
trước của tài sản lưu động cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
thực hiện các chức năng, mục đích của doanh nghiệp.
1.1.2 Đặc điểm của vốn lưu động.
Vốn lưu động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình
sản xuất đó vốn lưu động bị hao mòn hoàn toàn, giá trị hao mòn đó bị chuyển hết
một lần vào giá trị sản phẩm để cấu thành nên giá trị sản phẩm.
Trong từng giai đoạn của quá trình sản xuất vốn lưu động thường xuyên
thay đổi hình thái vật chất cho phù hợp với đặc điểm của từng giai đoạn sản xuất.
Mỗi hình thái vật chất của vốn đòi hỏi phải có một hình thức quản lý riêng
phù hợp.
Ta có quá trình sản xuất kinh doanh:
T
0
DT
2
SX TP
2
T
1
ở đây T

0
, T
1
là giống nhau(đều là tiền), nhưung khác nhau ở chỗ:
∆T< 0(lỗ)
T
1
= T
0
+∆T ∆T = 0 (hoà vốn)
∆T > 0(lãi)
Trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để
đạt được(T
0
> T
1
)
1.1.3. Phân loại vốn lưu động.
Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại
vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có
những tiêu thức sau đây:
1.1.3.1 Phân loại theo vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình
sản xuất kinh doanh.
Theo cách phân loại này, vốn lưu động của doanh nghiệp có thể chia thành
3 loại:
-Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tụng thay thế, công
cụ lao động nhỏ.
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Bao gồm các khoản giá trị sản phẩm
dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.

- Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm các khoản giá trị thành
phẩm, vốn bằng tiền( kể cả vàng bạc, đá quí ); các khoản vốn đầu tư ngắn hạn
(đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn ), các khoản thế chấp, ký
cược, ký quỹ ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán.
Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của vốn lưu động trong
từng khâu của quá trình kinh doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn
lưu động sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất.
1.1.3.2. Phân loại theo hình thái biểu hiện.
Theo cách này vốn lưu động có thể chia làm 2 loại:
- Vốn vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện
bằng hiện vật cô thể như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,
thành phẩm.
-Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như: Tiền mặt tại quỹ,
tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư ngắn hạn.
1.1.3.3. Phân loại theo quan hệ sở hữu vốn.
Theo cách này người ta chia vốn lưu động thành 2 loại:
- Vốn chủ sở hữu: Là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt.Tuỳ
theo loại hình doanh nghiệp có các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở
hữu có đủ nội dung cụ thể riêng như: Vốn đầu tư ngân sách Nhà nước, vốn do
chủ doanh nghiệp bỏ ra, vốn góp cổ phần.
- Các khoản nợ: Là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay
các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua
phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được
hình thnàh bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay từ các khoản nợ. Từ đó có
các quyết định trong hoạt động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý hơn
1.1.3.4 Phân loại theo nguồn hình thành
Nếu xét theo nguồn hình thành, vốn lưu động có thể chia thành các nguồn
như sau:

- Nguồn vốn điều lệ: Là số vốn lưu động được hình thành từ các nguồn
vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn điều lệ bổ sung trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này cũng có sự khác biệt giữa
các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Nguồn vốn tự bổ sung: Là nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung trong
quá trình sản xuất kinh doanh từ lợi nhuận của doanh nghiệpđược tái đầu tư.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Là số vốn lưu động được hình thành từ
vốn góp liên doanh của các bên tham gia liên doanh.Vốn góp liên doanh có thể
bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá.
- Nguồn vốn đi vay:Vốn vay của các ngân hàng thương mại, vốn vay
bằng phát hành trái phiếu
Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh
nghiệp thấy được cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ttrong kinh
doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử
dụng của nó.Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để
giảm thấp chi phí sử dụng vốn của mình.
1.1.4. Nguồn hình thành vốn lưu động.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ
phận của vốn sản xuất kinh doanh, chúng được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau tuỳ theo mỗi doanh nghiệp có những cách huy động vốn từ các nguồn, các
đối tượng khác nhau. Để phát huy được hiệu quả của việc sử dụng vốn các doanh
nghiệp cần phải phân loại vốn lưu động sao cho phù hợp với tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp chủ yếu
được hình thành từ các nguồn sau:
1.1.4.1.Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là vốn tự có của doanh nghiệp và vốn tự bổ sung
được hình thành từ lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nguồn vốn chủ sở hữu là vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp không phải
thanh toán, nó do chủ doanh nghiệp bỏ ra và hình thành từ kết quả sản xuất kinh
doanh, nó không phải là một khoản nợ.

Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm hai phần:
Phần 1:Vốn góp của các chủ đầu tư để thành lập hay mở rộng doanh
nghiệp .
Chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể là Nhà nước, tổ chức, cá nhân tham
gia góp vốn. Đó là số vốn tối thiểu mà doanh nghiệp phải có do luật pháp quy
định trong, mỗi lĩnh vực kinh doanh. Nó vừa là cơ sở vật chất cho việc kinh
doanh của doanh nghiệp, vừa là cái để đảm bảo với bạn hàng, doanh nghiệp khác
về khả năng thanh toán của doanh nghiệp, trong mỗi lĩnh vực kinh doanh thì số
vốn pháp định mà Nhà nước đặt ra là khác nhau, doanh nghiệp phải có vốn điều
lệ,đây là số vốn thực của doanh nghiệp, theo qui định của Nhà nước thì số vốn
điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng số vốn pháp định của lĩnh vực mà doanh nghiệp
tham gia liên doanh.
Phần 2 :Vốn bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Sau mỗi kỳ kinh doanh(1 năm), vốn còn được bổ sung từ kết quả hoạt kinh
doanh của doanh nghiệp.Một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các đối
tượng: Ngân sách Nhà nước, đối với Công ty cổ phần thì chia lợi tức cho các cổ
đông và một phần được tính vào nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong cơ cấu nguồn vốn càng cao thì càng
chứng tỏ mức độ an toàn về vốn, mức độ tự chủ về vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, không phải tỷ lệ này cao nhất là tốt nhất, là hiệu quả nhất mà
điều này phụ thuộc vào từng mục đích, từng thời kỳ, từng hướng cụ thể của
doanh nghiệp.
1.1.4.2. Nguồn vốn vay.
Hiện nay, thiếu vốn là tình trạng thường gặp của các doanh nghiệp. Nguồn
vốn chủ sở hữu thì có hạn, không thể đáp ứng được tất cả nhu cầu về vốn kinh
doanh của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, khi đó doanh nghiệp phải đi
vay thêm vốn. Nguồn vốn vay ở đây rất đa dạng tức là doanh nghiệp có thể vay
vốn từ nhiều đối tượng khác nhau như: Các ngân hàng, các tư nhân, các doanh
nghiệp khác; Các hình thức vay cũng rất khác nhau như: Vay tín dụng, vay thế

chấp, phát hành cổ phiếu Đối với các doanh nhgiệp có qui mô tương đối lớn
nhu cầu vay vốn của họ cao thì vay ngân hàng chính là hình thức vay chủ yếu, lãi
suất ở đây được tính một cách hợp lý nhưng thời gian hoàn trả yêu cầu cần phải
rất chính xác. Đối với các khoản vay nhỏ và vừa phải, doanh nghiệp có thể vay
các cá nhân thông qua các mối quan hệ quen biết, Ngoài việc vay các nguồn kể
trên, doanh nghiệp có thể vay các nguồn khác nhau như: Vay của Nhà nước, vay
của nước ngoài, vay của doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có thể vay bằng tiền
hoặc có thể mua hàng chịu hàng trả chậm Nhưng dù vay của ai, vay dưới bất kỳ
hình thức nào doanh nghiệp đều phải có nghĩa vụ trả cả gốc lẫn lãi. Vấn đề đặt ra
ở đây là sẽ vay của ai, theo cách nào để đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của doanh
nghiệp mà vay được thuận lợi nhất, chỉ phải trả tiền lãi Ýt nhất.
1.1.4.3.Nguồn vốn liên doanh liên kết
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay luôn có hiện tượng: nơi thì thừa vốn,
nơi thì thiếu vốn. Vì vậy, ngoài việc đi vay vốn doanh nghiệp còn có thu hót
bằng các hình thức: Nhận góp vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu.
Từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc góp vốn liên doanh
diễn ra rất nhiều đặc biệt là sự liên doanh với các Công ty nước ngoài.Việc hợp
tác này khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, tiếp cận được các công nghệ mới của
nước ngoài đặc biệt là bổ sung thêm nguồn vốn tài chính dồi dào vào nguồn vốn
lưu động của doanh nghiệp.Nhưng do trình độ quản lý của ta còn hạn chế nên thị
trường nước ngoài nâng giá thiết bị gây thiệt thòi cho phía Việt Nam. Sau khi
liên doanh doanh nghiệp lại làm ăn thua lỗ gây những khó khăn ảnh hưởng đến
đời sống của người lao động Để tránh tình trạng đó trước khi liên doanh, các
doanh nghiệp trong nước cần phải thiết lập và nghiên cứu kỹ về hợp động liên
doanh, cần phải có các phương pháp để không bị lệ thuộc vào các đối tác nước
ngoài.
1.1.4.4. Nguồn vốn khác
Trong hoạt động kinh doanh, việc chiếm dung vốn lẫn nhau là việc xảy ra
thường xuyên.Doanh nghiệp có các khoản phải thu khó đòi thì tất nhiên cũng có

các khoản phải trả, phải nép. Các khoản này có thể là những khoản mà doanh
nghiệp nợ của người bán, khoản phải trả người mua, thuế nép cho nhà
nước Các khoản này có thể coi nhẹ là khoản vốn tự có của doanh nghiệp, mặc
dù doanh nghiệp không có quyền sở hữu nhưng vẫn được sử dụng tạm thời số
vốn này vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải trả bất kỳ một khoản
lãi nào.
1.1.5.Vai trò của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào, trong thời kỳ nào, khi tiến hành sản xuất
kinh doanh cũng đều phải có vốn. Nhất là điều kiện kinh tế thị trường hiện nay,
với sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp thì vốn càng là điều kiện quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một
số vốn nhất định, số vốn đó một phần quyết định vị thế của doanh nghiệp trên thị
trường đồng thời nó là cơ sở để doanh nghiệp nâng cao cơ sở vật chất nhằm phục
vụ tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dụng xã hội, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận
Là một phần của vốn, vốn lưu động có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử
dụng vốn, đến hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Trong quá trình chu
chuyển vốn lưu động mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn lưu động chính
là công cụ kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ và tiêu thụ vật tư trong từng thời
điểm của doanh nghiệp.Việc sử dụng vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa quan trọng
đối với tất cả các doanh nghiệp, nó cho phép khai thác tối đa năng lực làm việc
của tài sản lưu động góp phần tăng doanh thu, tăng lợi nhuận , thực hiện tốt
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Mét trong những biện pháp giúp doanh nghiệp kinh doanh thành công là
công tác vốn của doanh nghiệp phải có hiệu quả.Vốn lưu động chính là nhân tố
để tạo nên hiệu quả, thành công, điều đó đặc biệt quan trọng đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu( vốn luôn gắn liền
với mọi hoạt động của doanh nghiệp). Có thể nói, vốn lưu động luôn là một yêú
tố quan trọng đối với sự vận động, sự thành công của doanh nghiệp.
1.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH NHU CẦU VỐN LƯU ĐỘNG TRONG

DOANH NGHIỆP
Để xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết cho doanh
nghiệp có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Tuỳ theo điều kiện cụ thể
doanh nghiệp có thể lùa chọn phương pháp thích hợp.Sau đây là một số phương
pháp chủ yếu:
1.2.1. Phương pháp trực tiếp.
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là căn cứ vào các yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến việc dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để xác định
nhu cầu của từng khoản vốn lưu động trong từng khâu rồi tổng hợp lại toàn bộ
nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.
Công thức tính toán tổng quát như sau:

Trong đó:
V : Nhu cầu vốn lưu động trong doanh nghiệp
M : Mức tiêu dùng bình quân 1 ngày của loại vốn được tính
toán.
N : Sè ngày luân chuyển của loại vốn được tính toán.
i : Số khâu kinh doanh ( j = 1; k ).
j : Loại vốn sử dụng (i = 1; n ).
Mức tiêu dùng bình quân một ngày của 1 loại vốn nào đó trong khâu tính
toán được tính bằng tổng mức tiêu dùng trong kỳ (theo dự toán chi phí) chia cho
số ngày trong kỳ ( tính chẵn 360 ngày/ năm).
Số ngày luân chuyển của một loại vốn nào đó được xác định căn cứ vào các
nhân tố liên quan về số ngày luân chuyển của loại vốn đó trong từng khâu tương
ứng.
Ưu điểm của phương pháp tính toán trực tiếp là xác định được nhu cầu cụ
thể của từng loại vốn trong từng khâu kinh doanh. Do đó tạo điều kiện tốt cho
việc quản lý, sử dụng vốn theo từng loại trong từng khâu sử dụng.Tuy nhiên do
vật tư sử dụng có nhiều loại, quá trình sản xuất kinh doanh qua nhiều khâu vì thế
việc tính toán nhu cầu vốn theo phương pháp này tương đối phức tạp, mất nhiều

thời gian.
Sau đây là phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động cho từng khâu kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.1 Xác định nhu cầu VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thường phải sử dụng các loại vật tư
khác nhau. Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục doanh
nghiệp phải luôn có một số lượng vật tư dự trữ sản xuất.
Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm: Giá trị các loại nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, vật liệu đóng gói, công cụ dụng cụ
nhỏ. Đối với nhu cầu vốn nguyên vật liệu chính.
Công thức tính toán như sau:
V
nl
= M
n
. N
nl
Trong đó :
V
nl
:Nhu cầu vốn vật liệu chính năm kế hoạch.
M
n
: Mức tiêu dùng bình quân 1 ngày về chi phí nguyên vật
liệu chính năm kế hoạch.
N
nl
: Sè ngày dự trữ hợp lý.
Mức tiêu dùng bình quân 1 ngày về nguyên vật liệu chính năm kế hoạch
được xác định bằng cách lấy tổng chi phí sử dụng nguyên vật liệu chính trong

năm kế hoạch chia cho số ngày trong năm ( quy ước 360 ngày). Trong đó tổng
chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong năm được xác định căn cứ vào số lượng
sản phẩm dữ kiến sản xuất, mức tiêu dùng nguyên vật liệu chính cho mỗi đơn vị
sản phẩm và đơn giá kế hoạch của nguyên vật liệu.
Sè ngày dự trữ hợp lý về nguyên vật liệu chính là số ngày kể từ khi đưa
nguyên vật liệu vào sản xuất nó bao gồm: Số ngày hàng đi đường, số ngày nhập
kho (sau khi đã nhân với hệ số xen kẽ vốn), số ngày kiểm nhận nhập kho, số
ngày chuẩn bị sử dụng và số ngày bảo hiểm.
Đối với các khoản vốn khác trong khâu dự trữ sản xuất( như vật liệu phụ,
nhiên liệu, phụ tùng thay thế ), nếu sử dụng nhiều và thường xuyên có thể áp
dụng phương pháp tính toán như đối với các khoản vốn nguyên vật liệu chính đã
nêu ở trên.
Ngược lại, đối với các khoản vốn được sử dụng không nhiều và không
thường xuyên, mức tiêu dùng Ýt biến động thì có thể áp dụng phương pháp tính
tỷ lệ (%) với tổng mức luân chuyển của loại vốn đó trong khâu dự trữ sản xuất.
Công thức tính toán như sau:
V
nk
= M
lc
. T%
Trong đó :
V
nk
: nhu cầu vốn trong khâu dự trữ sản xuất.
M
lc
: Tổng mức luân chuyển của loại vốn đó trong khâu dự trữ.
T% : Tỷ lệ % của các loại vốn đó so với tổng mức luân
chuyển.

1.2.1.2. Xác định vốn lưu động trong khâu sản xuất.
Vốn lưu động trong khâu sản xuất gồm vốn sản xuất sản phẩm đang chế
tạo ( sản phẩm dở dang), vốn chi phí chờ kết chuyển.
•Xác định nhu cầu vốn sản phẩm đang chế tạo.
Sù tồn tại của các loại sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất là cần
thiết để đảm bảo hoạt hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp được tiến hành
liên tục.Tuy nhiên việc xác định nhu cầu vốn sản phẩm đang chế tạo trong khâu
sản xuất là tương đối phức tạp do mức độ gia tăng chi phí không phải bao giê
cũng được phân bổ đồng đều theo thời gian hay giai đoạn chế biến sản phẩm và
hệ số sản phẩm đang chế tạo.
Công thức tính toán như sau:
V
đc
= P
n
. C
k
. H
s
Trong đó:
V
đc
: Nhu cầu vốn sản phẩm đang chế tạo.
P
n
: Mức chi bình quân 1 ngày.
C
k
: Chu kỳ sản xuất sản phẩm.
H

s
: Hệ số sản phẩm đang chế tạo.
Tích số giữa chu kỳ sản xuất và hệ số sản phẩm đang chế tạo phản ánh số
ngày luân chuyển của vốn sản phẩm đang chế tạo.
Mức chi phí sản xuất bình quân 1 ngày được tính bằng cách lấy tổng mức
chi phí chi ra trong kỳ kế hoạch chia cho số ngày trong kỳ (360 ngày).Trong đó
tổng mức chi phí trong kỳ kế hoạch lại được tính bằng cách nhân số lượng sản
phẩm sản xuất kỳ kế hoạch với giá thành sản xuất đơn vị của từng loại sản phẩm.
Chu kỳ sản xuất sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi đưa nguyên vật
liệu vào sản xuất cho đến khi sản phẩm được chế tạo xongvà kiểm tra nhập kho.
Độ dài chu kỳ sản xuất phụ thuộc vào thời gian quá trìnhlao động và thời gian
quá trình tự nhiên trong quá trình sản xuất. Việc xác định chu kỳ sãnuất tốt nhất
là căn cứ vạo kết quả tính toán của các phòng kỹ thuật- công nghệ sản xuất.
Hệ số sản phẩm đang chế tạo là tỷ lệ% giữa giá thành bình quân sản phẩm
đang chế tạo và giá thành sản xuất sản phẩm. Hệ số này cao hay thấp phụ thuộc
vào tình hình bỏ chi phí vào quá trình sản xuất sản phẩm. Nếu phần lớn chi phí
được bỏ ngay từ giai đoạn đầu của quá trình sản xuất thì hệ số này sữ cao và
ngược lại.
•Xác định nhu cầu vốn chi phí chờ kết chuyển( chi phí phân bổ dần)
Chi phí chờ kết chuyển là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng
chưa tính hết vào giá trị sản phẩm trong kỳ mà được phân bổ vào nhiều kỳ tiếp
theo để phản ánh đúng đắn tác dụng của chi phí và không gây biến động lớn đến
giá thành sản phẩm.
Chi phí chờ kết chuyển có thể gồm: Các chi phí sửa chữa lớn, chi phí
nghiên cứu, thí nghiệm, chi phí công cụ lao động nhỏ xuất dùng một lần có giá
trị lớn, chi phí các công trình tạm, ván khuôn, giàn giáo XDCB, chi phí trong
thời gian ngừng việc có tính chất thời vụ
Để xác định vốn chi phí chờ kết chuyển phải căn cứ vào số dư chi phí chờ
kết chuyển đầu kỳ, số chi phí chờ kết chuyển phát sinh trong kỳ và số chi phí
chờ kết chuyển dự kiến phân bổ vào giá thành sản phẩm trong kỳ.

Công thức tính toán như sau:
V
pb
= V
pd
+ V
pt
- V
pg
Trong đó:
V
pb
: Vốn chi phí chờ kết chuyển trong kỳ kế hoạch.
V
pd
: Vốn chi phí chờ kết chuyển đầu kỳ kế hoạch.
V
pt
: Vốn chi phí chờ kết chuyển tăng trong kỳ.
V
pg
: Vốn chi phí chờ kết chuyển vào giá thành sản phẩm trong kỳ kế
hoạch
1.2.1.3. Xác định vốn lưu động trong khâu lưu thông.
Là nhu vốn lưu động để lưu giữ, bảo quản sản phẩm, thành phẩm ở kho
thành phẩm với qui mô cần thiết trước khi xuất giao cho khách hàng.
Công thức tính toán như sau:
V
tp
= Z

sx
× N
tp
Trong đó :
V
tp
: Vốn thành phẩm kỳ kế hoạch.
Z
sx
: Giá thành sản xuất sản phẩm hàng hoá bình quân mỗi ngày
kỳ kế hoạch.
N
tp
: Sè ngày luân chuyển của vốn thành phẩm.
Giá thành sản xuất sản phẩm hàng hoá bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch
được tính bằng cách lấy tổng giá thành sản xuất sản phẩm hàng hoá cả năm chia
cho số ngày trong kỳ ( 360 ngày).
Sè ngày luân chuyển vốn thành phẩm là khoảng thời gian từ khi sản xuất
thành phẩm được nhập kho cho đến khi đưa đi tiêu thụ và thu được tiền về. Số
ngày này bao gồm số ngày dự trữ ở kho thành phẩm, số ngày sản xuất kho vận
chuyển, số ngày thanh toán.
Sè ngày dự trữ ở kho thành phẩm là số ngày kể từ lúc thành phẩm nhập cho
đến khi được xuất kho đi tiêu thụ. Để xác định số ngày cần căn cứ vào hợp đồng
tiêu thụ và khả năng sản xuất bình quân mỗi ngày của doanh nghiệp. Để tính số
ngày dự trữ hợp lý cần nhân với hệ số xen kẽ vốn thành phẩm cũng giống như
khi tính hệ số xen kẽ vốn dự trữ nguyên vật liệu chính.
Số ngày xuất kho và vận chuyển là số ngày cần thiết để đưa hàng từ kho
của doanh nghiệp đến địa điểm giao hàng. Nếu doanh nghiệp giao hàng tại
doanh nghiệp thì không cần tính số ngày này.
Số ngày thanh toán là số ngày từ khi lập chứng từ thanh toán cho đến khi

thu được tiền về.
Công thức trên có thể áp dụng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong từng
trường hợp cụ thể cần có sự xem xét, vận dụng cho phù hợp với đặc điểm riêng
của từng đơn vị. Ví dụ sản phẩm điện không có tời gian dự trữ và thời gian xuất
kho, vận chuyển mà chỉ cố thời gian thanh toán. Đối với sản phẩm xây lắp được
thi công ngay tại thời điểm sử dụng chúng sau này nên không phải tính thời gian
nhập kho và vận chuyển tới nơi tiêu thụ. Hơn nữa sản phẩm xây lắp chủ yếu
được thi công theo đơn đặt hàng và được nghiệm thu, bàn giao ngay sau khi
hoàn thành nên cũng không phải tính thời gian dự trữ thành phẩm.
Sau khi xác định nhu cầu vốn lưu động trong từng loại vốn trong từng khâu
kinh doanh, tổng hợp lại sẽ có toàn bộ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp
trong kỳ kế hoạch.
1.2.2. Phương pháp gián tiếp.
Đặc điểm của phương pháp gián tiếp là dùa vào kết quả thống kê kinh
nghiệm về vốn lưu động bình quân năm bao cáo, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
năm kế hoạch và khả năng tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động năm kế
hoạch .Để xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp năm kế hoạch:
Công thức tính toán như sau:

Trong đó :
V
nc
: Nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch
V
lĐo
: Số dư bình quân vốn lưu động năm báo cáo
M
1
, M
0

: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch và
năm báo cáo.
t% : Tỷ lệ giảm( hoặc tăng) số ngày luân chuyển vốn lưu
động năm kế hoạch so với năm báo cáo.
Cách xác định tổng mức luân chuyển và số vốn lưu động bình quân sẽ được
xác định ở các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Tỷ lệ giảm ( hoặc tăng) số ngày luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch so
với năm báo cáo được xác định theo công thức:


Trong đó :
t% : Tỷ lệ giảm (hoặc tăng) số ngày luân chuyển vốn lưu động
năm kế hoạch so với năm báo cáo.
K
1
: Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch.
K
o
: Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm báo cáo.
Trên thực tế để ước đoán nhanh nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch các
doanh nghiệp thường sử dụng các phương pháp tính toán căn cứ vào tổng mức
luân chuyển vốn và vòng quay vốn lưu động dù tính năm kế hoạch.
Công thức tính toán như sau:

Trong đó :
M
1
: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch.
L
1

: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động năm báo cáo.
Việc dự tính tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch có thể dùa vào tổng
mức luân chuyển vốn của kỳ báo cáo có xét tới khả năng mở rộng qui mô kinh
doanh trong năm kế hoạch. Tương tự số vòng quay vốn năm kế hoạchcó thể
được xác định căn cứ vào số vòng quay vốn lưu động bình quân của các doanh
nghiệp trong cùng ngành hoặc số vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp kỳ
báo cáo có xét tới khả năng tốc độ luân chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch so với
kỳ báo cáo.
Phương pháp gián tiếp trong xác định nhu cầu vốn lưu động có ưu điểm là
tương đối đơn giản, giúp doanh nghiệp ước tính được nhanh chóng nhu cầu vốn
lưu động năm kế hoạch để xác định nguồn tài trợ phù hợp.
1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
TRONG DOANH NGHIỆP
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp có thể
sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
1.3.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở
tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Vốn lưu
động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp càng cao và ngược lại.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số lần luân
chuyển (số vòng quay của vốn ) và kỳ luân chuyển vốn (số ngày của một vòng
quay vốn). Số lần luân chuyển vốn lưu động phản ánh số vòng quay vốn được
thực hiện trong thời kỳ nhất định, thường tính trong một năm.
Công thức tính toán như sau:


Trong đó :
L : Sè lần luân chuyển ( sè vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ.
M : Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kỳ.

V

: Vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Kỳ luân chuyển vốn phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn
lưu động.
Công thức tính toán như sau :


Trong đó :
K : Kỳ luân chuyển vốn lưu động.
Vòng quay vốn lưu động càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút
ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
Trong các công thức trên, tổng mức luân chuyển vốn phản ánh giá trị luân
chuyển của doanh nghiệp thực hiện trong kỳ, nó được xác định bằng tổng doanh
thu trừ đi các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải nép cho ngân sách Nhà
nước.
Sè vốn lưu động bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân
số vốn lưu động trong từng quí hoặc từng tháng.
Công thức tính toán như sau:





Trong đó :
V

: Vốn lưu động bình quân trong kỳ.
V
đq1

: Vốn lưu động đầu quí 1
V
q1
,V
q2
,V
q3
,V
q4
: Vốn lưu động bình quân các quí 1,2,3,4
V
cq1
, V
cq2
, V
cq3
: Vốn lưu động cuối quí 1,2,3,4
1.3.2 Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển.
Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn được biểu hiện
bằng hai chỉ tiêu:
- Mức tiết kiệm tuyệt đối: là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh
nghiệp có thể tiết kiệm được một số vốn lưu động để sử dụng vào công việc
khác. Nói một cách khác với mức luân chuyển vốn không thay đổi ( hoặc lớn
hơn báo cáo) so với tốc độ tăng tốc độ luân chuyển nên doanh nghiệp cần số vốn
Ýt hơn.
Công thức tính toán như sau:


Trong đó :
V

tktđ
: Vốn lưu động tiết kiệm tương đối.
V
lĐo
, V
lĐ1
: Vốn lưu động bình quân kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch.
M
0
: Tổng mức luân chuyển vốn năm báo cáo.
K
1
: Kỳ luân chuyển vốn năm kế hoạch.
- Mức tiết kiệm tương đối: Là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh
nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm
hoặc tăng không đáng kể qui mô vốn lưu động.
Công thức tính toán như sau:


Trong đó :
V
tktgđ
: Vốn lưu động tiết kiệm tương đối
M
1
: Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch
K
0
, K
1

: Kỳ luân chuyển vốn năm kế hoạch
1.3.3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Là chỉ tiêu phản ánh số doanh thu tạo ra được tạo ra trên vốn lưu động bình
quân là cao hay thấp.
Công thức tính toán như sau:

1.3.4. Hàm lượng vốn lưu động.
Là chỉ tiêu phản ánh mức đảm nhận về vốn lưu động để tạo ra doanh thu.
Đó là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Chỉ tiêu này ngày càng lớn thì mức đảm nhận của vốn lưu động càng cao
trong doanh thu.
Chỉ tiêu này được đánh giá theo nghành.
Ngành công nghiệp nặng chỉ tiêu này thấp vì vốn lưu động chiếm trong
tổng vốn thấp. Nguợc lại, ngành công nghiệp nhẹ chỉ tiêu này cao vì vốn lưu
động chiếm trong tổng số lớn ( tối đa là 90%).

1.3.5. Mức doanh lợi vốn lưu động.
Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi
nhuận sau thuế thu nhập) chia cho số vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập). Mức doanh lợi vốn lưu
động càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là vấn đề cần thiết với
mọi doanh nghiệp vì yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh, nó quyết
định đầu ra và giá bán của sản phẩm đó, mà giá bán là một trong những chiến
lược cạnh tranh hàng đầu trong việc thu hót khách hàng nhằm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp.
1.4. NỘI DUNG QUẢN TRỊ VỐN LƯU ĐỘNG.
1.4.1. Quản trị vốn bằng tiền.
Tiền mặt tại quỹ là một bộ phận quan trọng cấu thành vốn bằng tiền của

doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự
trữ tiền mặt hay tiền mặt tương đương( các chứng khoán có khả năng chuyển đổi
thành tiền mặt dễ dàng) ở một qui mô nhất định.
Qui mô vốn tiền mặt là kết quả thực hiện nhiều quyết định kinh doanh trong
các thời kỳ trước, song vịêc quản trị vố tiền mặt không phải là một công việc thụ
động. Nhiệm vụ quản trị vốn tiền mặt do đó không phải chỉ là đảm bảo cho
doanh nghiệp có đầy đủ lượng vốn tiền mặt cần thiết để đáp ứng kịp thời các nhu
cầu thanh toán mà quan trọng hơn là tối ưu hoá số ngân quỹ hiện có, giảm tối đa
các rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái và tối ưu hoá việc đi vay ngắn hạn hoặc
đầu tư kiếm lời.
Nội dung quản trị vốn tiền mặt trong doanh nghiệp thông thường bao gồm:
1.4.1.1. Xác định mức tồn quỹ tối thiểu.

×